|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
MỘT
- 4
-
XX. Phẩm Thiện Tri Thức
-
-
1. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nên gần gũi Thiện
tri thức, chớ lập theo hạnh ác, chớ tin vào nghiệp ác. Vì sao
thế? Gần gũi Thiện tri thức rồi, niềm tin liền tăng thêm, giới,
văn, thí, trí tuệ thảy đều tăng thêm. Nếu Tỳ-kheo gần gũi Thiện
tri thức thì chớ tập theo hạnh ác. Vì sao thế? Nếu gần gũi Ác
trí thức, sẽ không có tín, giới, văn, thí, trí tuệ. Thế nên các
Tỳ-kheo! Hãy gần gũi Thiện tri thức, chớ gần gũi Ác tri thức.
Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
2. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở thành
La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với đại chúng Tỳ-kheo gồm
năm trăm vị vây quanh trước sau mà thuyết pháp.
-
Bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa
dẫn năm trăm Tỳ-kheo đi qua, các Thế Tôn không xa. Thế Tôn từ xa
trông thấy Ðề-bà-đạt-đa dẫn môn đồ liền nói kệ:
-
Chớ gần Ác tri thức,
-
Cũng chớ ngu theo
hầu.
-
Nên gần Thiện tri
thức,
-
Bậc tối thắng trong
Người.
-
Người vốn không có
ác,
-
Tập gần Ác tri thức,
-
Sau ắt trồng cội ác,
-
Ở mãi trong tăm tối.
-
Lúc đó năm trăm đệ tử
của Ðề-bà-đạt-đa nghe Thế Tôn nói bài kệ này, liền đến chỗ Thế
Tôn cúi lạy, ngồi xuống một bên. Chốc lát, lui ngồi hướng về Thế
Tôn hối lỗi:
-
- Chúng con ngu mê
không hiểu biết gì. Cúi mong Thế Tôn cho chúng con sám hối.
-
Bấy giờ Thế Tôn nhận
lời sám hối của năm trăm Tỳ-kheo kia, liền thuyết pháp cho họ
được tín căn. Lúc ấy, năm trăm Tỳ-kheo ở chỗ nhàn tĩnh, suy nghĩ
pháp thâm sâu. Sở dĩ như vậy, con nhà vọng tộc xuất gia học đạo,
do lòng tin kiên cố tu Phạm hạnh vô thượng. Bấy giờ năm trăm
Tỳ-kheo ấy liền thành A-la-hán, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã
lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân sau nữa, như
thật mà biết. Bấy giờ năm trăm Tỳ-kheo thành A-la-hán.
-
Các Tỳ-kheo nghe Phật
dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
3. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn vì vô
số chúng vây quanh thuyết pháp.
-
Lúc đó ngài
Ðàm-ma-lưu-chi ở trong thất vắng, một mình suy nghĩ, nhập
tam-muội thiền, xem thấy tiền thân ở trong biển lớn làm một con
cá thân dài bảy trăm do-tuần, liền từ tịnh thất đứng lên như
trong khoảng lực sĩ co duỗi cánh tay đến trên tử thi cũ trong
biển lớn đi kinh hành. Bấy giờ Ðàm-ma-lưu-chi liền nói kệ này:
-
Sanh tử vô số kiếp,
-
Lưu chuyển không thể
kể,
-
Mỗi mỗi cầu chỗ yên,
-
Thường thường chịu
khổ não.
-
Dù thấy lại thân rồi,
-
Ý muốn tạo nhà cửa,
-
Tất cả chi tiết hoại,
-
Hình thể chẳng được
toàn.
-
Tâm đã lìa các hạnh,
-
Ái trước trọn không
sót,
-
Lại không thọ thân
này,
-
Vui mãi trong
Niết-bàn.
-
Bấy giờ Tôn giả
Ðàm-ma-lưu-chi nói kệ này xong, liền từ chỗ đó biến mất, đến chỗ
Thế Tôn ở tinh xá Kỳ Hoàn, thuộc Xá-vệ. Khi ấy Thế Tôn thấy ngài
Ðàm-ma-lưu-chi đến bèn bảo rằng:
-
- Lành thay,
Ðàm-ma-lưu-chi! Lâu lắm mới đến đây!
-
Ngài Ðàm-ma-lưu-chi
bạch Phật:
-
- Ðúng vậy, Thế Tôn!
Ðã lâu con mới đến đây.
-
Bấy giờ, Thượng tọa
và các Tỳ-kheo đều nghĩ:
-
- Ông Ðàm-ma-lưu-chi
này hằng ở bên cạnh Thế Tôn mà nay Thế Tôn bảo là: 'Lành thay,
Ðàm-ma-lưu-chi! Lâu lắm mới đến đây!'.
-
Thế Tôn biết tâm niệm
các Tỳ-kheo như thế, muốn dứt sự hồ nghi nên lại bảo các
Tỳ-kheo:
-
- Không phải vì
Ðàm-ma-lưu-chi lâu đến đây mà Ta nói nghĩa này. Sở dĩ như thế vì
khi xưa, vô số kiếp thời quá khứ có Ðịnh Quang Như lai Chí Chân
Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện
ở đời, giáo hóa tại nước Bát-ma-đại, cùng với mười bốn vạn tám
ngàn đại chúng Tỳ-kheo. Bấy giờ, bốn bộ chúng chẳng thể tính kể,
quốc vương, quần thần, nhân dân đều đến cúng dường, cung cấp chỗ
cần dùng.
