|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
MỘT
- 5
-
-
XXIV.2. Phẩm Cao Tràng (2)
-
-
Bấy giờ rồng dữ
kia thè lưỡi liếm tay Như Lai, trìu mến nhìn mặt Như Lai.
-
Sáng sớm hôm
sau, Thế Tôn tay cầm rồng dữ này đến Cù-đàm và bảo Cù-đàm:
-
- Ðây là rồng
dữ hết sức hung bạo, nay đã bị hàng phục.
-
Lúc ấy Cù-đàm
trông thấy rồng dữ liền khiếp sợ, bạch Thế Tôn:
-
- Thôi, thôi,
Sa-môn! Chớ có đến trước, rồng sẽ làm hại.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Cù-đàm chớ
sợ! Nay Ta đã hàng phục nó rồi, trọn chẳng làm hại. Vì sao
thế? Rồng này đã được Ta giáo hóa.
-
Bấy giờ Cù-đàm
và năm trăm đệ tử đều khen là chưa từng có, hết sức kỳ lạ:
-
- Sa-môn Cù-đàm
này oai thần rất lớn, có thể hàng phục rồng dữ này khiến
nó không làm ác. Tuy vậy, Ông cũng không bằng ta, đã được
đạo chân thật.
-
Cù-đàm bạch Thế
Tôn:
-
- Ðại Sa-môn,
hãy nhận lời tôi thỉnh trong chín mươi ngày. Chỗ cần y
phục, thức ăn uống, giường chõng, thuốc men trị bịnh, tôi
đều sẽ cung cấp.
-
Thế Tôn im lặng
nhận lời Cù-đàm và đem rồng dữ thả vào biển lớn. Rồng thần
kia theo thọ mạng ngắn, dài, lúc mạng chung sanh lên Trời
Tứ thiên vương. Như Lai trở lại ở động đá. Cù-đàm bày các
thức ăn uống cúng, rồi đến bạch Thế Tôn:
-
- Thức ăn đã
dọn, xin mời Ngài đến dùng.
-
Cù-đàm đi rồi.
Thế Tôn đến trên cõi Diêm-phù-đề, dưới cây diêm-phù hái
trái diêm-phù rồi trở về ngồi trong động đá trước Cù-đàm.
-
Lúc đó, Cù-đàm
thấy Thế Tôn trong động đá, bạch Thế Tôn:
-
- Sa-môn! Ngài
theo đường nào mà đến động đá?
-
- Ông đi rồi,
Ta đến trên cõi Diêm-phù-đề, hái trái diêm-phù rồi trở về
đây. Cù-đàm nên biết, trái này rất thơm ngon, hãy lấy ăn
đi.
-
- Tôi không
cần, Sa-môn hãy lấy ăn.
-
Cù-đàm lại
nghĩ: 'Sa-môn này thật có thần túc, có oai lực có thể lên
cõi Diêm-phù hái trái ngon, tuy vậy chẳng bằng đạo chân
thật của ta'.
-
Thế Tôn ăn
xong, trở về chỗ kia nghỉ.
-
Sáng sớm,
Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn, đến rồi bạch Thế Tôn;
-
- Giờ ăn đã
đến, Ngài có thể đến ăn.
-
- Ông về trước,
Ta sẽ đến sau.
-
Cù-đàm đi rồi,
Phật bèn đến cõi Diêm-phù lấy trái xoài rồi trở về đến
trước Cù-đàm, ngồi trong động đá. Cù-đàm bạch Thế Tôn:
-
- Sa-môn, Ngài
theo đường nào mà đến đây?
-
- Ông đi rồi,
Ta lên cõi Diêm-phù lấy quả này đến, hết sức ngon lành,
nếu Ông cần thì lấy ăn.
-
- Tôi không
cần, Sa-môn cứ lấy ăn.
-
Bấy giờ Cù-đàm
lại nghĩ: 'Sa-môn này thật có thần lực, có oai thần lớn,
sau khi ta đi, Ông lại hái trái này đem đến, tuy vậy mà
chẳng bằng ta, ta đã đắc đạo'.
-
Thế Tôn ăn
xong, trở về chỗ kia nghỉ.
-
Sáng hôm sau,
Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn nói:
-
- Giờ ăn đã
đến, Ngài có thể đến ăn.
-
- Ông đến
trước, Ta sẽ đến sau.
-
Cù-đàm đi rồi,
Thế Tôn đến Châu Bắc Uất-đan-việt lấy cơm gạo tự nhiên,
trở về động đá của Cù-đàm. Cù-đàm hỏi Phật:
-
- Sa-môn, Ngài
theo đường nào đến đây ngồi?
-
- Cù-đàm nên
biết, Ông đi rồi, Ta đến Uất-đan-việt lấy cơm gạo tự nhiên
rất là thơm ngon. Cù-đàm, Ông cần thì lấy ăn.
-
- Tôi không
cần. Sa-môn cứ tự lấy ăn.
-
Cù-đàm lại
nghĩ: 'Sa-môn này rất có thần túc, có đại thần lực, tuy
vậy mà chẳng bằng ta đã được đạo chân thật'.
-
Thế Tôn ăn xong
trở về kia nghỉ.
-
Sáng hôm sau,
Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn nói:
-
- Giờ ăn đã
đến, Ngài có thể đến ăn.
