|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
MỘT
- 6
-
XXVI.2. Phẩm Tứ Ý Đoạn (2)
-
-
Thế Tôn bảo A-nan:
-
- Nay Thầy hãy đưa Xá-lợi của
Xá-lợi-phất đến đây.
-
Tôn giả A-nan đáp:
-
- Xin vâng, Thế Tôn.
-
Tôn giả A-nan liền trao Xá-lợi vào
tay Thế Tôn. Thế Tôn cầm Xá-lợi rồi bảo các Tỳ-kheo:
-
- Ðây là Xá-lợi của Tỳ-kheo
Xá-lợi-phất, là bậc trí tuệ, thông minh, tài cao, bao nhiêu loại trí: trí
không cùng, trí không bờ đáy, có trí mau chóng, có trí khinh tiện, có trí lợi
cơ, có trí rất sâu, có trí xét kỹ, ít muốn, biết đủ, ưa ở chỗ vắng vẻ, có lòng
dũng mãnh, việc làm không rối loạn, tâm không khiếp nhược, hay nhẫn nhục, trừ
bỏ pháp ác, thể tánh nhu hòa, không ưa tranh tụng, hằng tu tinh tấn, hành
chánh định, tập trí tuệ, niệm giải thoát, tu hành thân giải thoát tri kiến.
-
Tỳ-kheo nên biết, ví như đại thọ
không có cành nhánh; nay trong Tỳ-kheo Tăng, Như Lai là đại thọ, Xá-lợi-phất
diệt độ rồi, Ta như cây không cành. Nếu Xá-lợi-phất đi đến phương nào, phương
đó liền gặp may mắn lớn lao, mong Xá-lợi-phất dừng lại ở phương đó. Sở dĩ như
thế, vì Tỳ-kheo Xá-lợi-phất hay cùng ngoại đạo dị học luận nghị, ai cũng bị
hàng phục.
-
Bấy giờ Ðại Mục-kiền-liên nghe Tôn
giả Xá-lợi-phất diệt độ, liền dùng thần thông đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy Phật
rồi đứng một bên. Tôn giả Mục-kiền-liên bạch Thế Tôn:
-
- Nay Tỳ-kheo Xá-lợi-phất đã diệt
độ. Nay con từ biệt Thế Tôn, con cũng muốn diệt độ.
-
Thế Tôn im lặng chẳng đáp. Như thế
hai ba phen bạch Thế Tôn:
-
- Con muốn diệt độ.
-
Bấy giờ Thế Tôn vẫn im lặng chẳng
đáp. Tôn giả Mục-kiền-liên thấy Thế Tôn im lặng chẳng đáp, liền cúi lạy Phật
rồi lui đi. Tôn giả trở về Tinh xá, thu xếp y bát, ra khỏi thành La-duyệt, tự
đến quê mình. Bấy giờ có đông chúng Tỳ-kheo theo sau Tôn giả Mục-liên. Chúng
Tỳ-kheo cùng Tôn giả Mục-liên đến thôn Ma-sấu, du hóa tại đó và mắc bịnh nặng.
-
Lúc ấy, Tôn giả Mục-liên ở giữa đất
trống trải, tòa mà ngồi, nhập Sơ thiền; từ Sơ thiền dậy, nhập Nhị thiền; từ
Nhị thiền dậy, nhập Tam thiền; từ Tam thiền dậy, nhập Tứ thiền; từ Tứ thiền
dậy, nhập Không xứ, từ Không xứ dậy, nhập Thức xứ, từ Thức xứ dậy, nhập Bất
dụng xứ; từ Bất dụng xứ dậy, nhập Hữu tưởng vô tưởng xứ; từ Hữu tưởng vô tưởng
xứ dậy, nhập Hỏa quang tam-muội; từ Hỏa quang tam-muội dậy, nhập Thủy quang
tam-muội; từ Thủy quang tam-muội dậy, nhập Diệt tận định.
-
Từ Diệt tận định dậy, nhập Thủy
quang tam-muội; từ Thủy quang tam-muội dậy, nhập Hỏa quang tam-muội; từ Hỏa
quang tam-muội dậy, nhập Hữu tưởng vô tưởng định; từ Hữu tưởng vô tưởng định
dậy, nhập Bất dụng xứ; từ Bất dụng xứ dậy, nhập Thức xứ, Không xứ, Tứ thiền,
Tam thiền, Nhị thiền, Sơ thiền.
