|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
MỘT
- 5
-
-
XXIV.1. Phẩm Cao Tràng (1)
-
-
1. Tôi nghe như
vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn
bảo các Tỳ-kheo:
-
- Ngày xưa,
Trời Ðế Thích bảo Trời Ba mươi ba: 'Các Khanh, nếu lúc vào
cuộc chiến lớn, hễ có tâm sợ hãi, kinh hoàng, các Khánh
hãy quay nhìn lá tràng (cờ) của Ta thì sẽ không sợ hãi.
Nếu chẳng nhớ lá cờ của ta hãy nhớ lá cờ của Thiên vương
Y-sa, vì nhớ cờ đó, người sẽ tiêu hết sự sợ hãi. Nếu không
nhớ cờ của Ta và cờ của Thiên vương Y-sa, bấy giờ hãy nhớ
lá cờ của Thiên vương Bà-lưu-na, vì nhớ là cờ kia, liền
tiêu diệt sự sợ hãi'.
-
Nay ta lại bảo
các Thầy: Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di,
nếu có sợ hãi, lông áo dựng ngược, bấy giờ hãy nhớ đến
thân Ta, đây là Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp
Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời. Nếu ai
có sợ hãi, lông áo dựng đứng thì sợ hãi ấy liền tự tiêu
diệt. Nếu lại chẳng nhớ Ta, bấy giờ nên nhớ Pháp, Pháp của
Như Lai rất là vi diệu, là chỗ người trí học. Do nhớ Pháp,
liền tiêu diệt sợ hãi. Nếu chẳng nhớ Ta, cũng chẳng nhớ
Pháp, bấy giờ nên nhớ Thánh chúng, Thánh chúng, của Như
Lai rất là hòa thuận, pháp pháp thành tựu, giới thành tựu,
tam-muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát thành
tựu, giải thoát kiến tuệ thành tựu; nghĩa là bốn đôi, tám
bậc; đây là Thánh chúng của Như Lai, đáng kính, đáng thờ,
là phước điền của thế gian, đó là Thánh chúng của Như Lai,
bấy giờ nếu nhớ Tăng rồi, sự sợ hãi liền tiêu diệt.
-
Tỳ-kheo nên
biết, Thích-đề-hoàn-nhân còn có dâm nộ si, mà Trời
Ba-mươi-ba nhớ đến chúa mình liền không sợ hãi, huống lại
Như Lai không có tâm dục nộ si, nên nhớ mà có sợ hãi sao?
Nếu Tỳ-kheo có sợ hãi thì sợ hãi ấy liền tự tiêu diệt. Thế
nên các Tỳ-kheo, nên nghĩ nhớ ba bậc Phật, Pháp, Thánh
chúng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các
Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
2. Tôi nghe như
vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ nước
Bạt-kỳ có quỷ tên là Tỳ-sa ở tại nước đó rất hung bạo,
giết người vô số; hằng ngày giết một người, hoặc ngày giết
hai người, ba người, bốn người, năm người, mười người, hai
mươi người, ba mươi người, bốn mươi người, năm mươi người.
-
Bấy giờ các quỷ
thần, la-sát đầy dẫy khắp trong nước. Lúc ấy nhân dân
Bạt-kỳ tụ tập nhau lại mà nói rằng:
-
- Chúng ta phải
tránh nước này, đi đến nước khác, chẳng nên ở đây.
-
Bấy giờ ác quỷ
Tỳ-sa biết tâm niệm của nhân dân, liền bảo họ rằng:
-
- Các Ngươi chớ
lìa xứ này đến xứ khác. Vì sao thế? Vì trọn chẳng khỏi tay
ta. Các Ngươi ngày ngày đem một người dâng ta, ta sẽ không
khuấy rối các Ngươi.
-
Từ đó, nhân dân
mỗi ngày đem một người nạp cho ác quỷ kia. Quỷ kia ăn
người đó xong, đem hài cốt ném vào núi khác. Về sau, xương
đầy hang, suối.
-
Khi ấy, có
Trưởng giả tên là Thiện Giác, ở tại nước ấy, lắm tiền
nhiều của, tài sản ngàn ức, lừa, ngựa, lạc đà không đếm
xiết; vàng bạc, trân bảo, xa cừ, mã não, trân châu, hổ
phách cũng không thể đếm. Bấy giờ, Trưởng giả có con tên
là Na-ưu-la, là đứa con duy nhất ông ta rất yêu quý không
rời mắt. Lúc ấy, có kỳ hạn này, đứa bé Na-ưu-la đến phiên
dâng cho quỷ. Cha mẹ Na-ưu-la tắm rửa cho đứa bé này, mặc
áo đẹp đem đến bãi tha ma nơi quỷ ở. Ðến rối, họ khóc lóc,
kể lể không thể tả, cùng nói rằng:
-
- Chư Thần, Ðịa
thần đều cùng chứng minh. Chúng tôi chĩ có một đứa con
này, mong các thần minh hãy chứng minh cho, và hai mươi
tám Ðại quỷ thần vương, hãy gìn giữ đứa bé khỏi nguy ác;
Và Tứ thiên vương, đều xin cùng được gởi gắm tánh mạng,
mong ủng hộ đứa bé này khiến được tai qua nạn khỏi; cùng
Thích-đề-hoàn-nhân, cũng xin hướng về quy mạng Phạm thiên
vương nguyện thoát được mạng này, tất cả Quỷ Thần hộ thế,
chúng tôi xin quy mạng, cho thoát được ác này; các đệ tử
A-la-hán lậu tận của Như Lai con cũng xin quy mạng, khiến
thoát khỏi ách này, con cũng lại quy y các Bích-chi Phật,
không thầy tự giác, khiến thoát được ách này; con cũng tự
quy y đấng Như Lai, là bậc hàng phục những người không
hàng phục, độ những người chưa độ, thâu nhận những người
chưa được thâu nhận, giải thoát người chưa giải thoát,
những người chẳng nhập Niết-bàn khiến nhập Niết-bàn, người
không được cứu liền cứu hộ cho, Ngài làm con mắt cho người
mù, làm đại y vương cho người bệnh. Nếu ở Trời, Rồng, Quỷ
thần, tất cả Nhân ma và Thiên ma, Ngài là bậc tối tôn, tối
thượng phước tốt lành cho người, không ai vượt trên Ngài.