-
Ông về trước,
Ta sẽ đến sau.
-
Cù-đàm đi rồi,
Thế Tôn đến Cù-da-ni lấy trái ha-lê-lặc, rồi đến Cù-đàm,
ngồi trong động đá.
-
- Sa-môn, Ngài
theo đường nào đến đây ngồi?
-
- Ông đi rồi,
Ta đến Cù-da-ni lấy trái này về, hết sức thơm ngon.
Cù-đàm, Ông cần thì có thể lấy ăn.
-
- Tôi không
cần. Sa-môn cứ tự lấy ăn.
-
Cù-đàm lại
nghĩ: 'Sa-môn này rất có thần lực, có đại oai thần, tuy
vậy chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.
-
Thế Tôn ăn
xong, trở về kia nghỉ.
-
Ngày mai,
Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn bạch:
-
- Tới giờ rồi,
Ngài có thể đến ăn.
-
- Ông về trước,
Ta sẽ đến sau.
-
Ông đi rồi, Thế
Tôn đến Phất-vu-đệ, lấy trái tỳ-ê-lặc, đến trước Cù-đàm,
ngồi trong động đá. Cù-đàm hỏi rằng:
-
- Sa-môn! Ngài
theo đường nào đến đây ngồi?
-
- Ông đi rồi,
Ta đến Phất-vu-đệ lấy trái này, rất là thơm ngon. Cù-đàm,
Ông cần thì có thể lấy ăn.
-
- Tôi không
cần, Sa-môn cứ tự lấy ăn.
-
Cù-đàm lại tự
nghĩ: 'Sa-môn này rất có thần lực, có đại thần lực, tuy
vậy chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.
-
Thế Tôn ăn rồi
lại về kia nghỉ.
-
Khi ấy, Cù-đàm
muốn cúng tế lớn. Năm trăm đệ tử cầm búa chặt củi, tay cầm
búa mà búa chẳng hạ xuống. Cù-đàm liền nghĩ: 'Ðây chắc là
do Sa-môn Cù-đàm làm'.
-
- Nay tôi muốn
chặt củi mà tại sao không hạ búa xuống được?
-
- Muốn hạ được
búa à?
-
- Muốn cho hạ
xuống.
-
Búa liền hạ
xuống. Bấy giờ búa kia đã hạ lại nhấc lên chẳng được.
Cù-đàm lại bạch Phật:
-
- Cớ sao không
nhấc được búa?
-
- Muốn nhấc búa
lên à?
-
- Muốn cho nhấc
lên.
-
Búa liền nhấc
được. Bấy giờ đệ tử Cù-đàm có ý muốn đốt lửa, mà lửa chẳng
chịu cháy. Cù-đàm liền nghĩ: 'Ðây chắc do Sa-môn Cù-đàm
làm'. Cù-đàm bạch Phật:
-
- Cớ sao lửa
không cháy?
-
- Muốn cho lửa
cháy à?
-
- Muốn cho
cháy.
-
Tức thời lửa
cháy lên. Bấy giờ họ có ý muốn dập lửa mà lửa chẳng tắt.
Cù-đàm bạch Phật:
-
- Cớ sao lửa
không tắt.
-
- Muốn cho lửa
tắt à?
-
- Muốn cho tắt.
-
Lửa liền tắt.
Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn Cù-đàm này mặt mày đoan chánh,
hiếm có ở đời. Ngày mai ta muốn cúng tế lớn. Quốc vương,
nhân dân đều sẽ đến tụ tập. Nếu họ thấy Sa-môn này thì ta
chẳng được cúng dường nữa. Ngày mai Sa-môn này không đến
thì thật là may mắn lớn.
-
Lúc ấy Thế Tôn
biết tâm niệm của Cù-đàm. Sáng sớm ngày mai, Ngài đến
uất-đan-việt lấy cơm gạo tự nhiên, đến Cù-da-ni lấy sữa
tươi rồi đến suối A-nậu-đạt mà ăn, ở đó suốt ngày, đến
chiều lại trở về động đá nghỉ.
-
Hôm sau Cù-đàm
đến chỗ Thế Tôn hỏi:
-
- Sa-môn! Hôm
nay vì sao không đến?
-
- Hôm qua Ông
nghĩ rằng: 'Cù-đàm này rất là đoan chính, hiếm có ở đời.
Sáng mai ta tế lớn. Nếu Quốc vương, đại thần thấy được
liền chấm dứt sự cúng dường ta. Nếu ông ta không đến thì
may lắm.' Ta biết tâm Ông nghĩ thế, nên Ta đến
Uất-đan-việt lấy cơm gạo tự nhiên, đến Cù-da-ni lấy sữa
tươi, lên đến suối A-nậu-đạt-ăn, ở đó trọn ngày, đến chiều
trở về động đá nghỉ.
-
Bấy giờ Cù-đàm
lại nghĩ: 'Vị đại Sa-môn này rất có thần túc, thật có oai
thần, tuy vậy chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.
-
Thế Tôn ăn xong
trở về động đá nghỉ. Ðêm ấy Tứ thiên vương đến chỗ Thế Tôn
để nghe kinh pháp. Tứ thiên vương cũng có hào quang sáng
chói, Phật cũng phóng hào quang lớn chiếu núi rừng đó rỗng
suốt một màu. Ðêm đó Cù-đàm thấy ánh sáng, sáng sớm hôm
sau đến chỗ Thế Tôn, đến rồi bạch Thế Tôn:
-
- Ðêm qua có
ánh sáng gì chiếu núi rừng này?