- Từ
Sơ thiền dậy, bay lên hư không, ngồi, nằm, kinh hành. Thân trên ra lửa, thân
dưới ra nước. Hoặc thân dưới ra lửa, thân trên ra nước, làm mười tám cách biến
hóa thần túc.
-
Bấy giờ Tôn giả Mục-kiền-liên bay
xuống tòa, ngồi kiết-già, chính thân, chính ý, buộc niệm ở trước và nhập Sơ
thiền; từ Sơ thiền dậy, nhập Nhị thiền; từ Nhị thiền đậy, nhập Tam thiền; từ
Tam thiền dậy, nhập Tứ thiền; từ Tứ thiền dậy, nhập Không xứ; từ Không xứ dậy,
nhập Thức xứ; từ Thức xứ dậy, nhập Bất dụng xứ; từ Bất dụng xứ dậy, nhập Hữu
tưởng vô tưởng xứ; từ Hữu tưởng vô tưởng xứ dậy, nhập Hỏa quang tam-muội; từ
Hoa quang tam-muội dậy, nhập Thủy quang tam-muội; Từ Thủy quang tam-muội dậy,
nhập Diệt tận định.
-
Từ Diệt tận định dậy, Tôn giả trở
lại nhập Thủy quang tam-muội, Hỏa quang, Hữu tưởng vô tưởng xứ, Bất dụng xứ,
Thức xứ, Không xứ, Tứ thiền, Tam thiền, Nhị thiền, Sơ thiền.
-
Lại từ Sơ thiền dậy, Tôn giả nhập
nhị thiền; từ Nhị thiền dậy, nhập Tam thiền; từ Tam thiền dậy, nhập Tứ thiền,
từ Tứ thiền dậy, ngay đó mà diệt độ.
- Bấy
giờ Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên đã diệt độ rồi, mặt đất chấn động rất lớn. Chư
Thiên bảo nhau hiện đến, hầu hạ Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên, cúng dường tôn đức,
hoặc đem các thứ hương hoa đến cúng dường; chư Thiên ở không trung xướng kỹ
nhạc, gẩy đàn, ca múa dâng cúng lên Tôn giả Mục-kiền-liên.
-
Lúc ấy Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên đã
diệt độ, trong thôn Nan-la-đà trong vòng một do-tuần, chư Thiên đầy dẫy. Bấy
giờ lại có nhiều chúng Tỳ-kheo cầm các thứ hương hoa rải trên xác Tôn giả
Mục-kiền-liên.
-
Ðức Thế Tôn từ thành La-duyệt tuần
tự khất thực cùng năm trăm Tỳ-kheo du hóa trong nhân gian, đến thôn Na-la-đà
cùng với năm trăm Tỳ-kheo. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên diệt
độ chưa bao lâu. Ðức Thế Tôn ngồi giữa đất trống, im lặng quan sát các
Tỳ-kheo. Im lặng quan sát các Tỳ-kheo xong, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Nay Ta quan sát các Thầy trong
chúng này bị tổn giảm to lớn. Vì sao thế? Nay trong chúng này không có Tỳ-kheo
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Nếu phương nào có Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đi
đến phương ấy liền chẳng trống rỗng mà được nghe nay Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên ở tại phương này. Sở dĩ như thế vì Tỳ-kheo Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên kham nhận hàng phục ngoại đạo ở đây.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Việc làm của chư Phật rất kỳ đặc.
Có hai đệ tử trí tuệ và thần túc nhập Niết-bàn. Nhưng Như Lai không sầu lo.
Ngay cả hằng sa Như Lai đời quá khứ cũng lại có đệ tử trí tuệ, thần túc này và
ngay đến chư Phật ra đời ở tương lai cũng sẽ có đệ tử trí tuệ, thần túc này.
-
Tỳ-kheo nên biết, thế gian có hai
nghiệp thí. Thế nào là hai? Nghĩa là tài thí và pháp thí. Tỳ-kheo nên biết,
nếu luận về tài thí, thì nên theo Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên mà cầu.
Nếu muốn cầu pháp thí, nên theo cầu Ta. Sở dĩ như thế, vì nay Ta, Như Lai
không có tài thí. Hôm nay các Thầy có thể cúng dường Xá-lợi của Tỳ-kheo
Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên.