Vậy mong Như Lai hãy giám sát cho, xin Như Lai hãy soi
thấu lòng thành này.
-
Bấy giờ, cha mẹ
Na-ưu-la liền đem đứa bé này giao cho quỷ rồi lui đi. Khi
ấy, Thế Tôn dùng thiên nhãn thanh tịnh, lại dùng thiên nhĩ
thấu suốt, nghe được lời này, (biết) cha mẹ Na-ưu-la khóc
lóc không thể kể xiết. Thế Tôn liền dùng sức thần túc đến
chỗ ác quỷ ở trong núi kia. Ác quỷ ở chỗ của quỷ thần tại
phía Bắc Tuyết Sơn. Thế Tôn vào trụ xứ của quỷ mà ngồi,
chánh thân, chánh ý ngồi kiết-già. Bấy giờ, đứa bé
Na-ưu-la đi dần đến chỗ ác quỷ ở. Bé Na-ưu-la xa trông
thấy Như Lai tại trụ xứ của ác quỷ, hào quang rực rỡ,
chánh thân, chánh ý, buộc niệm ở trước, nhan sắc đoan
chánh, kỳ lạ hơn đời, các căn tịch tĩnh, được các công đức
hàng phục các ma. Các đức như thế chẳng thể tính kể. Ngài
có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm
thân, như núi Tu-di cao vượt các đỉnh núi, mặt như mặt
trời, mặt trăng, lại cũng như ánh sáng núi vàng chiếu xa.
Cậu bé thấy xong mừng rỡ, hướng đến Như Lai và nghĩ: 'Ðây
chắc chẳng phải ác quỷ Tỳ-sa. Vì sao thế? Nay ta thấy Ngài
lòng vui mừng hết sức. Nếu đúng là ác quỷ xin tùy ý để cho
ăn'.
-
Bấy giờ Thế Tôn
bảo rằng:
-
- Na-ưu-la, như
lời con nói, nay Ta là Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác,
đến để cứu con và hàng phục ác quỷ này.
-
Bé Na-ưu-la
nghe xong, vui mừng hớn hở không kềm được, liền đến chỗ
Như Lai cúi lạy, rồi ngồi một bên. Thế Tôn thuyết luận
diệu nghĩa cho bé. Luận là luận về thí, luận về giới, luận
sanh thiên, dục là uế ác, lậu là bất tịnh, xuất gia là cần
yếu, trừ các loạn tưởng.
-
Thế Tôn thấy bé
Na-ưu-la tâm ý hoan hỉ, tánh nhu nhuyến. Chư Phật Thế Tôn
thường thuyết Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, nay Thế Tôn thuyết đủ
cho chú bé. Chú bé ở ngay chỗ ngồi, sạch các trần cấu,
được pháp nhãn thanh tịnh. Bé đã thấy pháp, đắc pháp,
thành tựu các pháp, vâng nhận các pháp không có hồ nghi,
hiểu rõ lời dạy của Như Lai. Bé quy y Phật, Pháp và Thánh
chúng mà thọ ngũ giới.
-
Lúc đó ác quỷ
Tỳ-sa trở lại chỗ ở của mình, từ xa ác quỷ trông thấy Thế
Tôn ngồi ngay ngắn, tư duy, thân không nghiêng động. Thấy
rồi, ác quỷ giận dữ nổi mưa, sấm, chớp, sét rền hướng vào
Như Lai; hoặc mưa đao kiếm, nhưng lúc chưa rơi xuống đất
liền hóa thành hoa sen ưu-bát. Bấy giờ quỷ kia càng thêm
sân hận, mưa các thứ núi, sông, đá, gạch; lúc rơi xuống
đất lại hóa thành thức ăn, thức uống. Quỷ kia lại hóa
thành voi lớn kêu rống phóng tới Như Lai. Bấy giờ Thế Tôn
lại hóa làm sư tử chúa. Quỷ kia lại hóa làm thân sư tử
phóng đến Như Lai. Bấy giờ Thế Tôn hóa làm chim cánh vàng
lớn. Quỷ kia liền nghĩ: 'Ta có bao nhiêu thần lực đã hiện
hết rồi, nhưng Sa-môn này lông áo vẫn bất động. Nay ta hãy
đến hỏi thâm nghĩa'. Rồi quỷ kia hỏi Thế Tôn rằng:
-
- Nay ta là
Tỳ-sa muốn hỏi thâm nghĩa. Nếu không đáp được sẽ nắm hai
chân Ngài ném vào biển Nam.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Ác quỷ nên
biết, Ta tự quán sát, không có Trời, Người, Sa-môn,
Bà-la-môn, như người hay phi nhân nào có thể nắm hai chân
Ta mà ném vào biển Nam được. Nhưng nay Ông muốn hỏi nghĩa
thì cứ hỏi đi.
-
Ác quỷ bèn hỏi:
-
- Sa-môn! Thế
nào là hạnh cũ? Thế nào là hạnh mới? Thế nào là hạnh diệt?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Ác quỷ nên
biết: Mắt là hạnh cũ, việc làm ngày xưa duyên với thọ
thành hạnh; tai, mũi, miệng, thân, ý, đây là hạnh cũ, lúc
trước tạo duyên với thọ thành hạnh. Này ác quỷ, đó là hạnh
cũ.
-
Quỷ Tỳ-sa nói;
-
- Sa-môn! Cái
gì là hạnh mới?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Thân ngày nay
tạo: thân ba, miệng bốn, ý ba. Này ác quỷ, đây là hạnh
mới.
