|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
BA
- 1
-
XXXXI. Phẩm Mạc Úy
-
-
1. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở trong vườn
Ni-câu-lũ, nước Thích-sĩ Ca-tỳ-la-vệ.
-
Khi ấy Thích sĩ Ma-ha-nam đến chỗ
Thế Tôn, cúi lạy chân Phật rồi ngồi một bên. Thích sĩ Ma-ha-nam bạch Thế Tôn:
-
- Con theo Như Lai được dạy rằng:
'Nếu có thiện nam, thiện nữ đoạn được ba kiết sử, được quả Tu-đà-hoàn, gọi là
bất thối chuyển, chắc chắn sẽ thành đạo quả, chẳng tìm cầu các ngoại đạo dị
học nữa, cũng không cần quán sát người khác nói nữa'. Nếu phải như vậy thì
việc này không đúng. Còn nếu gặp trâu, ngựa, lạc đà hung dữ thì khiếp sợ, lông
tóc dựng đứng. Rồi con nghĩ rằng: 'Nếu hôm nay ta ôm lòng khiếp sợ này mà mạng
chung thì không biết sanh về đâu?'.
-
Thế Tôn bảo Ma-ha-nam:
-
- Chớ khởi tâm sợ hãi. Nếu Thầy có
mạng chung cũng không đọa vào ba đường ác. Vì sao thế? Nay có ba nghĩa tiêu
diệt. Thế nào là ba? Như có đắm trước dâm dục thì khởi loạn tưởng, rồi khởi
tâm hại đối với người khác, nếu không có dục này thì không khởi tâm sát hại,
trong hiện tại không khởi khổ não. Các pháp ác, bất thiện thì tự hại mình, nếu
không có điều này thì không có nhiễu loạn, không có sầu lo. Này Ma-ha-nam, đó
là ba nghĩa của các pháp ác, bất thiện khiến phải đọa xuống, còn các pháp
thiện thì ở trên. Cũng như bình bơ (tô) ở trong nước bị bể, khi ấy ngói đá thì
chìm xuống dưới, còn bơ thì nổi ở trên. Ðây cũng như thế, các pháp ác bất
thiện thì chìm xuống, các pháp thiện thì nổi ở trên.
-
Này Ma-ha-nam, ngày xưa lúc Ta chưa
thành Phật đạo, sáu năm cần khổ ở Ưu-lưu-tỳ, chẳng ăn thức thơm ngon, thân thể
gầy ốm như người trăm tuổi, đều vì không ăn. Nếu lúc Ta muốn đứng lên, liền té
xuống đất. Khi ấy Ta nghĩ rằng: 'Nếu Ta ở đây mà mạng chung sẽ sanh về đâu?'
Ta lại nghĩ: ' Nay Ta mạng chung chắc chắn chẳng sanh trong đường ác. Nhưng
nghĩa thú chẳng thể đi từ vui đến vui, mà phải do khổ mà sau đến chỗ vui. Bấy
giờ Ta lại dạo trong hang Tiên nhân, có nhiều Ni-kiền Tử đang học đạo ở đó.
Khi đó Ni-kiền Tử giơ tay chỉ mặt trời, phơi thân học đạo, hoặc có người ngồi
xổm mà học đạo. Khi ấy Ta đến đó bảo Ni-kiền Tử:
-
- 'Các Ông vì sao lại rời tòa ngồi
giơ tay, kiễng chân thế?'.
-
Ni-kiền Tử ấy nói:
-
- 'Cồ-đàm nên biết! Ngày xưa Tiên
sư của tôi làm hạnh bất thiện, nay sở dĩ tôi khổ như thế là muốn diệt hết tội
kia. Nay tuy bày hình thể có phần hổ thẹn, nhưng cũng tiêu diệt được việc này.
Cù-đàm! Ngài nên biết hành tận thì khổ cũng tận, khổ tận thì hành cũng tận.
Khổ và hành đã tận thì đến Niết-bàn'.