-
Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật:
-
- Làm sao cúng dường được Xá-lợi
của Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nên gồm các thứ hương hoa, ở ngã
tư đường lập bốn tháp. Vì sao thế? Nếu có dựng tháp thì có bốn loại người này
nên dựng tháp. Thế nào là bốn? Chuyển luân Thánh vương nên dựng tháp; A-la-hán
lậu tận nên dựng tháp; Bích-chi Phật nên dựng tháp; Như Lai nên dựng tháp.
-
Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:
-
- Có nhân duyên gì mà Như Lai nên
dựng tháp? Lại có nhân duyên gì nên dựng tháp cho Bích-chi Phật, A-la-hán lậu
tận và Chuyển luân Thánh vương?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nay Thầy nên biết, Chuyển luân
Thánh vương thi hành thập thiện, tu mười công đức, cũng lại dạy người hành
thập thiện công đức. Thế nào là mười? Tự mình không sát sanh, lại dạy người
khác khiến không sát sanh. Tự mình không trộm, lại dạy người khác khiến không
trộm. Tự mình không dâm, lại dạy người khác khiến không dâm. Tự mình không ỷ
ngữ, lại dạy người khác khiến không ỷ ngữ. Tự mình không tật đố, lại dạy người
khác khiến không tật đố. Tự mình không tranh tụng, lại dạy người khác khiến
không tranh tụng. Tự mình chính ý, lại dạy người khác khiến không loạn ý, Thân
tự chính kiến, lại dạy người khác khiến hành chính kiến.
-
Tỳ-kheo nên biết, Chuyển luân Thánh
vương có mười công đức này, nên xứng đáng dựng tháp.
-
Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:
-
- Lại do nhân duyên nào, nên dựng
tháp cho đệ tử Như Lai?
-
Thế Tôn bảo:
-
- A-nan nên biết, A-la-hán lậu tận
không còn thọ thân sau nữa; trong sạch như thiên kim; ba độc, năm kiết sử
không còn xuất hiện. Lại nữa, do nhân duyên này dựng tháp cho đệ tử Như Lai.
-
Tôn giả A-nan bạch Phật:
-
- Do nhân duyên nào, Bích-chi Phật
đáng được dựng tháp?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Có Bích-chi Phật không thầy tự
ngộ, trừ các kiết sử, không thọ thân sau nữa. Thế nên đáng dựng tháp.
-
Bấy giờ A-nan bạch Thế Tôn:
-
- Lại do nhân duyên nào xứng đáng
dựng tháp cho Như Lai?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Ở đây, này A-nan, Như Lai có Thập
lực, Tứ vô sở úy, kẻ không hàng phục bị hàng phục; kẻ không độ được độ; kẻ
không đắc đạo khiến cho đắc đạo; người không nhập Niết-bàn khiến nhập
Niết-bàn. Mọi người thấy rồi hết sức hoan hỉ.
-
Ðó là, này A-nan, Như Lai đáng được
dựng tháp. Như thế Như Lai đáng được dựng tháp. Bấy giờ A-nan nghe Thế Tôn dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
10. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Tôn giả Bà-ca-lê thân mắc
bịnh nặng, đại tiểu tiện tại chỗ, ý muốn dùng dao tự sát mà không ngồi dậy.
Tôn giả Bà-ca-lê bảo thị giả:
-
- Nay Con hãy đem dao đến! Ta muốn
tự sát. Sở dĩ như thế là vì trong số đệ tử của Phật Thích-ca Văn, hôm nay,
người có tín giải thoát không ai hơn ta. Nhưng nay ta tâm hữu lậu chẳng giải
thoát. Sở dĩ như thế là vì đệ tử của Như Lai lúc gặp khổ não cũng lại tìm dao
tự sát. Nay ta dùng mạng này vì chẳng thể từ bờ này đến bờ kia.
-
Bấy giờ, đệ tử của Bà-ca-lê xuất
gia chưa bao lâu, chưa biết đời này, đời sau, chẳng biết từ bờ này đến bờ kia,
cũng lại chẳng biết chết đây rồi sanh nơi khác, liền đưa dao cho Tôn giả. Tôn
giả Bà-ca-lê cầm dao rồi, đem lòng tin kiên cố cầm dao tự đâm mình. Ngài
Bà-ca-lê lấy dao tự đâm mình và nghĩ: 'Trong đệ tử Phật Thích-ca Văn có việc
làm phi pháp, bị lợi ác, chẳng được lợi lành, ở trong pháp Như Lai chẳng được
thọ chứng mà mạng chung'.