-
Ác quỷ hỏi:
-
- Thế nào là
hạnh diệt?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Ác quỷ nên
biết: Hạnh cũ diệt hết không khởi lên nữa, lại chẳng tạo
hạnh, hay giữ hạnh này trọn chẳng sanh, dứt hẳn không sót.
Ðó là hạnh diệt.
-
Bấy giờ ác quỷ
bạch Thế Tôn rằng:
-
- Nay ta quá
đói, sao lại đoạt thức ăn của ta? Ðứa bé này là món ăn của
ta. Sa-môn, hãy trả cho ta đứa bé này.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Khi xưa lúc
Ta chưa thành đạo, từng làm Bồ-tát, có bồ câu bay đến Ta,
Ta còn chẳng tiếc thân mạng cứu bồ câu ấy khỏi nạn, huống
ngày nay Ta đã thành Như Lai, lại có thể bỏ đứa bé cho Ông
ăn thịt? Ác quỷ, nay dù Ông dùng hết thần lực, Ta trọn
chẳng trao cho Ông đứa bé này. Thế nào Ác quỷ? Dưới thời
Phật Ca-Diếp, Ông từng làm Sa-môn, tu trì Phạm hạnh, sau
lại phạm giới mà sanh làm ác quỷ này.
-
Bấy giờ ác quỷ
nương oai thần của Phật, nhớ lại các hạnh đã tạo ngày xưa,
liền đến chỗ Thế Tôn cúi lạy mà nói:
-
- Nay con ngu
mê, không phân biệt chân ngụy mà sanh tâm này đối với Như
Lai. Cúi mong đức Thế Tôn cho con sám hối.
-
Thưa như thế ba
bốn lần. Thế Tôn bảo:
-
- Chấp nhận Ông
hối lỗi, chớ có phạm nữa.
-
Bấy giờ Thế Tôn
thuyết pháp vi diệu cho ác quỷ khiến được hoan hỉ. Ác quỷ
dâng mấy ngàn lượng vàng lên Thế Tôn và bạch Thế Tôn rằng:
-
- Nay con đem
hang núi này cúng cho chiêu đề tăng. Cúi mong Thế Tôn nhận
cho con và mấy ngàn lượng vàng này.
-
Như thế hai ba
lần. Lúc ấy, Thế Tôn liền nhận hang núi rồi nói kệ:
-
Vườn quả thí
thanh lương,
-
Và làm cầu đò
sông,
-
Nếu hay tạo
thuyền lớn,
-
Và các vật
dưỡng sanh,
-
Ngày đêm không
lười mỏi,
-
Ðược phước
không thể lường.
-
Pháp nghĩa,
giới thành tựu,
-
Chết rồi, sanh
lên trời.
-
Quỷ kia bạch
Thế Tôn:
-
- Chẳng rõ Thế
Tôn còn dạy gì không?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nay Ông nên
bỏ hình tướng cũ, đắp ba y làm Sa-môn, vào thành Bạt-kỳ,
đi khắp nơi nói lời dạy này: 'Chư Hiền nên biết: Như Lai
ra đời, người không chịu hàng phục liền được hàng phục; độ
người không độ được; người không giải thoát khiến biết
giải thoát; cứu hộ người không được cứu; làm con mắt cho
người mù, là bậc tối tôn, tối thượng, không ai bằng trong
chư Thiên nhân, Thiên long, Quỷ thần, Ma hoặc Thiên ma,
Nhân và Phi nhân, đáng kính, đáng quý, làm phước điền tốt
lành cho người. Hôm nay Ngài đã độ đứa bé Na-ưu-la và hàng
phục ác quỷ Tỳ-sa. Các Ông nên đến nơi ấy nghe lời giáo
hóa'.
-
Ác quỷ đáp:
-
- Xin vâng, Thế
Tôn.
-
Bấy giờ quỷ
Tỳ-sa làm Sa-môn, đắp ba y vào các làng xóm nói lời dạy
này: 'Hôm nay Thế Tôn độ đứa bé Na-ưu-la và hàng phục ác
quỷ Tỳ-sa. Các Ông nên đến nhận lời dạy dỗ của Ngài'.
-
Ngay lúc đó, ở
nước Bạt-kỳ, nhân dân tụ tập đông đúc. Trưởng giả Thiện
Giác nghe lời này xong, vui mừng hớn hở không kềm được,
liền đem tám vạn bốn ngàn người đến chỗ Thế Tôn. Ðến nơi,
cúi lạy xong ngồi một bên. Bấy giờ, nhân dân Bạt-kỳ, có
người lạy chân Phật, có người nâng tay. Khi tám vạn bốn
ngàn chúng đã ngồi một bên xong, Thế Tôn dần dần thuyết
pháp vi diệu cho họ. Luận tức là luận về thí, luận về
giới, luận sanh thiên, dục là tưởng bất tịnh, lậu là họa
lớn.
-
Bấy giờ Thế Tôn
quan sát tám vạn bốn ngàn chúng kia, tâm ý vui thích. Chư
Phật Thế Tôn thuyết pháp Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Ngài đem
pháp này thuyết cho tám vạn bốn ngàn chúng kia. Tất cả ở
ngay trên tòa các trần cấu sạch hết, được pháp nhãn thanh
tịnh giống như áo trắng sạch dễ nhuộm màu. Tám vạn bốn
ngàn chúng này cũng lại như thế. Các trần cấu sạch, được
pháp nhãn thanh tịnh, đắc pháp, thấy pháp, phân biệt các
pháp không có hồ nghi, được không chỗ sợ, họ tự quy y Tam
bảo Phật, Pháp, Thánh chúng mà thọ ngũ giới.
-
Trưởng giả cha
của Na-ưu-la bạch Thế Tôn:
-
- Cúi mong Thế
Tôn nhận lời thỉnh cầu của con.