-
Lúc ấy, Ta lại bảo Ni-kiền Tử:
-
- 'Việc này không đúng. Chẳng phải
do hành tận mà khổ cũng tận; cũng chẳng do khổ tận mà hành cũng tận rồi đến
được Niết-bàn. Nay nếu khổ hành tận đến Niết-bàn thì việc này đúng. Nhưng
không thể từ vui đến vui'.
-
Ni-kiền Tử nói:
-
- 'Vua Tần-bà-sa-la đi từ vui đến
vui, có khổ gì đâu?'.
-
Khi ấy, Ta lại bảo Ni-kiền Tử:
-
- 'Vua Tần-bà-sa-la vui đâu bằng
cái vui của Ta!'.
-
Ni-kiền Tử đáp:
-
- 'Cái vui của Tần-bà-sa-la hơn cái
vui của Ngài'.
-
Ta lại bảo Ni-kiền Tử:
-
- 'Vua Tần-bà-sa-la có thể khiến Ta
ngồi kiết-già bảy ngày bảy đêm không nhúc nhích chăng? Cho dù sáu, năm, bốn,
ba, hai cho đến một ngày ngồi kiết-già được chăng?'.
-
Ni-kiền Tử đáp:
-
- 'Không được, Cù-đàm'.
-
Ta bảo:
-
- 'Ta có thể đủ sức ngồi kiết-già,
thân không lay động. Thế nào, Ni-kiền Tử, vua Tần-bà-sa-la vui hay Ta vui?'.
-
Ni-kiền Tử nói:
-
- 'Sa-môn Cù-đàm vui'.
-
Ðúng thế, Ma-ha-nam! Nên dùng
phương tiện này để biết không thể từ vui đến vui mà phải từ khổ đến vui. Này
Ma-ha-nam! Ví như một làng lớn, hai bên có ao nước to đầy nước, ngang dọc một
do-tuần. Có người đến đó lấy một giọt nước. Thế nào, Ma-ha-nam? Nước ở chỗ nào
nhiều? Nước của một giọt nhiều hay nước của ao nhiều?
-
Ma-ha-nam nói:
-
- Nước ao nhiều chứ không phải nước
một giọt nhiều.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Ðây cũng như thế. Ðệ tử Hiền
Thánh các khổ đã hết, không còn có nữa. Cái còn lại như một giọt nước, như đạo
giả thấp nhất trong chúng của Ta, chẳng qua bảy lần chết, bảy lần sống thì hết
mé khổ. Nếu lại dũng mãnh tinh tấn thì liền đến bậc Gia-gia (A-na-hàm hướng)
rồi chứng.
-
Bấy giờ Thế Tôn lại thuyết pháp vi
diệu cho Ma-ha-nam một lần nữa. Ông ta nghe pháp rồi, đứng lên mà đi.
-
Khi ấy, Ma-ha-nam nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
2. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời, Tôn giả Na-già-bà-la ở
trong thành Lộc Dã. Khi ấy có một Bà-la-môn già lụ khụ, xưa có quen biết chút
ít với Tôn giả Na-già-bà-la, đến chỗ Na-già-bà-la thăm hỏi rồi ngồi một bên.
-
Bấy giờ Phạm chí bảo Na-già-bà-la:
-
- Trong các sự vui, nay Ông thật là
sung sướng nhất.
-
Na-già-bà-la nói:
-
- Ông xem những nghĩa gì mà nói
trong các sự vui, tôi sung sướng nhất?
-
Bà-la-môn đáp:
-
- Trong bảy ngày vừa qua, tôi có
bảy đứa con trai chết, những đứa này đều dũng mãnh, tài cao, trí tuệ ít người
bì kịp, rồi trong sáu ngày gần đây, mười hai người làm cũng bị vô thường, họ
rất siêng năng không có lười biếng. Kế đó năm ngày, bốn anh em của tôi chết,
họ biết nhiều kỹ thuật, việc gì cũng làm được. Rồi cách bốn ngày, cha mẹ tôi
mạng chung, tuổi vừa trăm tuổi bỏ tôi mà qua đời. Cách đây ba ngày, hai vợ tôi
lại chết, họ dung mạo đoan chánh, thế gian ít có. Trong nhà tôi lại có tám hầm
trân bảo, hôm qua đi tìm mà không biết chỗ. Ngày nay, như tôi gặp chuyện khổ
não này không thể tính kể; mà Tôn giả thì hôm nay xa lìa hẳn hoạn nạn đó,
không còn sầu lo, chỉ lấy đạo pháp làm vui thú. Tôi quán nghĩa này rồi mới
nói: 'Trong các sự vui, Ông là sung sướng nhất'.