-
- Ðêm qua Tứ
thiên vương đến chỗ Ta nghe pháp. Ðó là ánh sáng của Tứ
thiên vương ấy.
-
Khi đó, Cù-đàm
lại nghĩ: 'Sa-môn rất có thần lực, có thể khiến Tứ thiên
vương đến nghe pháp, tuy có thần lực này vẫn chẳng bằng ta
đắc đạo chân thật'.
-
Thế Tôn ăn xong
lại về nghỉ. Nửa đêm Thích-đế-hoàn-nhân đến chỗ Thế Tôn
nghe pháp. Ánh sáng của Thiên Ðế Thích lại chiếu núi kia.
Ban đêm Cù-đàm thức dậy nhìn sao, thấy ánh sáng này. Sáng
sớm hôm sau, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn hỏi:
-
- Cù-đàm! Ðêm
qua ánh sáng rất lạ lùng. Có nhân duyên gì mà có ánh sáng
này?
-
- Ðêm qua Thiên
Ðế Thích đến đây nghe pháp nên có ánh sáng này.
-
Cù-đàm liền
nghĩ: 'Sa-môn Cù-đàm này rất có thần lực, có đại oai thần,
có thể khiến Thiên Ðế Thích đến nghe pháp, tuy vậy chẳng
bằng ta đắc đạo chân thật'.
-
Thế Tôn ăn xong
trở về kia nghỉ. Nửa đêm Phạm thiên vương phóng đại quang
minh chiếu vào núi kia rồi đến chỗ Thế Tôn mà nghe pháp.
Bấy giờ Cù-đàm ban đêm thức dậy thấy ánh sáng. Hôm sau đến
chỗ Thế Tôn hỏi:
-
- Ðêm qua ánh
sáng chiếu hơn ánh sáng trơi, tăng gấp bội. Có nhân duyên
gì mà có ánh sáng này?
-
- Cù-đàm nên
biết, đêm qua Phạm thiên vương đến chỗ Ta nghe pháp.
-
Cù-đàm lại
nghĩ: 'Sa-môn Cù-đàm này rất có thần lực, có thể khiến tổ
phụ ta đến chỗ Sa-môn này nghe pháp, tuy vậy chẳng bằng ta
đắc đạo chân thật'.
-
Bấy giờ Thế Tôn
được y năm mảnh tệ nát, có ý muốn giặt giữ, liền nghĩ:
'Nay ta nên giặt y này ở đâu?'
-
Thích-đế-hoàn-nhân biết ý Thế Tôn, liền hóa ra ao tắm, rồi
bạch Thế Tôn;
-
- Ngài có thể
giặt y ở đây.
-
Khi ấy Thế Tôn
nghĩ rằng: 'Ta sẽ vò giặt y này ở đâu?'
-
Tứ Thiên vương
biết tâm niệm Thế Tôn, liền nhấc một tảng đá vuông lớn đặt
ở mé nước, bạch Thế Tôn:
-
- Ngài nên vò
giặt ở đây.
-
Thế Tôn lại
nghĩ: 'Ta phơi y này ở đâu?'
-
Thọ thần biết
tâm niệm Thế Tôn liền rũ cành cây xuống, bạch Thế Tôn:
-
- Xin Thế Tôn
phơi y ở đây.
-
Sáng sớm hôm
sau, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn hỏi Thế Tôn:
-
- Vốn không có
ao này, nay có ao, vốn không có cây, nay có cây này, vốn
không có đá, nay có đá này. Có nhân duyên gì mà có sự biến
hóa này?
-
- Ở đây đêm
qua, Thiên Ðế Thích biết Ta muốn giặt y nên làm ao tắm
này. Ta lại nghĩ: 'Nên vò giặt y này ở đâu?', thời Tứ
thiên vương biết tâm niệm của Ta liền đem đá này đến. Ta
lại nghĩ: 'Nên phơi y ở đâu?' Thọ thần biết tâm niệm Ta
liền thòng cành cây này.
-
Lúc ấy, Cù-đàm
nghĩ: 'Sa-môn Cù-đàm này tuy có thần lực mà chẳng bằng ta
đắc đạo chân thật'.
-
Thế Tôn ăn xong
trở về kia nghỉ. Nửa đêm hôm đó có đám mây đen lớn nổi lên
làm mưa to, sông lớn Ni-liên chảy cuồn cuộn. Khi ấy Cù-đàm
lại nghĩ: 'Sông này chảy xiết, Sa-môn chắc sẽ bị nước
cuốn, nay ta đến xem'.
-
Bấy giờ Cù-đàm
và năm trăm đệ tử đến bờ sông. Lúc ấy Thế Tôn đang đi trên
nước, chân chẳng thấm nước. Cù-đàm từ xa trông thấy Thế
Tôn đi trên nước, liền nghĩ: 'Thật kỳ! Thật lạ! Sa-môn
Cù-đàm có thể đi trên nước, ta cũng có thể đi trên nước,
nhưng chẳng thể khiến chân không thấm. Sa-môn này tuy có
oai thần nhưng chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.