-
Lúc ấy Thế Tôn
yên lặng nhận lời. Trưởng giả thấy Thế Tôn yên lặng nhận
lời, liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy rồi lui về nhà,
bày các thức ăn uống bao nhiêu vị. Sáng sớm hôm đó ông tự
đến bạch Phật rằng đã đến giờ.
-
Bấy giờ, Thế
Tôn đúng giờ, đắp y ôm bát vào thành bạt-kỳ, đến nhà
Trưởng giả, lại tòa mà ngồi. Trưởng giả thấy Thế Tôn đã
ngồi yên, ông tự mình châm chước các thức ăn uống. Khi
thấy Phật ngọ trai xong, ông đem nước trong sạch đến, rồi
lấy một chiếc ghế đến trước Như Lai ngồi, bạch Thế Tôn:
-
- Lành thay,
Thế Tôn! Nếu bốn bộ chúng cần y phục, thức ăn uống, giường
nằm, thuốc men trị bệnh, đều xin đến nhà con lấy.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Lành thay,
Trưởng giả! Như lời Ông nói.
-
Thế Tôn liền
thuyết pháp vi diệu cho Trưởng giả, thuyết pháp xong liền
từ chỗ ngồi đứng lên đi.
-
Bấy giờ, Thế
Tôn như trong khoảng co duỗi cánh tay, từ Bạt-kỳ biến mất,
trở về Tinh xá Kỳ Hoàn ở Xá-vệ. Khi ấy, Thế Tôn bảo các
Tỳ-kheo:
-
- Nếu bốn bộ
chúng cần y phục, ẩm thực, giường nằm, thuốc men trị bệnh,
nên đến nhà cha của Na-ưu-la mà lấy.
-
Thế Tôn lại bảo
Tỳ-kheo:
-
- Như Ta hôm
nay, đệ tử Ưu-bà-tắc không lẫn tiếc bậc nhất là cha của
Na-ưu-la.
-
Bấy giờ các
Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
3.
Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
trong vườn Thích-sĩ Ni-câu-lưu cùng với năm trăm đại chúng
Tỳ-kheo.
-
Bấy giờ mấy
ngàn người vọng tộc họ Thích, đến chỗ Thế Tôn cúi lạy và
ngồi một bên:
-
Những người họ
Thích bạch Thế Tôn:
-
- Ngày nay,
Ngài nên làm vua cai trị nước nhà để dòng họ chúng ta
không bị hư mất, không làm cho ngôi Chuyển luân Thánh
vương bị đoạn diệt. Nếu Thế Tôn không xuất gia, đáng lẽ
làm Chuyển luân Thánh vương trong thiên hạ, thống lãnh bốn
thiên hạ, đầy đủ ngàn con. Dòng họ chúng ta tên tuổi vang
xa là dòng họ Thích sanh ra Chuyển luân Thánh vương. Vì
thế, Thế Tôn, hãy làm vua, đừng để dòng vua đoạn dứt.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nay Ta chính
là thân vua, gọi là Pháp vương. Vì sao thế? Nay Ta hỏi các
Ông: Thế nào các vị họ Thích? Bảo rằng Chuyển luân Thánh
vương bảy báu đầy đủ, có ngàn con dũng mãnh. Nay Ta ở
trong tam thiên đại thiên cõi nước là bậc Tối tôn, Tối
thượng chẳng ai bằng, thành tựu Thất giác ý bảo, có vô số
hàng ngàn con Thanh văn vây quanh.
-
Thế Tôn liền
nói kệ:
-
Nay dùng địa vị
này,
-
Ðược rồi sau
lại mất,
-
Vị này là Tối
thắng,
-
Không cuối,
không có đầu.
-
Ðã thắng, không
thể đoạt,
-
Thắng này là
tối thắng,
-
Nhưng Phật vô
lượng hạnh,
-
Không vết, ai
noi dấu?
-
Thế nên, này
các vị Thích tử (Cồ-đàm), hãy tìm phương tiện làm vua
Chánh pháp để cai trị. Như thế, các Thích tử, nên học điều
này!
-
Bấy giờ những
vị họ Thích nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
4.
Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ có một
Tỳ-kheo đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lạy rồi ngồi một bên. Lúc
ấy, vị Tỳ-kheo kia bạch Thế Tôn:
-
- Có sắc nào
thường còn không biến đổi, tồn tại mãi ở đời mà không di
động chăng? Có thọ, tưởng, hành, thức nào hằng còn không
biến đổi, tồn tại mãi ở đời mà không di động chăng?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Tỳ-kheo,
không có sắc nào hằng còn tồn tại mãi ở đời mà không biến
đổi; lại cũng không có thọ, tưởng, hành, thức hằng còn mãi
ở đời mà không biến đổi. Này Tỳ-kheo, nếu lại có sắc này
hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi thì người tu Phạm
hạnh chẳng thể phân biệt; nếu thọ, tưởng, hành, thức tồn
tại mãi ở đời mà không biến đổi thì người tu Phạm hạnh
chẳng thể phân biệt. Thế nên, này Tỳ-kheo, vì sắc chẳng
thể phân biệt, không tồn tại mãi ở đời, thế nên người Phạm
hạnh có thể phân biệt, dứt hết gốc khổ; thọ, tưởng, hành,
thức cũng không tồn tại mãi ở đời, thế nên người Phạm hạnh
có thể phân biệt, dứt được gốc khổ.
-
Bấy giờ Thế Tôn
vít một ít đất để trên móng tay bảo Tỳ-kheo kia:
-
- Thế nào
Tỳ-kheo, Thầy thấy đất trên móng tay này chăng?
-
Tỳ-kheo đáp:
-
- Thưa vâng,
Thế Tôn! Con đã thấy.