-
Khi ấy có Phạm chí
tên Da-nhã-đạt ở cạnh Tuyết Sơn xem các bài sấm bí mật, thiên
văn, địa lý đều rành rẽ thông suốt, thư sớ văn tự cũng đều rõ
biết; phúng tụng một câu năm trăm lời, tướng của bậc đại nhân
cũng rõ biết nữa. Ông ta thờ các thần lửa, mặt trời, mặt trăng
tinh tú. Ông dạy năm trăm đệ tử cả đêm không mệt mỏi. Da-nhã-đạt
có đệ tử tên Vân Lôi, nhan mạo đoan chánh ít có ở đời, tóc màu
xanh biếc. Phạm chí Vân Lôi thông minh thấy rộng, không việc gì
chẳng thông, hằng được Da-nhã-đạt yêu mến không rời một khoảnh
khắc.
-
Bấy giờ Bà-la-môn đưa
ra tất cả những chú thuật mình hành hết rồi, Phạm chí Vân Lôi
nghĩ rằng: 'Nay ra đã học đầy đủ những chỗ đáng học rồi'. Và lại
tự nghĩ: 'Sách vở ghi các Phạm chí có học, người đã hành chú
thuật xong, nên báo ân thầy. Ngày nay, chỗ đáng học ta đã đều
biết hết. Nay ta phải nên báo ân thầy. Nhưng ta lại nghèo khó,
trống trơn, không có gì để cúng dường thầy, phải nên đi xuống
các cõi nước để tìm những vật cần'.
-
Phạm chí Vân Lôi liền
đến chỗ thầy, bạch với thầy rằng:
-
- 'Pháp kỹ thuật mà
Phạm chí phải học, nay con đã biết hết rồi. Nhưng sách vở ghi
chép những người có học kỹ thuật qua rồi, nên báo ân Thầy, mà
con nghèo thiếu, không có vàng bạc trân bảo có thể dùng cúng
dường, nay muốn đến các cõi nước tìm kiếm tiền của để cúng dường
thầy'.
-
Bà-la-môn Da-nhã-đạt
liền nghĩ: 'Phạm chí Vân Lôi này là người ta yêu mến không rời
tâm, dù ta có chết cũng chẳng thể chia lìa, huống là hôm nay
muốn bỏ ta đi. Nay ra phải làm cách gì để lưu hắn lại được đây?'
-
Bấy giờ, Phạm chí
Da-nhã-đạt liền bảo Vân Lôi:
-
- 'Này Phạm chí! Nay
vốn có điều Bà-la-môn nên học mà Ông vẫn chưa biết'.
-
Phạm chí Vân Lôi liền
đến trước bạch thầy:
-
- 'Cúi mong Thầy chỉ
dạy, điều gì con chưa tụng?'
-
Vị thầy bảo Vân Lôi
rằng:
-
- 'Nay có sách này
tên là bài tụng năm trăm lời. Ông có thể thọ trì'.
-
Vân Lôi bạch:
-
- 'Mong Thầy truyền
dạy, con muốn được phúng tụng'.
-
Tỳ-kheo nên biết! Khi
ấy Da-nhã-đạt liền trao cho đệ tử bài tụng năm trăm lời này.
Chưa đầy mấy ngày, vị đệ tử đã thông suốt hết. Bấy giờ Bà-la-môn
Da-nhã-đạt bảo năm trăm đệ tử:
-
- 'Phạm chí Vân Lôi
này kỹ thuật đầy đủ, không gì chẳng thông, nay ta đặt tên là
Siêu Thuật'.
-
Phạm chí Siêu Thuật
này thật là tài ba, thiên văn, địa lý đều thấu suốt rộng rãi,
thư sớ văn tự cũng rõ biết. Phạm chí Siêu Thuật trải qua mấy
ngày lại đến bạch thầy:
-
- 'Pháp kỹ thuật mà
Phạm chí phải học, nay con đều biết rồi. Nhưng sách vở ghi chép:
Các người có học thuật qua rồi, nên báo ân Thầy; nhưng con nghèo
thiếu, không có vàng bạc, trân bảo có thể dùng cúng dường Thầy,
nay con muốn đến cõi nước tìm tiền của dùng cúng dường Thầy. Cúi
mong Thầy chấp thuận'.
-
Phạm chí Da-nhã-đạt
bảo:
-
- 'Ông biết đúng
lúc'.
-
Phạm chí Siêu Thuật
đến trước lễ chân thầy rồi lui đi.
-
Bấy giờ nước
Bát-ma-đại cách thành chẳng xa, có chúng Phạm chí tập trung một
chỗ, muốn cúng tế chung và cũng muốn giảng luận, có đến tám vạn
bốn ngàn Phạm chí nhóm chung. Vị thượng tọa đệ nhất, cũng lại
phúng tụng thư sớ ngoại đạo, không gì không biết rành rẽ, thiên
văn, địa lý, tinh tú, biến quái đều biết rõ hết. Mỗi lúc muốn
giải tán, họ liền lấy năm trăm lượng vàng và một cây gậy vàng,
một bồn tắm bằng vàng, một ngàn con trâu dâng lên vị thầy và
thượng tọa đệ nhất.
-
Khi ấy Phạm chí Siêu
Thuật nghe cách nước Bát-ma-đại không xa, có tám vạn bốn ngàn
Phạm chí tụ tập một chỗ, họ có thi học thuật, người nào hơn liền
được năm trăm lượng vàng và một cây gậy, một bồn tắm vàng với
một con ngàn con trâu.
-
Lúc ấy Phạm chí Siêu
Thuật tự nghĩ: 'Nay ta việc gì phải đi xin từng nhà, chẳng bằng
đến đại chúng kia cùng so kỹ thuật'.