-
Lúc ấy, Thế Tôn
bảo Cù-đàm:
-
- Ông cũng
chẳng phải A-la-hán, lại chẳng biết đạo A-la-hán, Ông còn
chẳng biết tên A-la-hán huống là đắc đạo ư? Ông là người
mù, mắt chẳng thấy gì. Như Lai hiện biến hóa như thế, Ông
còn nói: 'Chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'. Ông vừa nói:
'Ta có thể đi trên nước'. Nay chính đúng lúc, Ông có thể
cùng Ta đi trên nước chăng? Nay Ông nên bỏ tâm tà kiến,
chẳng để chịu khổ não này mãi mãi.
-
Bấy giờ Cù-đàm
nghe Thế Tôn nói xong, liền đến trước cúi lạy chân Phật:
-
- Nay con hối
lỗi, thầm biết phi pháp mà xúc phạm Như Lai, cúi mong nhận
lời con hối lỗi.
-
Như thế lập lại
ba phen. Thế Tôn bảo:
-
- Nhận cho Ông
sửa lỗi, đã tự biết xúc não Như Lai.
-
Bấy giờ Cù-đàm
bảo năm trăm đệ tử:
-
- Các Ông mỗi
người tùy ý, nay ta tự quy y Sa-môn Cù-đàm.
-
Năm trăm đệ tử
bạch Cù-đàm:
-
- Chúng con
trước cũng có lòng đối với Sa-môn Cù-đàm, ngay lúc Cù-đàm
hàng phục rồng, chúng con đã muốn quy mạng. Nếu Thầy tự
quy Cù-đàm, năm trăm đệ tử chúng con đều tự quy với Cù-đàm
cả.
-
Cù-đàm đáp:
-
- Nay chính
đúng lúc. Vì tâm ta lại chấp điều ngu si này, thấy bao
nhiêu biến hóa mà ý còn chưa hiểu, nên tự xưng là đạo ta
chân chánh.
-
Cù-đàm đem năm
trăm đệ tử, trước sau vây quanh đến chỗ Thế Tôn cúi lạy
dưới chân rồi đứng một bên, bạch Thế Tôn:
-
- Cúi mong Thế
Tôn cho chúng con được làm Sa-môn, tu hạnh thanh tịnh.
-
Pháp thường của
chư Phật nếu gọi: 'Khéo đến, Tỳ-kheo!' thì người kia liền
thành Sa-môn. Bấy giờ Thế Tôn bảo Cù-đàm:
-
- Khéo đến,
Tỳ-kheo! Pháp này vi diệu, khéo tu Phạm hạnh.
-
Cù-đàm y áo
đang mặc đều biến thành cà-sa, đầu tóc tự nhiên rụng như
được cạo đã bảy ngày. Lúc đó Cù-đàm đem dụng cụ học thuật
và chú thuật ném xuống nước. Rồi năm trăm đệ tử bạch Thế
Tôn:
-
- Cúi mong Thế
Tôn cho chúng con được làm Sa-môn.
-
- Khéo đến,
Tỳ-kheo!
-
Lúc ấy năm trăm
đệ tử liền thành Sa-môn, cà-sa đắp thân, tóc trên đầu tự
rụng.
-
Bấy giờ thuận
dòng về phía hạ lưu có Phạm chí tên Giang Cù-đàm ở bên bờ
sông. Lúc ấy Giang Cù-đàm thấy đồ chú thuật bị nước cuốn
trôi hết, liền nghĩ rằng: 'Chao ôi, sư huynh của ta bị
nước dìm chết rồi!'.
-
Bấy giờ Giang
Cù-đàm đem ba trăm đệ tử theo dòng lên phía thượng lưu tìm
thây của anh, xa thấy Thế Tôn ngồi dưới gốc cây cùng Ðại
Cù-đàm và năm trăm đệ tử đang vây quanh trước sau thuyết
pháp. Thấy rồi, ông liền đến trước Cù-đàm, nói:
-
- Việc này hay
nhỉ! Vốn là thầy người, nay làm đệ tử, đại huynh cớ sao
lại làm đệ tử của Sa-môn?
-
Cù-đàm đáp:
-
- Ðiều này tốt
nhất, không gì hơn điều này.
-
Bấy giờ Ưu-tỳ
Cù-đàm hướng về Giang Cù-đàm mà đọc kệ này:
-
Thầy này Người
Trời quý,
-
Nay ta thờ kính
thầy.
-
Chư Phật hiện
ra đời,
-
Rất là khó được
gặp.
-
Giang Cù-đàm
nghe danh hiệu Phật hết sức vui mừng hớn hở, không kềm
được, đến trước bạch Thế Tôn:
-
- Xin cho con
hành đạo.
-
- Khéo đến,
Tỳ-kheo! Khéo tu Phạm hạnh, dứt hết mé khổ.
-
Bấy giờ Giang
Cù-đàm và ba trăm đệ tử liền thành Sa-môn, cà-sa đắp thân,
tóc trên đầu tự rụng. Lúc ấy, Giang Cù-đàm và ba trăm đệ
tử đem đồ chú thuật liệng hết xuống nước.