-
Phật bảo
Tỳ-kheo:
-
- Nếu có một
chút sắc như thế hằng còn ở đời, thì người Phạm hạnh chẳng
thể phân biệt được hết mé khổ. Vì thế, Tỳ-kheo, vì không
một chút sắc nào còn, liền hành được Phạm hạnh, dứt được
mé khổ. Vì sao như thế? Tỳ-kheo nên biết, ngày xưa Ta từng
làm đại vương, thống lãnh bốn thiên hạ, dùng pháp cai trị,
thống lãnh nhân dân, bảy báu đầy đủ. Bảy báu là xe báu,
voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, cư sĩ báu, điển
binh báu. Tỳ-kheo nên biết, lúc đó Ta là Chuyển luân Thánh
vương thống lãnh bốn thiên hạ, có tám vạn bốn ngàn voi
thần, voi tên Bồ-hô; lại có bốn ngàn xa vũ bảo, hoặc dùng
da sư tử phủ, hoặc dùng da beo phủ, treo đầy tràng phan,
lọng cao; lại có tám vạn bốn ngàn đài cao rộng, giống như
chỗ ở của Thiên đế; lại có tám vạn bốn ngàn giảng đường so
bằng giảng đường thuyết pháp; lại có tám vạn bốn ngàn y
phục để phục sức, đều đẹp đẽ mềm mại; lại có tám vạn bốn
ngàn món ẩm thực, bao nhiêu thứ mùi vị. Tỳ-kheo nên biết,
lúc ấy, Ta cỡi một con voi lớn, màu cực trắng, miệng đẹp
có sáu ngà, vàng bạc kết đầy thân, có thể bay được, cũng
có thể ẩn hình, hoặc lớn hoặc nhỏ, voi ấy tên Bồ-hô; lúc
ấy, ta cỡi một con thần mã, lông đuôi màu đỏ, đi thân
không động, vàng bạc kết trên thân, có thể bay đi, cũng có
thể ẩn hình, hoặc lớn hoặc nhỏ, ngựa ấy tên Mao Vương, lúc
ấy, Ta ở trong một đài giữa tám vạn bốn ngàn đài cao rộng,
đài tên Tu-ni-ma, làm bằng vàng ròng, lúc ấy Ta nghỉ ngơi
trong một giảng đường, giảng đường tên Pháp Thuyết, làm
bằng vàng ròng; lúc ấy Ta cỡi một xe vũ bảo, xe tên Tối
Thắng, làm bằng vàng ròng, Ta cùng một ngọc nữ ở bên cạnh
để sai khiến cũng như chị em, lúc ấy Ta ngồi trên một tòa
trong số tám vạn bốn ngàn tòa cao rộng, vàng bạc, anh lạc
chẳng thể tính kể, Ta mặc y phục đẹp như áo trời, ăn những
thức ăn mùi vị cam lồ, đương lúc đó, Ta làm Chuyển luân
Thánh vương, tám vạn bốn ngàn voi thần mỗi sáng đến, làm
phía ngoài cửa bị hư hại rất nhiều, chẳng thể tính kể. Ta
liền nghĩ: 'Tám vạn bốn ngàn voi thần này sáng sáng kéo
đến, khiến ngoài cửa tổn hại rất nhiều không thể kể xiết.
Nay lòng Ta muốn chia chúng làm hai phần, mỗi sáng bốn vạn
hai ngàn con đến chầu'.
-
Bấy giờ, này
Tỳ-kheo, Ta nghĩ: 'Xưa Ta tạo phước gì, lại làm đức gì, mà
nay có được oai lực này?' Rồi Ta lại nghĩ: 'Do ba việc
nhân duyên khiến Ta gặt được phước đức này. Thế nào là ba?
Nghĩa là tuệ thí, nhân tử, và tự gìn giữ'.
-
Tỳ-kheo hãy
xem, các hành bấy giờ đã diệt hẳn không còn sót. Bấy giờ
dạo ở dục ý không biết chán. Chán là đối với giới luật
Hiền Thánh sanh chán bỏ. Thế nào, Tỳ-kheo, sắc này là
thường hay vô thường?
-
Tỳ-kheo đáp:
-
- Bạch Thế Tôn,
vô thường.
-
- Nếu là vô
thường, là pháp biến đổi, Thầy có nên sanh tâm này: 'Ðây
là của ta, ta thuộc về nó' chăng?
-
- Thưa không,
bạch Thế Tôn.
-
- Thọ, tưởng,
hành, thức là thường hay vô thường?
-
Tỳ-kheo đáp:
-
- Bạch Thế Tôn,
vô thường.
-
- Nếu là vô
thường là pháp biến đổi, Thầy có nên sanh tâm này: 'Ðây là
ta, ta thuộc về nó' chăng?
-
- Thưa không,
bạch Thế Tôn.
-
- Thế nên,
Tỳ-kheo, các sắc đã có, từ quá khứ, hiện tại, vị lai, hoặc
lớn hay nhỏ, hoặc tốt hay xấu, hoặc xa hay gần. Sắc này
cũng chẳng phải của ta, ta cũng chẳng phải thuộc sắc. Ðây
là chỗ học của người trí. Các thọ đã có từ quá khứ, tương
lai, hiện tại, hoặc xa hay gần, thọ này cũng chẳng phải
của ta, ta cũng chẳng phải thuộc nó. Như thế người trí
giác biết. Tỳ-kheo nên quán thế này. Nếu bậc Thanh văn
chán ghét tai họa của mắt, chán ghét hoạn ở sắc, chán ghét
hoạn của nhãn thức, nếu do mắt sanh khổ vui cũng lại chán
ghét. Cũng lại chán ghét đối với tai, chán tiếng, chán nhĩ
thức, nếu nương nhĩ thức (tai) sanh khổ vui cũng lại chán
ghét; mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại chán ghét, nếu nương ý
pháp sanh khổ vui cũng lại chán ghét. Ðã chán ghét liền
giải thoát, liền được trí giải thoát: 'Sanh tử đã dứt,
Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, chẳng còn thọ
thân nữa', như thực mà biết.