-
Khi ấy Tôn giả Na-già-bà-la bảo
Phạm chí kia rằng:
-
- Tại sao Ông không tìm cách khiến
cho bao nhiêu người ấy đừng chết?
-
Phạm chí đáp:
-
- Tôi cũng làm nhiều cách để mong
không chết và không mất của tiền, tôi cũng tùy thời bố thí tạo công đức, cầu
khẩn chư Thiên, cúng dường các trưởng lão Phạm chí, ủng hộ chư Thần, tụng các
chú thuật, cũng hay xem tinh tú, rồi cũng trộn cỏ thuốc, cũng đem thức ăn uống
ngon ngọt cho họ lúc nguy ngập. So như thế mà chẳng thể xứng hợp, chẳng thể
cứu được mạng họ.
-
Khi ấy Tôn giả Na-già-bà-la liền
nói kệ:
-
Có thuốc, các chú thuật,
-
Ðồ y phục, uống ăn,
-
Tuy thí mà vô ích,
-
Còn ôm thân khổ hạnh.
-
Cho dù tế miếu Thần,
-
Hương hoa và tắm rửa,
-
So sánh nguồn gốc này,
-
Không thể trị liệu được.
-
Giả sử cho các vật,
-
Tinh tấn trì Phạm hạnh,
-
So sánh nguồn gốc này,
-
Không thể trị liệu được.
-
Phạm chí bèn hỏi:
-
- Nên thi hành pháp gì để không bị
khổ não này?
-
Tôn giả Na-già-bà-la liền nói kệ:
-
Gốc ân ái vô minh,
-
Nổi các hoạn khổ não,
-
Ðiều ấy diệt không sót,
-
Mới không có khổ nữa.
-
Phạm chí ấy nghe xong liền nói kệ:
-
Tuy già, không già lắm,
-
Việc làm như đệ tử,
-
Mong cho con xuất gia,
-
Ðể lìa tai nạn này.
-
Khi ấy Tôn giả Na-già-bà-la liền
truyền ba y cho ông ta xuất gia học đạo, và bảo ông rằng:
-
- Này Tỳ-kheo! Nay Ông nên quán
thân này từ đầu đến chân: Tóc, lông, móng, răng này từ đâu đến? Thân thể da
dẻ, xương tủy, ruột bao tử đều từ đâu đến? Nếu từ đây đi sẽ đi đến đâu? Thế
nên, Tỳ-kheo! Chớ lo nghĩ nhiều về thế gian khổ não, hãy nên quán trong một lỗ
chân lông này, rồi tìm phương tiện thành tựu Tứ đế.
-
Rồi Tôn giả Na-già-bà-la nói kệ:
-
Trừ tưởng, chớ lo nhiều,
-
Chẳng lâu được pháp nhãn,
-
Vô thường hành như điện,
-
Không gặp may lớn này.
-
Mỗi mỗi quán chân lông,
-
Nguồn của sanh và diệt.
-
Vô thường hành như điện,
-
Ðể tâm hướng Niết-bàn.
-
Khi ấy trưởng lão Tỳ-kheo ấy nhận
lời dạy như thế ở chỗ vắng vẻ tư duy nghĩa này. Ðây là pháp mà bậc vọng tộc,
cạo bỏ râu tóc do lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo, muốn tu Phạm hạnh vô
thượng, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn
tái sanh nữa, như thật mà biết, và Tỳ-kheo ấy thành A-la-hán. Lúc ấy có một vị
Trời vốn là người quen biết cũ của Tỳ-kheo ấy, thấy Tỳ-kheo ấy thành A-la-hán,
liền đến chỗ Na-già-bà-la, ở trên không trung nói kệ:
-
Ðã được giới cụ túc,
-
Ở chỗ vắng vẻ kia,
-
Ðắc đạo, tâm vô trước,
-
Trừ các nguồn gốc ác.