-
Khi ấy cuối
dòng sông có Phạm chí tên Già-di Cù-đàm ở bên bờ sông, xa
thấy đồ chú thuật trôi trên nước, liền nghĩ: 'Ta có hai
anh ở sông phía trên học đạo, nay đồ chú thuật đều bị nước
trôi, hai anh Cù-đàm chắc bị nước hại'.
-
Ông liền đem
hai trăm đệ tử theo dòng lên thượng lưu, đến chỗ học
thuật, xa thấy hai anh làm Sa-môn, liền nói:
-
- Việc này hay
nhỉ! Vốn được người tôn kính, nay làm đệ tử Sa-môn!
-
Cù-đàm đáp:
-
- Chỗ này tốt
nhất, không đâu hơn đây.
-
Bấy giờ Già-di
Cù-đàm liền nghĩ: 'Nay hai anh ta học rộng biết nhiều. Nơi
đây ắt là chỗ tốt, khiến hai anh ta ở đó học đạo. Nay ta
cũng nên ở đó học đạo'. Khi ấy Già-di Cù-đàm đến trước Thế
Tôn bạch:
-
- Cúi mong Thế
Tôn cho con làm Sa-môn.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Khéo đến,
Tỳ-kheo! Khéo tu Phạm hạnh, dứt hết mé khổ.
-
Bấy giờ Già-di
Cù-đàm liền thành Sa-môn, cà-sa đắp thân, tóc trên đầu tự
rụng, như cạo đầu đã bảy ngày. Lúc ấy, Thế Tôn ở bên bờ
sông ấy, dưới gốc cây Ni-câu-luật thành Phật chưa bao lâu,
có một ngàn đệ tử đều là bậc tôn túc kỳ cựu.
-
Thế Tôn dùng ba
việc giáo hóa. Thế nào là ba? Ðó là thần túc giáo hóa,
ngôn giáo giáo hóa và huấn hối giáo hóa.
-
Thế nào gọi là
thần túc giáo hóa? Nghĩa là Thế Tôn hoặc biến bao nhiêu
thân hình hợp lại làm một, hoặc biến mất, hoặc hiện đi qua
vách đá không chướng ngại, hoặc từ đất chui lên, hoặc chui
vào đất, giống như nước chảy không chạm ngại, hoặc ngồi
kiết-già đầy khắp hư không, như chim trong không, chẳng bị
chướng ngại; cũng như núi lửa lớn phun khói vô lượng, như
mặt trời mặt trăng có thần lực lớn không thể hạn lượng,
dùng tay với đến cõi Phạm thiên. Thế Tôn hiện thần túc như
thế.
-
Thế nào gọi là
ngôn giáo giáo hóa? Nghĩa là Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo nên
bỏ điều này, nên giữ điều này, nên gần điều này, nên xa
điều này, nên nhớ điều này, nên trừ điều này, nên quán
điều này, không nên quán điều này.
-
Thế nào là nên
tu hay không nên tu? Nghĩa là nên tu Thất giác chi, nên
diệt ba kiết (sử).
-
Thế nào là nên
quán, không nên quán? Nên quán nghĩa là nên khéo quán ba
pháp kiết của Sa-môn, đó là vui xuất yếu, vui không sân,
vui không nộ. Thế nào là không nên quán? Nghĩa là ba điều
khổ của Sa-môn. Thế nào là ba? Ðó là quán dục, quán sân,
quán nộ.
-
Thế nào là
niệm? Thế nào là không nên niệm? Nghĩa là nên niệm Khổ đế,
nên niệm Tập đế, nên niệm Tận đế, nên niệm Ðạo đế; chớ
niệm tà đế, chấp kiến thường, kiến chấp vô thường, kiến
chấp hữu biên, kiến chấp vô biên; kia là mạng, kia là
thân, không phải mạng, không phải thân, Như Lai mạng
chung, Như Lai chẳng mạng chung, có chấm dứt, có không
chấm dứt, cũng chẳng có chấm dứt cũng chẳng không chấm
dứt. Chớ có nghĩ thế.
-
Thế nào gọi là
huấn hối giáo hóa? Lại nữa, nên đi thế này, không nên đi
thế này, đến thế này, không nên đến thế này, nên làm
thinh, nên nói năng thế này, nên giữ y thế này, chẳng nên
giữ y như thế, nên vào làng như thế, không nên vào làng
như thế. Ðó gọi là huấn hối giáo hóa.
-
Bấy giờ Thế Tôn
dùng ba việc này giáo hóa ngàn Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo kia
nhận lời Phật dạy rồi, ngàn Tỳ-kheo đều thành A-la-hán.
Khi ấy, Thế Tôn đã thấy ngàn Tỳ-kheo đắc A-la-hán. Bấy giờ
trong cõi Diêm-phù có ngàn La-hán và năm Tỳ-kheo với Phật
là sáu. Khi ấy Ưu-tỳ Cù-đàm liền nghĩ: 'Thế Tôn vì sao
ngồi hướng về Ca-tỳ-la-vệ?'
-
Ưu-tỳ Cù-đàm
liền quỳ trước Thế Tôn bạch:
-
- Chẳng rõ Như
Lai vì sao ngồi hướng về Ca-ty-la-vệ?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Như Lai ở đời
nên làm năm việc. Thế nào là năm? Nên chuyển Pháp luân,
nên thuyết pháp cho cha, nên thuyết pháp cho mẹ, nên dắt
dẫn phàm phu lập hạnh Bồ-tát, nên thọ ký Bồ-tát. Ðó là,
này Cù-đàm, Như Lai ra đời nên hành năm pháp này.