-
Bấy giờ Phạm chí Siêu
Thuật ấy liền đến chỗ đại chúng. Lúc đó, rất đông Phạm chí trông
thấy Phạm chí Siêu Thuật từ xa, đều cất tiếng kêu lớn:
-
- 'Lành thay, Từ chủ
(Chủ tể)! Hôm nay được lợi lớn khiến cho Phạm chí đích thân
giáng xuống.'
-
Rồi tám vạn bốn ngàn
các Phạm Chí đều đứng lên nghinh đón, khác miệng đồng âm mà nói
rằng:
-
- 'Chào mừng Ngài mới
đến! Ðại Phạm Thần Thiên'.
-
Phạm Chí Siêu Thuật
liền sanh niệm này:
-
- 'Các Phạm chí này
gọi ta là Phạm Thiên, nhưng ta đâu phải là Phạm thiên!'
-
Phạm chí Siêu Thuật
bảo các Bà-la-môn:
-
- 'Thôi, thôi! Chư
Hiền! Chớ gọi tôi là Phạm thiên, các ông chẳng lẽ không nghe
phía Bắc núi Tuyết có vị thầy của chúng Phạm chí tên Da-nhã-đạt,
thiên văn, địa lý đều thông suốt sao?'
-
Các Phạm chí nói:
-
- 'Chúng tôi có nghe
nhưng không được thấy.'
-
Phạm chí Siêu Thuật
nói:
-
- 'Tôi là đệ tử của
vị ấy, tên Siêu Thuật'
-
Bấy giờ Phạm chí Siêu
Thuật hướng về vị thượng tọa đệ nhất của chúng ấy mà bảo rằng:
-
- 'Nếu ngài biết kỹ
thuật, xin nói cho tôi với.'
-
Vị thượng tọa đệ nhất
của chúng ấy liền hướng về Phạm chí Siêu Thuật, tụng Tam tạng,
kỹ thuật không có sơ sót. Bà-la-môn Siêu Thuật lại bảo thượng
tọa kia rằng:
-
- 'Còn một câu năm
trăm lời, nay hãy nói ra'.
-
Vị thượng tọa kia
nói:
-
- 'Tôi không hiểu
nghĩa này! Cái gì là một câu năm trăm lời?'
-
Phạm chí Siêu Thuật
bảo:
-
- 'Chư Hiền! Hãy yên
lặng lắng nghe tôi thuyết một câu năm trăm lời về tướng của bậc
đại nhân'.
-
Tỳ-kheo nên biết! Bấy
giờ Phạm chí Siêu Thuật thuật hết Tam tạng và một câu năm trăm
lời về tướng của bậc đại nhân. Khi ấy tám vạn bốn ngàn Phạm chí
khen ngợi:
-
- 'Chưa từng có! Rất
là kỳ quặc! Chúng ta chưa hề nghe một câu năm trăm lời ta về
tướng của bậc Ðại nhân. Nay Tôn giả xứng đáng đứng trên vị
thượng tọa đệ nhất.'
-
Bấy giờ Phạm chí Siêu
Thuật đổi chỗ vị thượng tọa kia, đến ngồi chỗ cao nhất. Lúc ấy
vị thượng tọa của chúng kia hết sức giận sữ, phát lời thề nguyện
rằng: 'Nay người này dời chỗ ngồi của ta mà chiếm chỗ ấy. Nay
phước mà ta có được do tụng kinh, trì giới, khổ hạnh đều đem hết
để thề: Người này sanh chỗ nào, muốn làm gì, ta hằng làm hư hỏng
công lao của ông ta'.
-
Bấy giờ vị thí chủ
kia bỏ ra năm trăm lạng vàng và một gậy vàng, một bồn tắm vàng,
một ngàn con trâu và một cô gái đẹp, đem đưa cho thượng tọa để
chú nguyện. Lúc đó thượng tọa bảo chủ nhân rằng:
-
- Nay tôi nhận năm
trăm lạng vàng này với gậy vàng, bồn vàng để cúng dường Thầy
tôi. Cô gái này và ngàn con trâu trả lại chủ nhân. Vì sao thế?
Vì tôi không tập dục, cũng không chứa chất tài sản.
-
Phạm chí Siêu Thuật
nhận gậy vàng, bồn vàng rồi, liền đến nước Bát-ma-đại. Vua nước
này tên là Quang Minh. Lúc ấy, quốc vương đang thỉnh Ðịnh Quang
Như Lai và chúng Tỳ-kheo để cúng dường y thực. Quốc vương ra
lệnh nhân dân trong thành: 'Ai có hương hoa đều không được bán,
nếu có người bán sẽ bị phạt nặng. Ta sẽ xuất tiền mua, không cần
bán cho người khác'. Vua lại ra lệnh cho nhân dân quét dọn sạch
sẽ, không cho đất cát dơ bẩn, treo giăng phướn lọng, rưới nước
hương trên đất, kỹ nhạc xướng ca không thể tính kể.
-
Bấy giờ Phạm chí kia
thấy rồi, liền hỏi người đi đường:
-
- 'Hôm nay là ngày gì
mà quét dọn đường sá, dẹp bỏ rác rến, treo giăng phướn lọng
không thể tính kể, chẳng lẽ thái tử của vua lấy vợ chăng?'
-
Người đi đường đáp:
-
- 'Phạm chí không
biết sao? Hôm nay quốc vương Bát-ma-đại thỉnh Ðịnh Quang Như Lai
Chí Chân Ðẳng Chánh Giác để cúng dường y thực, nên sửa sang
đường sá, treo giăng phướn lọng.'
-
- 'Nhưng bi ký của
Phạm chí cũng có nói rằng: 'Như Lai ra đời rất khó gặp được.