-
Rồi vị Trời ấy lại dùng hoa trời
rải lên Tôn giả rồi biến mất.
-
Bấy giờ, Tỳ-kheo và vị Trời kia
nghe Tôn giả Na-già-bà-la nói xong, vui vẻ vâng làm.
-
3. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Nên quán bảy xứ lành và quán bốn
pháp thì ở trong hiện pháp này gọi là thượng nhân. Này Tỳ-kheo! Thế nào là
quán bảy xứ lành?
-
Này Tỳ-kheo! Ở đây dùng tâm từ trùm
khắp một phương, hai phương, ba phương, bốn phương, bốn phía trên dưới cũng
lại như thế, đều đem lòng từ rải đầy khắp thế gian. Tâm bi, hỉ, xả, không, vô
tướng, vô nguyện cũng lại như thế. Các căn đầy đủ, ăn uống lượng sức mình,
hằng tự giác ngộ. Như thế, này Tỳ-kheo! Hãy quán bảy xứ lành.
-
Này Tỳ-kheo! Thế nào là quán sát
pháp bốn chỗ? Ở đây Tỳ-kheo, nội tự quán thân, trừ bỏ sầu lo được thân ý chỉ
(niệm xứ), ngoại lại quán thân thân ý chỉ, nội ngoại quán thân thân ý chỉ. Nội
tự quán thọ thọ ý chỉ, ngoại tự quán thọ thọ ý chỉ, nội ngoại quán thọ thọ ý
chỉ. Nội quán tâm tâm ý chỉ, ngoại quán tâm tâm ý chỉ, nội ngoại quán tâm tâm
ý chỉ, trừ bỏ sầu lo, không còn khổ hoạn. Nội quán pháp pháp ý chỉ, ngoại quán
pháp pháp ý chỉ, nội ngoại quán pháp pháp ý chỉ. Như thế, Tỳ-kheo! Hãy quán
bốn pháp lành. Này Tỳ-kheo! Nếu ai có thể quán sát bảy xứ lành và bốn pháp như
thế, thì ở trong hiện pháp này là bậc Thượng nhơn. Thế nên, Tỳ-kheo! nên tìm
phương tiện thành tựu bảy xứ lành và quán bốn pháp. Như thế, này các Tỳ-kheo,
hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
4. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Thích-sĩ
Ca-tỳ-la-vệ, trong vườn Ni-câu-lũ cùng chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.
-
Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo đến chỗ Thế
Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Những Tỳ-kheo này bạch Thế Tôn:
-
- Chúng con muốn đến phương Bắc du
hóa.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nên biết phải thời.
-
Thế Tôn lại bảo Tỳ-kheo:
-
- Các Thầy có từ giã Tỳ-kheo
Xá-lợi-phất chăng?
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Các Thầy, hãy đến từ giã Tỳ-kheo
Xá-lợi-phất. Vì sao thế? Tỳ-kheo Xá-lợi-phất thường giáo giới cho các người
Phạm hạnh pháp này. Thầy ấy thuyết pháp không biết chán.
-
Rồi Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho
các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo nghe pháp xong đứng lên, cúi lạy Thế Tôn, đi nhiễu
quanh Phật ba vòng, rồi lui đi.
- Bấy
giờ Tôn giả Xá-lợi-phất đang ở trong đền Thần Thích-sĩ. Những Tỳ-kheo ấy đến
chỗ Xá-lợi-phất thăm hỏi rồi ngồi một bên. Những Tỳ-kheo ấy bạch Xá-lợi-phất:
-
- Chúng tôi muốn đến phương Bắc du
hóa trong nhân gian, nay đã từ giã Thế Tôn rồi.