-
Ưu-tỳ Cù-đàm
lại nghĩ rằng: 'Như Lai nhớ thân tộc và nước của mình nên
ngồi hướng về đó'.
-
Năm Tỳ-kheo dần
đến sông Ni-liên, đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một
bên. Lúc ấy Tôn giả Ưu-đà-da-xa thấy Thế Tôn ngồi hướng về
Ca-tỳ-la-vệ, thấy rồi bên nghĩ: 'Thế Tôn chắc đang muốn
đến Ca-tỳ-la-vệ để gặp thân thích'. Ưu-đà-la đến quỳ trước
Thế Tôn bạch:
-
- Nay con kham
nhậm có chỗ muốn hỏi, cúi mong Ngài diễn bày.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Thầy muốn hỏi
gì cứ hỏi.
-
Ưu-đà-la bạch
Thế Tôn:
-
- Con xem ý Như
Lai muốn hướng đến Ca-tỳ-la-vệ.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Ðúng vậy, như
lời Thấy nói. Ưu-đà-la nên biết: Hãy đến chỗ vua Chân Tịnh
(Bạch Tịnh) trước, Ta sẽ đến sau. Vì sao thế? Dòng
Sát-đế-lợi trước sai sứ báo cho biết, sau đó Như Lai sẽ
đến. Thầy đến bảo với vua: Sau bảy ngày, Như Lai sẽ đến
gặp vua.
-
Ưu-đà-da đáp:
-
- Xin vâng, Thế
Tôn.
-
Ưu-đà-da liền
từ chỗ ngồi đứng lên, sửa sang y phục, cúi lạy Thế Tôn, ở
trước Thế Tôn biến mất, đến chỗ vua Chân Tịnh, nơi
Ca-tỳ-la-vệ, đến rồi, đứng trước vua. Bấy giờ vua Chân
Tịnh đang ngồi trên đại điện với các thể nữ. Khi ấy,
Ưu-đà-da bay trên không trung, vua Chân Tịnh thấy Ưu-đà-da
tay ôm bát, cầm gậy đứng trước. Thấy rồi sợ hãi nói:
-
- Ðây là ai?
Người, Phi nhân, Trời, Quỷ, Dạ xoa, La sát, Trời, Rồng,
Quỷ thần chăng?
-
Vua Chân Tịnh
hỏi Ưu-đà-da:
-
- Ông là ai?
-
Rồi vua dùng kệ
này nói với Ưu-đà-da:
-
Là Trời hay là
quỷ?
-
Là Càn-thát-bà
chăng?
-
Nay Ông tên là
gì?
-
Nay ta muốn
biết vậy.
-
Ưu-đà-da lại
dùng kệ đáp vua:
-
Tôi cũng chẳng
phải Trời,
-
Chẳng phải
Càn-thát-bà
-
Ở đây nước
Ca-tỳ,
-
Người đất nước
Ðại vương,
-
Xưa diệt mười
tám ức
-
Chúng Tệ ma
Ba-tuần,
-
Thầy tôi
Thích-ca văn,
-
Tôi thật đệ tử
Ngài.
-
Vua Chân Tịnh
lại dùng kệ này bảo Ưu-đà-da:
-
Ai hoại mười
tám ức
-
Chứng Tệ ma
Ba-tuần,
-
Ai tên Thích-ca
văn,
-
Mà nay Ông tán
thán?
-
Ưu-đà-da nói
kệ:
-
Như Lai lúc mới
sanh,
-
Trời đất đều
chấn động,
-
Thệ nguyện tất
hoàn thành,
-
Hôm nay hiệu
Tất-đạt.
-
Ngài hàng mười
tám ức
-
Chúng Tệ ma
Ba-tuần,
-
Ngài tên
Thích-ca văn,
-
Hôm thành Phật
đạo.
-
Người nay cho
Thích Sư,
-
Ðệ tử của
Cù-đàm,
-
Hôm nay làm
Sa-môn,
-
Vốn tên
Ưu-đà-da.
-
Vua Chân Tịnh
nghe lời này rồi, vui mừng không kềm được, bảo Ưu-đà-da:
-
- Thế nào
Ưu-đà-da, thái tử Tất-đạt nay có ở đây sao?
-
Ưu-đà-da đáp:
-
- Hôm nay Phật
Thích-ca Văn hiện có mặt.
-
Vua hỏi:
-
- Nay đã thành
Phật sao?
-
- Nay đã thành
Phật.
-
Hôm nay Như Lai
lại ở nơi nào?
-
- Nay Như Lai ở
nơi cây Ni-câu-loại nước Ma-kiệt.
-
- Ðệ tử học
theo Ngài là những ai?
-
- Hàng ức chư
Thiên, ngàn Tỳ-kheo và Tứ thiên vương hằng ở bên cạnh.
-
- Mặc y phục
như loại nào?
-
- Như Lai mặc y
phục gọi là ca-sa.
-
- Ăn thức ăn
gì?
-
- Thân Như Lai
lấy Pháp làm thức ăn.