Ðúng lúc bèn xuất hiện, thật không thể thấy, ví như hoa
Ưu-đàm-bát đúng thời mới nở. Ðây cũng như thế, Như Lai xuất hiện
ở đời thật chẳng thể gặp'. Lại nữa, sách Phạm chí cũng có nói;
'Có hai người ra đời rất khó được gặp. Thế nào là hai người? Là
Như Lai và Chuyển luân Thánh vương. Hai người này xuất hiện rất
khó gặp được'.
-
Bấy giờ ông ta lại
nghĩ rằng:
-
- 'Nay ta đâu cần cấp
tốc báo ân thầy. Nay hãy đem năm trăm lượng vàng này, dâng lên
Ðịnh Quang Như Lai'.
-
Ông lại nghĩ: 'Sách
vở ghi Như Lai không nhận vàng bạc trân bảo. Ta có thể cầm năm
trăm lượng vàng này mua hương hoa rải lên Như Lai.'
-
Bấy giờ Phạm chí liền
vào trong thành tìm mua hương hoa. Mọi người qua lại trong thành
bảo:
-
- 'Phạm chí không
biết sao? Quốc vương có ra lệnh người nào bán hương sẽ phạt
nặng.'
-
Phạm chí Siêu Thuật
liền nghĩ: 'Ta thật phước mỏng, tìm hoa chẳng được biết làm thế
nào?'
-
Rồi ông trở ra cửa
thành mà đứng. Bấy giờ có một cô gái Bà-la-môn tên là Thiện Vị,
cầm bình đi lấy nước, tay cầm năm cành hoa. Phạm chí thấy rồi
hỏi cô gái ấy rằng:
-
- 'Ðại muội, nay tôi
cần hoa, mong Em bán cho tôi'.
-
Cô gái Phạm chí nói:
-
- 'Tôi em gái ông hồi
nào? Ông có biết ba má tôi không?'
-
Phạm chí Siêu Thuật
lại nghĩ: 'Cô gái này tánh nết phóng khoáng, có ý đùa cợt'. Rồi
ông nói rằng:
-
- 'Hiền nữ! Tôi sẽ
trả giá phải chăng, mong cho tôi hoa này'.
-
Cô gái Phạm chí nói:
-
- 'Há Ông không nghe
Ðại vương ra nghiêm lệnh không được bán hoa sao?'
-
Phạm chí nói:
-
- 'Hiền nữ! Việc này
không khó. Vua không làm gì cô đâu! Nay tôi cần gấp năm cành hoa
này. Tôi được hoa này còn cô được giá hời.'
-
Cô gái Phạm chí nói:
-
- 'Hoa này đã lìa rễ,
không thể sống được, làm sao lại nói 'tôi muốn trồng?'
-
Phạm chí đáp:
-
- 'Như chỗ ruộng tốt
hôm nay tôi thấy, trồng tro nguội còn sống hà huống hoa này!'
-
Cô gái Phạm chí nói:
-
- 'Cái gì là ruộng
tốt? Trồng tro thế mà sống sao?'
-
Phạm chí đáp:
-
- 'Hiền nữ! Có Phật
Ðịnh Quang Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời.'
-
Cô gái Phạm chí nói:
-
- 'Ðịnh Quang Như Lai
là hạng người nào?'
-
Phạm chí liền bảo cô
gái ấy rằng:
-
- 'Ðịnh Quang Như Lai
có đức như thế, có giới như thế, thành tựu các công đức.'
-
Cô gái Phạm chí nói:
-
- 'Dù người có công
đức, nhưng Ông muốn cần phước gì?'
-
Phạm chí đáp:
-
- 'Mong đời sau tôi
sẽ như Ðịnh Quang Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, cấm giới,
công đức cũng sẽ như thế.'
-
Cô gái Phạm chí nói:
-
- 'Nếu Ông hứa với
tôi đời đời làm vợ chồng, tôi sẽ cho Ông hoa.'
-
Phạm chí nói:
-
- 'Nay việc làm của
tôi, ý không dính mắc dục tình.'
-
Cô gái Phạm chí nói:
-
- 'Như tôi, thân bây
giờ không mong làm vợ Ông, cho tôi đời tương lai làm vợ Ông.'
-
Phạm chí Siêu Thuật
nói:
-
- 'Hạnh của Bồ-tát
không có yêu tiếc. Nếu làm vợ tôi, ắt phá hoại tâm tôi.'
-
Cô gái Phạm chí nói:
-
- ' Tôi trọn không
làm hỏng ý bố thí của Ông, ngay cho đem thân tôi bố thí cho
người, tôi trọn không làm hỏng tâm bố thí.'
-
Bấy giờ Phạm chí liền
đem năm trăm lạng vàng mua năm cành hoa, cùng cô gái kia thề
nguyền với nhau rồi từ biệt đi.
-
Lúc ấy, Ðịnh Quang
Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, đến giờ đắp y ôm bát cùng
Tỳ-kheo Tăng trước sau vây quanh vào nước Bát-ma-đại. Phạm chí
Siêu Thuật từ xa thấy Ðịnh Quang Như Lai, nhan mạo đoan chánh,
ai trông thấy cũng hoan hỉ, các căn tịch tịnh, bước đi không rối
loạn, có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, ví như nước lặng
không có dơ đục, ánh sáng chiếu suốt không có chướng ngại, ví
như núi báu xuất hiện vượt trên các núi. Ông ta thấy rồi liền
phát tâm hoan hỉ đối với Như Lai, ông cầm năm cành hoa đến chỗ
Ðịnh Quang Như Lai, đến rồi đứng một bên. Phạm chí Siêu Thuật
bạch Phật Ðịnh Quang rằng:
-
- 'Mong Ngài nhận và
thuyết pháp cho con. Nếu nay Ngài không truyền yếu quyết cho
con, con sẽ ở chỗ này chấm dứt mạng sống, không mong sống nữa.'