-
Khi ấy Tỳ-kheo
kia được Thế Tôn dạy như thế, ở chỗ vắng vẻ tư duy tự tu.
Ðó là người vọng tộc, cạo bỏ râu tóc, đắp ba pháp y, xuất
gia, tu phạm hạnh vô thượng: 'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã
lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân nữa',
như thật mà biết. Tỳ-kheo kia liền thành A-la-hán.
-
Bấy giờ các
Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
5.
Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Ma-kiệt, nơi cây Bồ-đề Ðạo Tràng, lúc vừa thành Phật.
Bấy giờ Thế Tôn liền nghĩ: 'Nay Ta được pháp thâm sâu này,
khó hiểu, khó rõ, khó tri, khó giác. Trí cực kỳ vi diệu
mới giác tri được. Nay Ta thuyết pháp cho ai đầu tiên?
Người hiểu được pháp Ta là ai?'
-
Bấy giờ Thế Tôn
lại nghĩ: 'La-lặc-ca-lam, các căn thuần thục đáng được độ
trước, vì ông ta trông đợi pháp của Ta'.
-
Nghĩ thế xong,
trên hư không có vị Trời bạch Thế Tôn:
-
- La-lặc-ca-lam
đã chết bảy ngày.
-
Bấy giờ Thế Tôn
lại nghĩ: 'Thật khổ thay! Ông ta chẳng nghe được pháp Ta
mà đã mạng chung. Nếu nghe pháp Ta liền được giải thoát'.
-
Thế Tôn lại
nghĩ: 'Nay Ta nên thuyết pháp cho ai đầu tiên để họ được
giải thoát? Nay Uất-đầu-lam-phất đáng được độ trước, Ta sẽ
thuyết pháp cho ông ta. Nghe pháp Ta xong, ông sẽ được
giải thoát trước'.
-
Thế Tôn nghĩ
vậy rồi, thì trong hư không có vị Trời nói rằng:
-
- Nửa đêm hôm
qua, ông ta đã mạng chung.
-
Thế Tôn lại
nghĩ: 'Uất-đầu-lam-phất sao mà khổ thế! Chẳng được nghe
pháp của Ta thì ông mà đã chết rồi. Nếu được nghe pháp của
Ta thì ông liền được giải thoát'.
-
Thế Tôn lại
nghĩ: 'Ai nghe pháp trước tiên mà được giải thoát?'
-
Thế Tôn lại tự
duy lần nữa: 'Năm Tỳ-kheo có nhiều lợi ích, khi Ta mới
sanh họ vẫn theo sau Ta'.
-
Thế Tôn lại
nghĩ: 'Nay năm Tỳ-kheo đang ở chỗ nào?'
-
Ngài liền dùng
thiên nhãn quán năm Tỳ-kheo đang ở trong vườn Nai của Tiên
nhân tại nước Ba-la-nại, rồi nghĩ: 'Nay Ta trước tiên đến
thuyết pháp cho năm Tỳ-kheo, họ nghe pháp Ta rồi sẽ được
giải thoát'.
-
Bấy giờ Thế Tôn
trong suốt bảy ngày nhìn chăm chú cây Bồ-đề (đạo thọ)
không hề chợp mắt.
-
Thế Tôn nói bài
kệ này:
-
Nay ta ngồi chỗ
này,
-
Trải qua khổ
sanh tử,
-
Cầm vững búa
trí tuệ,
-
Chặt đứt rễ
trồng xưa,
-
Thiên vương đến
nơi này,
-
Và các quyến
thuộc ma,
-
Lại đem phương
tiện hàng,
-
Khiến đội mũ
giải thoát.
-
Nay dưới gốc
cây này,
-
Ngồi trên tòa
kim cương.
-
Ðã được nhất
thiết trí,
-
Ðược tuệ không
chỗ ngại.
-
Ta ngồi dưới
cây này,
-
Thấy rõ khổ
sanh tử,
-
Ðã bỏ nguồn gốc
chết,
-
Già, bịnh, trọn
không sót.
-
Thế Tôn nói kệ
này xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, hướng về nước
Ba-la-nại mà đi.
-
Lúc đó Phạm chí
Ưu-ti-ca từ xa, trông thấy Thế Tôn có hào quang rực rỡ che
khuất ánh sáng mặt trời, mặt trăng.
-
Thấy rồi, ông
bạch Thế Tôn:
-
- Này Sư chủ
(Thầy) của Cồ-đàm ở đâu? Ngài nương theo ai xuất gia học
đạo? hằng ưa thuyết giáo pháp nào? Ngài từ đâu đến và muốn
đi đâu?
-
Thế Tôn hướng
về Phạm chí kia mà nói kệ:
-
Ta thành
A-la-hán,
-
Thế gian chẳng
ai sánh,
-
Trời và Người
thế gian,
-
Nay Ta là Tối
thượng.
-
Ta cũng chẳng
thầy dạy,
-
Lại cũng không
ai bằng,
-
Ðộc tôn chẳng
người hơn,
-
Lạnh mà chẳng
ấm lại.
-
Nay sẽ chuyển
Pháp luân,
-
Ðến tại nước
Ca-thi
-
Nay đem thuốc
cam lồ,
-
Mở mắt người mù
lòa.
-
Cõi nước
Ba-la-nại,
-
Vương thổ nước
Ca-thi,
-
Chỗ năm Tỳ-kheo
ở,
-
Muốn thuyết
pháp vi diệu,
-
Khiến họ sớm
thành đạo,
-
Và được lậu tận
thông,
-
Ðể trừ nguồn
pháp ác,
-
Thế nên là Tối
thắng.
-
Khi ấy Phạm chí
kia khen ngợi, cúi đầu, chắp tay, khảy móng tay, mỉm cười
theo đường mà đi.