-
Xá-lợi-phất nói:
-
- Các Thầy nên biết nhân dân phương
Bắc, Sa-môn, Bà-la-môn thảy đều thông minh, trí tuệ khó sánh kịp, lại có nhân
dân ưa đến thi tranh luận. Nếu như họ hỏi các Thầy: 'Thầy của chư Hiền có
những luận gì?'. Nếu họ hỏi thế, các Thầy định đáp thế nào?
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Nếu có người đến hỏi thế, chúng
tôi sẽ dùng nghĩa này trả lời: 'Sắc là vô thường, mà vô thường tức là khổ, khổ
thì vô ngã, vô ngã thì không; do không, vô ngã nên kia không. Như thế, bậc trí
giả quán như vậy. Thọ, tưởng, hành, thức cũng vô thường, khổ, không, vô ngã.
Kỳ thực không, đó là do vô ngã nên không. Như thế là chỗ người trí học hỏi.
Ngũ ấm này thảy đều không tịch, do nhân duyên hòa hợp, đều sẽ trở về hoại
diệt, không có lâu bền. Tám chánh đạo và Bảy giác chi; chỗ Thầy tôi nói chính
là đây vậy. Nếu các người Sát-lợi, Bà-la-môn đến hỏi nghĩa với chúng tôi,
chúng tôi sẽ dùng nghĩa này đáp'.
-
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các
Tỳ-kheo:
-
- Các Thầy hãy giữ vững tâm ý, chớ
có hấp tấp.
-
Rồi Xá-lợi-phất thuyết pháp vi diệu
đầy đủ cho các Tỳ-kheo, và họ đứng lên đi. Khi các Tỳ-kheo ấy đi chưa xa,
Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo:
-
- Nên hành Tám chánh đạo và pháp
Bảy giác chi thế nào?
-
Khi ấy các Tỳ-kheo bạch
Xá-lợi-phất:
-
- Chúng tôi từ xa đến là muốn được
nghe nghĩa này. Cúi mong Tôn giả nói cho.
-
Xá-lợi-phất đáp:
-
- Các Thầy lắng nghe, lắng nghe!
Khéo suy nghĩ. Nay tôi sẽ nói.
-
Các Tỳ-kheo vâng lời dạy.
Xá-lợi-phất nói:
-
- Nếu một lòng nhớ chánh kiến là
niệm giác ý chẳng loạn; Ðẳng trị, là một lòng nhớ tất cả pháp là trạch pháp
giác ý; Ðẳng ngữ là thân ý tinh tấn, tức tinh tấn giác ý; Ðẳng nghiệp, tất cả
các pháp được sanh là hỷ giác ý; Ðẳng mạng, biết đủ với tài sản của Hiền
Thánh, xả bỏ hết gia tài thân thể an ổn là ỷ giác ý (khinh an); Ðẳng phương
tiện, được Tứ Ðế của Hiền Thánh, trừ sạch các kiết sử, là định giác ý; Ðẳng
niệm, quán Tứ ý chỉ (Tứ niệm xứ), thân không bền chắc, đều không, vô ngã là hộ
giác ý (xả giác ý); Ðẳng tam-muội, điều chưa được sẽ được, điều chưa độ sẽ độ,
điều không chứng được khiến cho chứng được.
-
Nếu có người đến hỏi nghĩa này:
'Làm thế nào để tu Tám chánh đạo và Bảy giác chi?' Các Thầy nên đáp như thế.
Vì sao? Nếu có Tỳ-kheo tu Tám chánh đạo và Bảy pháp này, thì tâm hữu lậu được
giải thoát. Nay tôi lại bảo các Thầy một lần nữa; Nếu có Tỳ-kheo tu hành, tư
duy Tám chánh đạo và Bảy pháp, Tỳ-kheo ấy sẽ thành tựu quả thứ hai, không có
hồ nghi; sẽ đắc A-na-hàm hoặc A-la-hán. Thôi gác việc này, nếu không được
nhiều, thì trong một ngày, người hành Tám chánh đạo và Bảy pháp này cũng được
phước không thể tính kể, có thể đắc A-na-hàm hoặc A-la-hán.