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
rằng:
-
- 'Phạm chí! Ðâu thể
đem năm cành hoa này đòi truyền Vô Thượng Ðẳng Chánh Giác.'
-
Phạm chí bạch:
-
- 'Xin Thế Tôn thuyết
pháp 'Bồ-tát sở hành cho con'.
-
Phạt Ðịnh Quang nói:
-
- 'Sở hành của Bồ-tát
là không chỗ yêu tiếc.'
-
Bấy giờ Phạm chí liền
nói kệ:
-
Chẳng dám đem cha mẹ,
-
Cầm thí cho người
ngoài,
-
Phật, Chân nhân, Sư
trưởng,
-
Cũng lại chẳng dám
cho,
-
Nhật nguyệt xoay ở
đời.
-
Hai thứ chẳng thể
cho,
-
Thứ khác đều cho hết,
-
Ý quyết chẳng có khó.
-
Phật Ðịnh Quang lại
dùng kệ này đáp Phạm chí:
-
Như điều Ông nói thí,
-
Chẳng phải lời Như
Lai,
-
Nên nhẫn ức kiếp khổ,
-
Thí đầu, thân, mắt,
tai,
-
Vợ con, nước, tiền
của,
-
Xe ngựa, người theo
hầu,
-
Nếu kham thí được
vậy,
-
Ta sẽ truyền yếu
quyết.
-
Ma-nạp (Phạm chí)
liền nói kệ:
-
Núi lớn hừng như lửa,
-
ức kiếp kham đội đầu,
-
Chẳng thể hoại ý đạo,
-
Cúi mong truyền yếu
quyết.
-
Bấy giờ Ðịnh Quang
Như Lai im lặng chẳng nói. Phạm chí kia tay cầm năm cành hoa,
quỳ gối mặt xuống đất, tung lên Ðịnh Quang Như Lai và nói:
-
- 'Riêng phước đức
này dành cho đời sau, sẽ được như Ðịnh Quang Như Lai Chí Chân
Ðẳng Chánh Giác, không có sai khác.'
-
Rồi ông trải tóc mình
trên bùn, thầm nghĩ: 'Nếu Như Lai truyền yếu quyết cho ta, thì
sẽ lấy chân đạp trên tóc ta mà đi qua.'
-
Tỳ-kheo nên biết!
Ðịnh Quang Như Lai quán sát tâm niệm của Phạm chí, liền bảo Phạm
chí rằng:
-
- 'Ông đời tương lai
sẽ làm Phật Thích-ca Văn Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác.'
-
Phạm chí Siêu Thuật
có bạn đồng học tên Ðàm-ma-lưu-chi ở bên cạnh Như Lai. Vị này
thấy Phật Ðịnh Quang truyền yếu quyết cho Phạm chí Siêu Thuật,
lại đạp chân trên tóc, thấy rồi liền nói:
-
- 'Sa-môn đầu trọc
này, sao nỡ cất chân đạp trên tóc Phạm chí thanh tịnh này. Ðây
chẳng phải hạnh của người.'
-
Phật bảo các Tỳ-kheo:
-
- 'Bấy giờ Phạm chí
Da-nhã-đạt đâu phải người nào khác! Chớ nên xem như thế. Vì sao?
Bấy giờ Da-nhã-đạt nay là vua Bạch Tịnh (Tịnh-phạn); thượng tọa
của tám vạn bốn ngàn Phạm chí nay là Ðề-bà-đạt-đa, Phạm chí Siêu
Thuật là Ta; cô gái Phạm chí bán hoa lúc đó, nay là Cù-di, vị từ
chủ lúc đó nay là Phạm chí chấp trượng; Ðàm-ma-lưu-chi lúc đó,
miệng tạo hạnh nói lời bất thiện nay là Ðàm-ma-lưu-chi. Sau đó,
Ðàm-ma-lưu-chi trải qua vô số kiếp hằng làm súc sanh, thọ thân
sau cũng làm thân cá dài bảy trăm do tuần ở trong biển lớn. Từ
đó mạng chung đến sanh ở đây, cùng phụng sự thiện tri thức, hằng
gần gũi thiện tri thức, tập các pháp lành, các căn thông lợi. Do
nhân duyên này, Ta nói đã lâu mới đến đây. Ðàm-ma-lưu-chi cũng
tự trình bày: 'Ðúng vậy, Thế Tôn! Ðã lâu con mới đến đây'. Thế
nên, các Tỳ-kheo, thường nên tu tập thân, miệng, ý hành. Như
thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
4. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nay Ta sẽ nói: Có
người như sư tử và có người như dê. Các Thầy hãy lắng nghe, khéo
suy nghĩ đó.
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Xin vâng, Thế Tôn.
-
Các Tỳ-kheo bâng lời
Phật dạy, Thế Tôn bảo rằng:
-
- Người kia tại sao
mà giống Sư tử? Ở đây, Tỳ-kheo! Có người được cúng dường y phục,
đồ ẩm thực, giường nằm, thuốc men trị bịnh. Người đó được rồi
liền tự ăn uống, không khởi tâm dính mắc, cũng không có dục ý,
chẳng khởi các tưởng, hoàn toàn không có niệm này, tự biết pháp
xuất yếu. Cho dù không được lợi dưỡng, cũng không khởi loạn
niệm, không có tâm tăng giảm. Ví như sư tử ăn thịt thú nhỏ. Bấy
giờ vua loài thú ấy cũng không nghĩ rằng: 'Cái này tốt, cái này
chẳng tốt', không có tâm dính mắc, cũng không dục ý, không khởi
các tưởng. Người này cũng lại như thế. Nếu được cúng dường y
phục, đồ ẩm thực, giường nằm, thuốc men, trị bịnh, người này
được rồi liền tự ăn uống, không khởi ý dính mắc; ví dù không
được cũng không có các niệm.