-
Bấy giờ Tôn giả Bà-ca-lê liền tư
duy Ngũ thạnh ấm. Ðó là sắc này, đó là sắc tập, đó là sắc diệt tận. Ðó là thọ,
tưởng, hành, thức; đó là thọ, tưởng, hành, thực tập; đó là thọ, tưởng, hành
thức diệt tận. Ngài tư duy Ngũ thạnh ấm này thuần thục. Các pháp có sanh đều
là pháp tử. Biết thế rồi, tâm hữu lậu liền được giải thoát.
-
Bấy giờ Tôn giả Bà-ca-lê ở Vô dư
Niết-bàn mà nhập Niết-bàn. Thế Tôn dùng thiên nhĩ, nghe Tôn giả Bà-ca-lê đòi
dùng dao tự sát, Thế Tôn bảo A-nan:
-
- Các Tỳ-kheo tại thành Xá-vệ hãy
tập trung về một chỗ. Ta muốn dạy bảo.
-
Tôn giả A-nan vâng lời Thế Tôn,
liền triệu tập các Tỳ-kheo tại giảng đường Phổ Tập, rồi trở về bạch Thế Tôn:
-
- Hôm nay Tỳ-kheo đã tụ tập một
chỗ.
-
Thế Tôn liền đem Tỳ-kheo Tăng vây
quanh trước sau, đến tinh xá của Tỳ-kheo Bà-ca-lê. Ngay lúc ấy, tệ ma Ba-tuần
muốn biết thần thức của Tôn giả Bà-ca-lê đang ở chỗ nào: 'Ở cõi Người hay Phi
nhân, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-câu-la, Ma-hầu-la-già,
Dạ-xoa? Nay thần thức này trọn sanh chỗ nào?' Xem khắp Ðông, Tây, Nam, Bắc,
bốn phía, trên dưới mà chẳng biết chỗ của thần thức, Ma Ba-tuần thân thể hết
sức mỏi mệt mà chẳng biết ở đâu.
- Bấy
giờ Thế Tôn cùng Tỳ-kheo Tăng vây quanh trước sau, đến tinh xá kia. Thế Tôn
thấy Ma Ba-tuần muốn biết thần thức ở đâu. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Các Thầy có nghe trong tinh xá
này có tiếng lớn chăng? Lại còn ánh sáng yêu quái nữa?
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Vâng, Thế Tôn, chúng con đã thấy.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Ðây là tệ ma Ba-tuần muốn biết
thần thức Bà-ca-lê ở đâu.
-
Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:
-
- Cúi mong Thế Tôn nói thần thức
của Tỳ-kheo Bà-ca-lê ở chỗ nào?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Thần thức của Tỳ-kheo Bà-ca-lê
trọn không chỗ dính mắc. Vị vọng tộc đó đã nhập Niết-bàn, nên nhận biết như
thế.
-
Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:
-
- Tỳ-kheo Bà-ca-lê này đắc Tứ đế
khi nào?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Trong ngày hôm nay đắc Tứ đế này.
-
A-nan bạch Phật:
-
- Tỳ-kheo này mắc bệnh đã lâu, vốn
là người phàm.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Ðúng vậy, A-nan! Như lời Thầy
nói, Tỳ-kheo ấy bịnh khổ rất lâu. Trong các đệ tử của Phật Thích-ca Văn có tín
giải thoát, người này hơn hết. Nhưng tâm hữu lậu chưa được giải thoát. Thầy ấy
tự nghĩ: 'Nay ta nên dùng dao để tự đâm mình'. Tỳ-kheo ấy lúc sắp đâm mình,
liền tư duy công đức của Như Lai. Ngày xả bỏ thân mạng, vị ấy tư duy Ngũ thạnh
ấm: đó là sắc tập này, sắc diệt tận này. Bấy giờ Tỳ-kheo ấy tư duy như thế
rồi, các pháp hữu lậu đều được diệt tận. Tỳ-kheo này đã nhập Niết-bàn.
-
A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ
vâng làm.
-
Pháp của Tứ ý đoạn,
-
Tứ ám, pháp già suy,
-
A-di, pháp gốc ngọn,
-
Xá-lợi, Bà-ca-lê.
- --o0o--
|
|