-
Khi Thế Tôn đến
Ba-la-nại, năm Tỳ-kheo từ xa thấy Thế Tôn đến, bèn cùng
bàn bạc với nhau:
-
- Ðây Sa-môn
Cù-đàm từ xa đến, Ông ta tánh tình lầm lẫn, tâm không
chuyên nhất tinh cần. Chúng ta chớ có nói chuyện với Ông
ta, cũng đừng đứng dậy đón, cũng đừng mời ngồi.
-
Bấy giờ năm
người liền nói kệ:
-
Người này chẳng
đáng kính,
-
Cũng chớ cùng
thân cận,
-
Lại đừng kêu
chào mừng,
-
Cũng chẳng nên
mời ngồi.
-
Năm người nói
kệ này xong đều im lặng. Thế Tôn tiến dần đến năm Tỳ-kheo.
Khi đến gần, năm Tỳ-kheo từ từ đứng lên tiếp đón, người
thì trải tòa, người múc nước. Lúc ấy Thế Tôn liền đến
trước ngồi, suy nghĩ thế này: 'Ðây là người ngu si, trọn
không thể giữ tròn lời hứa của mình.'
-
Năm Tỳ-kheo gọi
Thế Tôn là Ông. Thế Tôn mới bảo năm Tỳ-kheo:
-
- Các Ông chớ
gọi bậc Vô Thượng Chí Chân Ðẳng Chánh Giác là Ông. Vì cớ
sao? Nay Ta đã thành Vô Thượng Chí Chân Ðẳng Chánh Giác,
đã gặt được thiện cam lồ, các Ông hãy tự chuyên niệm nghe
lời nói pháp của Ta.
-
Năm Tỳ-kheo
bạch Thế Tôn:
-
- Cù-đàm xưa
lúc khổ hạnh còn chẳng thể được pháp Thượng nhân, huống
nữa là hôm nay ý tình thác loạn mà nói là đắc đạo ư?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Thế nào các
Ông? Các Ông từng nghe Ta nói dối chăng?
-
Năm Tỳ-kheo
đáp:
-
- Không,
Cù-đàm!
-
Thế Tôn bảo:
-
- Như Lai Vô
Thượng Chí Chân Ðẳng Chánh Giác đã được cam lồ. Các Ông
phải cùng chuyên tâm nghe Ta thuyết pháp.
-
Lúc ấy, Thế Tôn
lại nghĩ: 'Nay Ta đủ sức hàng phục năm người này'.
-
Thế Tôn bảo năm
Tỳ-kheo:
-
- Các Ông nên
biết có Bốn đế này. Thế nào là bốn? Khổ đế, Khổ tập đế,
Khổ tận đế và Khổ xuất yếu đế.
-
Thế nào là Khổ
đế? Ðó là sanh khổ, lão khổ, bịnh khổ, tử khổ, ưu bi khổ
não, sầu ưu thống khổ không thể kể xiết, oán tắng hội khổ,
ái biệt ly khổ, chỗ muốn chẳng được cũng lại là khổ, tóm
lại là Ngũ thạnh ấm khổ. Ðó là Khổ đế.
-
Thế nào là Khổ
tập đế? Nghĩa là phần thọ ái, tập quen chẳng mỏi mệt, ý
thường tham luyến. Ðó là Khổ tập đế.
-
Thế nào là Khổ
tận đế? Nghĩa là hay khiến cho ái kia diệt hết không sót,
cũng chẳng sanh lại. Ðó là Khổ tận đế.
-
Thế nào là Khổ
xuất yếu đế? Nghĩa là Tám đạo phẩm của Hiền Thánh. Ðó là
chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
-
Ðó gọi là pháp
Tứ đế. Nhưng lại, này năm Tỳ-kheo, pháp Tứ đế này, Khổ đế
là pháp vốn chưa được nghe, khiến nhãn sanh, trí sanh,
minh sanh, giác sanh, quang sanh, tuệ sanh. Lại nữa, Khổ
đế là chân thật, minh sanh, giác sanh, quang sanh, tuệ
sanh. Lại nữa, Khổ đế là chân thật, quyết định, không hư,
không dối, trọn không có khác, là lời Thế Tôn dạy nên gọi
là Khổ đế.
-
Khổ tập đế là
pháp vốn chưa nghe, khiến nhãn sanh, trí sanh, minh sanh,
giác sanh, quang sanh, tuệ sanh. Lại nữa Khổ tập đế là
chân thật, quyết định, không hư, không dối, trọn không có
khác, là lời Thế Tôn dạy nên gọi là Khổ tập đế.
-
Khổ tận đế là
pháp vốn chưa nghe, khiến nhãn sanh, trí sanh, minh sanh,
giác sanh, quang sanh, tuệ sanh. Lại nữa Khổ tận đế là
chân thật, quyết định, không hư, không dối, trọn không có
khác, là lời Thế Tôn dạy nên gọi là Khổ tận đế.
-
Khổ xuất yếu đế
là pháp vốn chưa nghe khiến nhãn sanh, trí sanh, minh
sanh, giác sanh, quang sanh, tuệ sanh. Lại nữa, Khổ xuất
yếu đế là chân thật, quyết định, không hư, không dối, trọn
không có khác, là lời Thế Tôn dạy nên gọi là Khổ xuất yếu
đế.
-
Năm Tỳ-kheo nên
biết, Tứ đế này ba phen chuyển, mười hai hành. Người chẳng
biết như thật thì chẳng thành Vô Thượng Chí Chân Ðẳng
Chánh Giác. Ta vì phân biệt Tứ đế này, ba chuyển, mười hai
hành, như thật mà biết. Thế nên Ta thành Vô Thượng Chí
Chân Ðẳng Chánh Giác.
-
Bấy giờ Thế Tôn
thuyết pháp xong, A-nhã Câu-lân (A-nhã Kiều-trần-như) hết
các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.
-
Lúc ấy Thế Tôn
bảo Câu-lân:
-
- Nay Thầy đã
đến với pháp, đã đắc pháp.