-
Ví như có người nhân
người cúng dường y phục, đồ ẩm thực, giường nằm, thuốc men trị
bịnh, được rồi liền ăn uống, khởi tâm dính mắc, sanh ý ái dục,
không biết đạo xuất yếu. Giả sử không được, người ấy hằng sanh
tưởng niệm này. Người ấy được cúng dường rồi, hướng về các
Tỳ-kheo, mà tự cống cao hủy báng người khác: 'Chỗ ta hay được y
phục, đồ ẩm thực, giường nằm, thuốc men trị bịnh. Các Tỳ-kheo
này không hay được.' Ví như có một con dê trong bầy dê lớn, ra
khỏi bầy, đến đống phân lớn. Con dê này ăn phân no rồi trở về
bầy dê, liền tự cống cao: 'Nay ta được ăn ngon, các con dê này
không hay được ăn.' Ðây cũng như thế, nếu có một người được lợi
dưỡng y phục, ẩm thực, giường nằm, thuốc men trị bịnh, khởi các
loạn tưởng, sanh tâm dính mắc, người ấy liền hướng về các
Tỳ-kheo mà tự cống cao: 'Ta hay được cúng dường, các Tỳ-kheo này
chẳng hay được cúng dường'. Thế nên, các Tỳ-kheo hãy học như vua
sư tử, chớ như dê. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
5. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nếu có chúng sanh
biết báo đền, người này đáng kính, ân nhỏ còn chẳng quên huống
là ân lớn. Cho dù người ấy rời nơi đây ngàn do-tuần, trăm ngàn
do-tuần mà chẳng là xa, vẫn không khác gần Ta. Vì sao? Tỳ-kheo
nên biết, Ta thường khen ngợi người biết báo đền.
-
Có các chúng sanh
chẳng biết báo đền, ân lớn còn chẳng nhớ hà huống nhỏ. Người đó
chẳng gần Ta, Ta chẳng gần người đó. Ngay cho họ đắp Tăng-già-lê
ở sát bên Ta, người này vẫn xa. Vì sao? Ta thường chẳng nói về
người không báo đền. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy nghĩ báo đền, chớ
học không báo đền. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
6. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nếu có người lười
biếng, trồng hạnh bất thiện, có sự mất mát đối với công việc.
Nếu có người có thể không lười biếng, tinh tấn, người này tối
diệu, có sự tăng ích ở các pháp lành. Vì sao? Bồ-tát Di-lặc trải
qua ba mươi kiếp, đáng lẽ làm Phật Chí Chân Ðẳng Chánh Giác. Ta
do sức tinh tấn, dõng mãnh, khiến Di-lặc ở sau. Hằng sa Như Lai
Chí Chân Ðẳng Chánh Giác thời quá khứ đều do dũng mãnh mà được
thành Phật. Do phương tiện này nên biết lười biếng là khổ, làm
các hạnh ác, có tổn hại cho việc làm. Nếu hay tinh tấn, tâm dũng
mãnh mạnh, các công đức lành co tăng thêm. Thế nên, các Tỳ-kheo,
hãy nhớ tinh tấn, chớ có lười biếng. Như thế, này các Tỳ-kheo,
nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
7. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Tỳ-kheo tịch tĩnh
(A-lan-nhã) nên tu hành hai pháp. Thế nào là hai pháp? Nghĩa là
Chỉ và Quán. Nếu Tỳ-kheo tịch tĩnh, được Chỉ, thôi dứt, thì giới
luật được thành tựu, chẳng mất oai nghi, chẳng phạm cấm hạnh,
tạo các công đức. Nếu Tỳ-kheo tịch tĩnh lại được quán rồi, liền
quán Khổ này, như thật mà biết, quán Khổ tập, quán Khổ tận, quán
Khổ xuất yếu, như thật mà biết. Người đó quán như thế xong, tâm
dục lậu giải thoát, tâm hữu lậu, tâm vô minh lậu được giải
thoát, liền được trí giải thoát, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã
lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân sau nữa, như
thật mà biết. Chư Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác quá khứ đều
do hai pháp này mà được thành tựu. Vì sao thế? Giống như Bồ-tát
lúc ngồi dưới gốc cây thọ vương, trước suy nghĩ pháp Chỉ và Quán
này. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát được Chỉ rồi, liền có thể hàng phục ma
oán. Nếu Bồ-tát lại được Quán rồi, liền thành tựu tam đạt trí,
chứng đắc Vô Thượng Chí Chân Ðẳng Chánh Giác. Thế nên, các
Tỳ-kheo! Tỳ-kheo tịch tĩnh nên tìm phương tiện hành hai pháp
này. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
8. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nếu có Tỳ-kheo tu
hạnh tịch tĩnh (A-lan-nhã) ở chỗ vắng vẻ, không ở trong chúng,
hằng nên cung kính, phát tâm hoan hỉ. Nếu lại có Tỳ-kheo tu tịch
tĩnh, ở chỗ vắng vẻ, không có cung kính, không phát tâm hoan hỉ
thì ngay cho ở trong đại chúng, họ sẽ bị người đàm luận là không
biết pháp tịch tĩnh (A-lan-nhã): 'Thế là Tỳ-kheo tịch tĩnh này,
không cung kính, không phát tâm hoan hỉ'.