-
Vua lại hỏi:
-
- Thế nào
Ưu-đà-da, ta có thể gặp được Như Lai chăng?
-
Ưu-đà-da đáp:
-
- Vua chớ buồn
rầu, bảy ngày sau Như Lai sẽ vào thành.
-
Vua hết sức vui
mừng, không kềm đưọc, tự tay san sớt thức ăn cúng dường
Ưu-đà-da. Bấy giờ vua Chân Tịnh đánh trống vang lừng ra
lịnh nhân dân trong nước san bằng đường sá, dọn dẹp rác
rến, lấy nước thơm rảy trên đất, treo cờ phướn, lọng,
xướng kỹ nhạc chẳng thể kể xiết, lại ra lệnh trong nước:
'Những người điếc, đui, câm, ngọng đều không được xuất
hiện. Sau bảy ngày Tất-đạt sẽ vào thành'.
-
Vua Chân Tịnh
nghe Phật sẽ vào thành, trong bảy ngày cũng không ngủ
nghỉ. Lúc ấy, Thế Tôn đến ngày thứ bảy, liền nghĩ: 'Nay Ta
nên dùng sức thần túc để đến nước Ca-tỳ-la-vệ'.
-
Thế Tôn cùng
các Tỳ-kheo, trước sau vây quanh đến nước Ca-tỳ-la-vệ, đến
rồi, liền vào trong vườn Tát-lô ở phía Bắc thành. Bấy giờ
vua Chân Tịnh nghe Thế Tôn đã đến Ca-tỳ-la-vệ ở trong vườn
Tát-lô phía Bắc thành. Lúc ấy vua Chân Tịnh đem dòng họ
Thích đến Thế Tôn. Khi ấy, Thế Tôn lại nghĩ: 'Nếu đích
thân vua Chân Tịnh đến, đây là điều chẳng nên. Nay Ta nên
đến cùng vua gặp gỡ. Vì sao? Phụ mẫu ân nặng, dưỡng dục
tình thâm'.
-
Bấy giờ Thế Tôn
đem chúng Tỳ-kheo đến cửa thành, bay trên hư không cách
đất bảy nhẫn. Khi ấy, vua Chân Tịnh thấy Thế Tôn đoan
chánh vô cùng, thế gian hiếm có, các căn lặng lẽ, không có
nhiều niệm. Thân có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ
đẹp, tự trang nghiêm thân, liền phát tâm hoan hỉ, cúi lạy
rồi nói:
-
- Tôi là vua
dòng Sát-lợi tên Chân Tịnh.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Chúc Ðại
vương hưởng thọ vô cùng. Thế nên, Ðại vương, hãy dùng
Chánh pháp cai trị, chớ dùng tà pháp. Ðại vương nên biết,
những người dùng Chánh pháp cai trị, thân hoại mạng chung
sanh vào cõi lành, lên Trời.
-
Lúc ấy Thế Tôn
đi trong không trung đến cung vua Chân Tịnh, đến rồi lại
tòa ngồi. Vua thấy Thế Tôn ngồi yên, tự tay mình san sớt
các thức ăn uống. Thấy Thế Tôn ăn xong thì đem nước sạch
đến, rồi vua lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi nghe pháp. Bấy giờ
Thế Tôn dần dần thuyết diệu nghĩa cho vua Chân Tịnh. Chỗ
nói luận là thí luận, giới luận, luận sanh cõi trời, dục
là hạnh bất tịnh, xuất yếu là vui.
-
Bấy giờ Thế Tôn
thấy vua tâm ý khai mở. Chư Phật Thế Tôn thuyết pháp Khổ,
Tập, Diệt, Ðạo, Ngài đều nói hết cho vua. Lúc ấy vua Chân
Tịnh ở trên tòa ngồi, dứt các trần cấu, được pháp nhãn
thanh tịnh. Thế Tôn thuyết pháp cho vua xong, liền từ chỗ
ngồi đứng lên đi. Vua Chân Tịnh mới tập họp hết chúng họ
Thích mà nói:
-
- Các Ông
Sa-môn mặt mày rất xấu. Dòng Sát-lợi mà cùng chúng Phạm
chí, đây thật là chẳng nên. Dòng Thích Sát-lợi lại được
chúng Sát-lợi, đây mới là hay.
-
Các người họ
Thích đáp: - Ðúng vậy, Ðại vương! Như Ðại vương bảo,
Sát-lợi lại được chúng Sát-lợi, đây thật là hay.
-
Bấy giờ vua bảo
trong nước, những người có hai anh em, hãy để một người
hành đạo. Ai không tuân theo sẽ bị phạt nặng. Lúc ấy, dòng
họ Thích nghe lịnh vua ban: 'Những người có hai anh em,
nên cho một người hành đạo, ai không tuân lời sẽ phạt
nặng'. Bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa họ Thích bảo Thích A-nan rằng:
-
- Hôm nay vua
Chân Tịnh có dạy rằng mấy người có hai anh em, nên chia
một người hành đạo. Nay em xuất gia học đạo, anh sẽ ở nhà
sửa sang gia nghiệp.
-
Bấy giờ A-nan
vui mừng hớn hở đáp:
-
- Em sẽ y theo
lời anh bảo.