-
Câu-lân đáp:
-
- Ðúng vậy, Thế
Tôn. Con đã đắc pháp, đã đến với pháp.
-
Bấy giờ địa
thần nghe lời này xong, liền xướng lên rằng:
-
- Nay Như Lai
tại Ba-la-nại chuyển Pháp luân, là chỗ chư Thiên, Người
đời, Ma hoặc Thiên ma, Nhân và Phi nhân chẳng thể chuyển
được. Hôm nay Như Lai chuyển Pháp luân này, A-nhã Câu-lân
đã được pháp cam lồ.
-
Lúc ấy, Tứ
Thiên vương nghe địa thần xướng, lại chuyển lời nói:
-
- A-nhã Câu-lân
đã được pháp cam lồ.
-
Lúc ấy Trời Ba
mươi nghe lời của Tứ thiên vương, Trời Diệm-ma nghe Trời
Ba mươi ba, cho đến Trời Ðâu-suất đều nghe tiếng cho đến
Phạm thiên cũng lại nghe tiếng:
-
- Như Lai tại
Ba-la-nại chuyển Pháp luân chỗ mà chư Thiên, Người đời, Ma
hoặc Thiên ma, Nhân và Phi nhân chẳng thể chuyển được. Hôm
nay Như Lai chuyển Pháp luân này. Bấy giờ gọi là A-nhã
Câu-lân.
-
Thế Tôn bảo năm
Tỳ-kheo:
-
- Các Thầy, hai
người ở lại nhận lời dạy dỗ, còn ba người đi khất thực,
thức ăn của ba người này, sáu người sẽ cùng ăn. Rồi ba
người ở lại nhận lời dạy dỗ, hai người đi khất thực; thức
ăn có được của hai người, sáu người sẽ cùng ăn.
-
Bấy giờ năm
người được dạy dỗ, lúc này thành pháp vô sanh Niết-bàn,
cũng thành không sanh, không bệnh, không già, không chết.
Lúc ấy năm Tỳ-kheo đều thành A-la-hán. Lúc ấy tam thiên
đại thiên quốc độ có năm A-la-hán với Phật là sáu.
-
Thế Tôn bảo năm
Tỳ-kheo:
-
- Các Thầy khất
thực đều cùng nhân gian (chung đụng), cẩn thận chớ đi một
mình. Nhưng lại có chúng sanh các căn thuần thục đáng được
độ, vì thế Ta sẽ đến Thôn Ưu-lưu-tỳ thuyết pháp tại đó.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền đến thôn Ưu-lưu-tỳ. Lúc ấy bên bờ sông Liên-nhã có
Cù-đàm tại đó. Ông ta biết thiên văn, địa lý, thông suốt
tất cả, toán số, cây lá đều rõ biết, cùng với năm trăm đệ
tử hằng ngày giáo hóa. Cách Cù-đàm không xa có động đá, ở
trong động đá có rồng dữ ngụ. Bấy giờ Thế Tôn đến chỗ
Cù-đàm, đến rồi, bảo Cù-đàm:
-
- Ta muốn ở
trong động đá một hôm. Nếu Ông bằng lòng, Ta sẽ đến ở đó.
-
Cù-đàm đáp:
-
- Tôi không
tiếc gì, nhưng ở đó có rồng dữ, sợ nó sẽ hại Ngài.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Cù-đàm, không
sao, rồng dữ chẳng hại Ta. Nếu Ông bằng lòng thì Ta ở một
đêm.
-
Cù-đàm đáp:
-
- Nếu Ngài muốn
ở thì tùy ý đến ở.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền đến động đá, trải tòa mà ở. Ngài ngồi kiết-già, chánh
thân, chánh ý buộc niệm ở trước. Lúc ấy rồng dữ thấy Thế
Tôn ngồi liền phun lửa độc. Thế Tôn liền nhập Từ tam-muội.
Từ tam-muội dậy, Ngài nhập Diễm quang tam-muội.
-
Khi ấy, lửa
rồng và Phật quang bừng lên một lượt. Bấy giờ Cù-đàm ban
đêm dậy xem tinh tú, thấy trong động đá có ánh lửa lớn.
Thấy rồi, ông liền bảo đệ tử:
-
- Sa-môn Cù-đàm
này dung mạo đoan chánh, nay bị rồng hại thật đáng thương
xót. Trước ta đã nói ở đó có rồng dữ không thể ở được.
-
Lúc ấy Cù-đàm
bảo năm trăm đệ tử:
-
- Các Ông đem
bình nước và đem thang cao đến đó cứu lửa, khiến Sa-môn
kia thoát nạn này.
-
Cù-đàm đem năm
trăm đệ tử đến động đá cứu lửa. Người thì cầm nước tưới,
người thì bắc thang mà chẳng thể dập tắt lửa. Ðó đều do
oai thần của Như Lai.
-
Bấy giờ Thế Tôn
nhập Từ tam-muội, dần dần làm cho rồng kia chẳng còn sân
giận. Lúc đó, rồng dữ kia trong lòng sợ hãi, vùng chạy
khắp nơi muốn ra khỏi động đá, nhưng không thể thoát ra
được Rồng bèn chui vào bình bát của Như Lai. Thế Tôn lấy
tay phải rờ thân rồng dữ mà nói kệ:
-
Rồng ra được
thật khó,
-
Rồng cùng rồng
tụ tập,
-
Rồng chớ dấy
tâm hại,
-
Rồng ra thật
rất khó.
-
Quá khứ hằng sa
số.
-
Chư Phật nhập
Niết-bàn,
-
Người trọn
chẳng gặp gỡ,
-
Ðều do lửa sân
giận,
-
Lòng lành hướng
Như Lai
-
Mau bỏ độc dữ
này.
-
Ðã trừ độc sân
giận,
-
Liền được sanh
lên Trời.
|
|