-
Lại nữa Tỳ-kheo!
Tỳ-kheo tịch tĩnh, ở chỗ vắng vẻ, không ở trong chúng, thường
nên tinh tấn, chớ có giải đãi, tất sẽ hiểu rõ các pháp yếu. Nếu
Tỳ-kheo tịch tĩnh (A-lan-nhã) lại ở chỗ vắng vẻ, có tâm lười
biếng, tạo các hạnh ác thì họ ở trong chúng bị người luận bàn:
'Tỳ-kheo tịch tĩnh (A-lan-nhã) này giải đãi, không có tinh tấn.'
Thế nên, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo tịch tĩnh ở chỗ vắng vẻ, không ở trong
chúng thường nên thấp ý, phát tâm hoan hỉ, chớ có giải đãi,
không có cung kính, nhớ hành tinh tấn, ý không dời đổi, ở các
pháp lành tất sẽ đầy đủ. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều
này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
9. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có hai người không
thể khéo thuyết pháp ngữ. Thế nào là hai? Là người không tin mà
thuyết pháp tin cho họ, việc này rất khó. Người tâm xan tham mà
thuyết pháp thí cho họ, đây cũng rất khó.
-
Lại nữa, này Tỳ-kheo!
Nếu người không tin mà thuyết pháp về đức tin cho họ, họ liền
nổi sân giận, khởi tâm làm hại. Ví như chó dữ lại thêm mũi đau,
càng giận dữ nhiều thêm. Các Tỳ-kheo! Ðây cũng như thế, người
không tin mà thuyết pháp tin cho họ, họ liền nổi sân giận, sanh
tâm tổn hại.
-
Lại nữa, này Tỳ-kheo!
Nếu người xan tham mà thuyết pháp bố thí cho họ, họ liền sanh
sân giận, khởi tâm tổn hại. Ví như mụt nhọt chưa mùi, lại thêm
dao khoét đau không chịu nổi. Ðây cũng như thế, người xan tham
mà thuyết pháp bố thí cho họ, họ lại càng sân giận, khởi tâm tổn
hại. Ðó là, này Tỳ-kheo! Hai người này khó vì họ thuyết pháp.
-
Lại nữa, này Tỳ-kheo!
Có hai người dễ vì họ thuyết pháp. Thế nào là hai? Người có lòng
tin, thuyết pháp tin cho họ; người không xan tham thuyết pháp
thí cho họ. Này Tỳ-kheo! Nếu người có lòng tin thuyết pháp tin
cho họ, họ liền được hoan hỉ, ý không hối hận biến đổi. Ví như
người có bệnh, nói thuốc trừ bệnh, liền được bình phục. Ðây cũng
như thế, người có lòng tin, thuyết pháp tin cho họ, họ liền được
hoan hỉ, tâm không biến đổi.
-
Lại nữa, nếu người
không tham, thuyết pháp thí cho họ, họ liền được hoan hỉ, không
có tâm hối hận. Ví như có trai, gái đoan chính, tự ưa tắm rửa
mặt mũi tay chân, lại có người đến cầm hoa đẹp dâng lên tô bồi
nhan sắc; lại lấy áo tốt, phục sức dâng lên người ấy. Người ấy
được rồi càng thêm hoan hỉ. Ðây cũng như thế, người không lẫn
tiếc, thuyết pháp thí cho họ, họ liền được hoan hỉ, không có tâm
hối hận. Ðó là, này Tỳ-kheo, hai người này dễ vì họ thuyết pháp.
Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy học có lòng tin, cũng nên học bố thí,
chớ có xan tham. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
10. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có hai pháp dành
cho người phàm phu, được công đức lớn, thành quả báo lớn, được
vị cam lồ, đến chỗ vô vi. Thế nào là hai pháp? Là cúng dường
cha, mẹ. Ðó là hai người được công đức lớn, thành quả báo lớn.
-
Lại nữa, nếu cúng
dường Bồ-tát một đời bổ xứ, được công đức lớn, được quả báo lớn.
Ðó là, này Tỳ-kheo! Bố thí hai người này được công đức lớn,
hưởng quả báo lớn, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi. Thế nên, các
Tỳ-kheo, hãy thường nhớ hiếu thuận, cúng dường cha mẹ. Như vậy,
này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
11. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Dạy hai người làm
lành, không thể báo ân được. Thế nào là hai? Nghĩa là cha, mẹ.
-
Này Tỳ-kheo, nếu lại
có người, vai phải cõng cha, vai trái cõng mẹ đến ngàn vạn năm,
lo y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc men trị bịnh, dù cha mẹ
tiểu tiện, đại tiện ở trên vai, người ấy vẫn chẳng thể báo ân
được. Tỳ-kheo nên biết, cha mẹ ân nặng, bồng ẵm, nuôi nấng, tùy
lúc gìn giữ chẳng lỡ thời tiết như được thấy mặt trời, mặt
trăng. Dùng phương tiện này, biết ân này, khó báo. Thế nên, các
Tỳ-kheo, hãy cúng dường cha mẹ, thường nên hiếu thuận, chẳng lỡ
thời tiết. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
12. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Tôn giả
Bàn-đặc bảo em là Châu-lợi-bàn-đặc rằng:
-
- Nếu em không thể
trì giới được thì trở về làm cư sĩ.