-
Khi ấy Nan-đà
họ Thích bảo A-na-luật:
-
- Vua Chân Tịnh
có bảo, ai có hai anh em hãy chia một người hành đạo, nếu
không nghe sẽ phạt tội nặng. Nay em xuất gia, tôi sẽ ở
nhà.
-
A-na-luật nghe
xong, vui mừng hớn hở, không kềm được đáp:
-
- Vâng, như lời
anh bảo.
-
Bấy giờ vua
Chân Tịnh cùng Thích Hộc Tịnh, Thích Thúc Tịnh, Thích Cam
Lồ đến chỗ Thế Tôn.
-
Khi ấy các vua
cỡi xe tứ mã, xe trắng lọng trắng, ngựa trắng đóng vào xe.
Họ Thích thứ nhì đi xe xanh, lọng xanh, đóng ngựa xanh. Họ
Thích thứ ba đi xe vàng, lọng vàng, đóng ngựa vàng. Họ
Thích thứ tư đi xe đỏ, lọng đỏ, đóng ngựa đỏ. Lúc ấy, họ
Thích có người cỡi voi, có người cỡi ngựa, đều đến tụ tập.
-
Thế Tôn xa
trông thấy vua Chân Tịnh đem các Thích chúng đến, liền bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Các Thầy hãy
xem các Thích chúng này và xem chúng vua Chân Tịnh.
Tỳ-kheo nên biết, Trời ba mươi ba lúc dạo vườn xem cũng
như lối này không khác.
-
Bấy giờ A-nan
cỡi voi trắng lớn, áo trắng, lọng trắng. Phật thấy rồi bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Các Thầy có
thấy A-nan cỡi voi trắng mặc áo trắng không?
-
Các Tỳ-kheo
đáp:
-
- Thưa vâng,
Thế Tôn, chúng con có thấy.
-
Phật bảo các
Tỳ-kheo:
-
- Người này sẽ
xuất gia học đạo, là người đa văn đệ nhất, kham hầu cận
bên Ta. Các Thầy thấy A-na-luật này chăng?
-
Các Tỳ-kheo
đáp:
-
- Thưa vâng, đã
thấy.
-
Phật bảo các
Tỳ-kheo:
-
- Người này sẽ
xuất gia học đạo, là thiên nhãn đệ nhất.
-
Bấy giờ vua
Chân Tịnh và bốn anh em cùng với Nan-đà, A-nan đều bước
đến trước, trừ bỏ năm món trang sức, đến chỗ Thế Tôn, cúi
lạy rồi ngồi một bên. Lúc ấy, vua Chân Tịnh bạch Phật:
-
- Ðêm qua tôi
nghĩ: 'Chúng Sát-lợi chẳng nên cùng chúng Phạm chí, mà nên
cùng chúng Sát-lợi. Ðây mới thích nghi'. Tôi liền ra lệnh
trong nước, ai có hai anh em, liền chọn một người cho xuất
gia học đạo. Cúi mong Thế Tôn cho họ xuất gia học đạo.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Lành thay,
Ðại vương! Việc này có nhiều lợi ích, Trời, Người được an.
Vì sao như thế? Thiện tri thức này là ruộng phước tốt
lành. Tôi cũng nhờ Thiện tri thức mà thoát được sanh, già,
bệnh, chết này.
-
Bấy giờ các
chúng họ Thích liền được hành đạo. Vua Chân Tịnh bạch Thế
Tôn:
-
- Cúi mong Thế
Tôn, dạy dỗ các tân Tỳ-kheo này sẽ như dạy dỗ Ưu-đà-da. Vì
sao thế? Tỳ-kheo Ưu-đà-da này rất có thần lực, xin cho
Tỳ-kheo Ưu-đà-da hằng ở trong cung giáo hóa, khiến chúng
sanh được an ổn lâu dài. Vì sao thế? Tỳ-kheo này rất có
thần lực, tôi vừa thấy Tỳ-kheo Ưu-đà-da liền phát tâm hoan
hỉ, tôi liền nghĩ: 'Ðệ tử còn có thần lực, huống Như Lai
kia lại không có thần lực này sao?'
-
Thế Tôn bảo:
-
- Ðúng thế, Ðại
vương! Như Ðại vương nói, Tỳ-kheo Ưu-đà-da này rất có thần
lực, có oai đức lớn.
-
Bấy giờ Thế Tôn
bảo các Tỳ-kheo:
-
- Ðệ tử bậc
nhất về biết rộng hiểu nhiều, được quốc vương nhớ đến là
Tỳ-kheo A-nhã Câu-lân, khuyến hóa nhân dân là Tỳ-kheo
Ưu-đà-da. Có trí mau lẹ là Tỳ-kheo Ma-ha-nam. Hằng ưa phi
hành là Tỳ-kheo Tu-bà-hưu. Qua lại trên không là Tỳ-kheo
Bà-phá. Có nhiều đệ tử là Tỳ-kheo Ưu-tỳ Cù-đàm. Ý được
quán không là Tỳ-kheo Giang Cù-đàm. Ý được chỉ quán là
Tỳ-kheo Tượng Cù-đàm.
-
Lúc ấy Thế Tôn
rộng thuyết pháp vi diệu cho vua Chân Tịnh. Vua nghe pháp
xong liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi lạy rồi lui đi.
-
Bấy giờ các
Tỳ-kheo và vua Chân Tịnh nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng
làm.
|
|