-
Ngài Châu-lợi-bàn-đặc
nghe lời này xong, liền đến đứng ngoài cửa Tinh xá Kỳ Hoàn khóc
ròng. Bấy giờ đức Thế Tôn dùng Thiên nhãn thanh tịnh, xem thấy
Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc đứng ngoài cửa buồn khóc không dừng
được. Thế Tôn liền từ tịnh thất đứng lên, dường như đi kinh
hành, đến ngoài cửa Tinh xá Kỳ Hoàn hỏi Châu-lợi-bàn-đặc rằng:
-
- Tỳ-kheo, cớ sao
đứng đây khóc lóc?
-
Tôn giả
Châu-lợi-bàn-đặc đáp:
-
- Bạch Thế Tôn, Anh
con xua đuổi con, nói không thể trì giới thì trở về làm cư sĩ,
không nên ở đây. Vì thế, con buồn khóc.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Tỳ-kheo, chớ ôm lo
sợ, Ta thành Vô Thượng Ðẳng Chánh Giác, chớ chẳng phải Bàn-đặc
anh Thầy đắc đạo.
-
Bấy giờ Thế Tôn tay
nắm Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc, dẫn đến tịnh thất bảo ngồi, rồi
Thế Tôn lại dạy cầm chổi quét;
-
- Thầy tụng chữ này
là chữ gì?
-
Bấy giờ Tôn giả
Châu-lợi-bàn-đặc tụng chữ 'quét' lại quên chữ 'chổi'. Nếu tụng
chữ 'chổi' lại quên chữ 'quét'. Bấy giờ Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc
tụng 'chổi quét' này qua mấy ngày. Mà 'chổi quét' này gọi là trừ
dơ. Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc lại nghĩ: 'Cái gì là trừ? Cái gì là
dơ?'
-
Dơ là tro, đất, ngói,
gạch; trừ là thanh tịnh.
-
Tôn giả lại nghĩ:
'Thế Tôn cớ sao dùng điều này dạy ta. nay ta nên suy nghĩ nghĩa
này'. Do suy nghĩ nghĩa này, Tôn giả lại nghĩ: 'Nay trên thân ta
cũng có bụi dơ, ta tự ví dụ. Thế nào là trừ? Thế nào là dơ?'
-
Tôn giả lại nghĩ:
'buộc kết là dơ, trí tuệ là trừ. Nay ta có thể lấy chổi trí tuệ
quét trói buộc này.'
-
Bấy giờ Tôn giả
Châu-lợi-bàn-đặc suy nghĩ Ngũ thạnh ấm, sự thành, sự bại, nghĩa
là sắc này, sắc tập, sắc diệt; thọ, tưởng, hành, thức, sự thành
sự bại cũng lại như vậy. Lúc ấy, Tôn giả tư duy về Ngũ thạnh ấm
này xong, tâm dục được giải thoát, tâm hữu lậu, tâm vô mninh lậu
được giải thoát; đã được giải thoát liền được trí giải thoát;
sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong,
không còn thọ thân nữa, như thật mà biết. Tôn giả
Châu-lợi-bàn-đặc liền thành A-la-hán. Ðã thành A-la-hán, Tôn giả
liền từ chỗ ngồi đứng lên, đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một
bên, bạch Thế Tôn:
-
- Nay con đã có trí,
nay đã có tuệ, nay đã hiểu chổi quét.
-
Thế Tôn nói:
-
- Tỳ-kheo, Thầy hiểu
thế nào?
-
Tôn giả
Châu-lợi-bàn-đặc đáp:
-
- Trừ đó là tuệ, dơ
là kết.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Lành thay, Tỳ-kheo!
Như lời Thầy nói, trừ là tuệ, dơ là kết.
-
Bấy giờ Tôn giả
Châu-lợi-bàn-đặc hướng về Thế Tôn mà nói kệ:
-
Nay tụng này đã đủ,
-
Như chỗ Ngài đã nói,
-
Trí tuệ hay trừ dơ
-
Chẳng do hạnh nào
khác.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Tỳ-kheo, như lời
Thầy nói, do trí tuệ chứ không do gì khác.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
13. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có hai pháp này,
chẳng thể mong đợi cũng chẳng đủ yêu mến, người đời ném bỏ. Thế
nào là hai pháp? Là oán ghét gặp gỡ. Ðiều này không thể mong
đợi, cũng không đủ yêu mến, người đời ném bỏ; và ân ái biệt ly,
chẳng thể mong đợi cũng không đủ yêu mến, người đời ném bỏ. Ðó
là, Tỳ-kheo, có hai pháp này, người đời chẳng vui, chẳng thể
mong đợi.
-
Này Tỳ-kheo, lại có
hai pháp người đời chẳng bỏ. Thế nào là hai pháp? Oán ghét biệt
ly là chỗ người đời ưa và ân ái tụ họp một chỗ, rất đáng yêu
kính, là chỗ người đời ưa thích. Ðó là, Tỳ-kheo, có hai pháp
người đời ưa thích. Nay Ta nói về oán ghét tụ họp, ân ái biệt ly
này, lại nói oán ghét biệt ly, ái ân tụ họp là có nghĩa gì? Có
duyên gì?
-
Tỳ-kheo đáp:
-
- Thế Tôn là vua các
pháp, cúi mong Thế Tôn thuyết cho chúng con, các Tỳ-kheo nghe
xong sẽ vâng làm.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Lắng nghe, khéo suy
nghĩ, Ta sẽ vì Thầy phân biệt nói. Này các Tỳ-kheo, hai pháp này
do ái mà dấy lên, do ái mà sanh, do ái mà thành, do ái mà khởi.
Nên học trừ ái, chớ khiến cho sanh. Như thế, này các Tỳ-kheo,
nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
- --o0o--
|
|