-
Vì thế, chư Hiền! Nên tìm phương
tiện tu hành Tám chánh đạo và Bảy pháp này, giữ đạo chớ có hồ nghi.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe lời
Xá-lợi-phất dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
5. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Ca-diếp:
-
- Nay Thầy tuổi đã già, không còn
trai tráng nữa, hãy nên nhận thức ăn uống và y phục của các trưởng giả.
-
Ðại Ca-diếp bạch Phật:
-
- Con không kham nhận y thực ấy.
Nay con mặc áo nạp này tùy thời khất thực, vui sướng vô cùng.Vì sao? Tương lại
sẽ có các Tỳ-kheo, thân thể nhu nhuyến, tâm tham đắm y thực tốt đẹp rồi thối
chuyển việc tham Thiền, lại không chịu khổ. Họ lại sẽ nói rằng: 'Các Tỳ-kheo ở
thời Phật quá khứ, cũng nhận lời người thỉnh, nhận y thực của người. Vì sao
chúng ta không làm theo pháp của Thánh nhân ngày xưa?'. Vì họ ngồi tham đắm y
thực, nên sẽ bỏ pháp phục, làm cư sĩ, khiến các Hiền Thánh không còn oai thần
nữa. Bốn bộ chúng dần dần giảm bớt. Thánh chúng đã giảm ít thì chùa chiền của
Như Lai sẽ bị hủy hoại. Vì chùa Như Lai đã bị hủy hoại thì kinh pháp sẽ bị
thất lạc. Khi ấy chúng sanh không còn tinh quang nữa, đã không có tinh quang
thì thọ mạng sẽ ngắn ngủi. Khi ấy, chúng sanh kia mạng chung đều rơi vào ba
đường ác. Cũng như ngày nay, chúng sanh vì phước nhiều nên đều sanh lên trời,
đời tương lai vì làm tội nhiều sẽ vào địa ngục.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Lành thay, lành thay! Ca-diếp có
nhiều lợi ích, Thầy làm bạn tốt, làm phước điền cho người đời. Ca-diếp, Thầy
nên biết! Sau khi Ta nhập Niết-bàn hơn ngàn năm, sẽ có các Tỳ-kheo thối chuyển
việc tham Thiền, chẳng hành pháp đầu đà nữa, cũng không khất thực, mặc áo vá,
mà tham nhận y thực của trưởng giả thỉnh. Cũng chẳng ở dưới gốc cây, nơi vắng
vẻ, ưa thích trang hoàng nhà cửa, cũng không dùng đại tiểu tiện làm thuốc, chỉ
đắm trước các dược thảo cực kỳ ngon ngọt, hoặc trong đó tham đắm tài sản, lẫn
tiếc nhà cửa, thường cải vã nhau.
-
Bấy giờ đàn-việt, thí chủ dốc lòng
tin Phật pháp, ưa thích bố thí chẳng tiếc của cải. Khi ấy, đàn-việt thí chủ
sau khi mạng chung đều sanh lên trời; còn Tỳ-kheo giải đãi, chết sẽ vào địa
ngục. Như thế, này Ca-diếp! Tất cả các hành thảy đều vô thường, không được bền
lâu. Lại nữa, Ca-diếp nên biết! Ðời tương lai, sẽ có Tỳ-kheo cạo bỏ râu tóc mà
tập theo gia nghiệp, tay trái bồng con trai, tay phải ôm con gái, lại cầm đàn
sáo, đi khất thực trên các đường phố. Bấy giờ đàn-việt thí chủ thọ phước vô
cùng, huống gì ngày nay có những người chí thành khất thực. Như thế này
Ca-diếp! Tất cả các hành vô thường, không được bền lâu.
-
Ca-diếp nên biết, đời tương lai
hoặc có Sa-môn Tỳ-kheo sẽ bỏ Tám chánh đạo và Bảy pháp như nay Ta đã tu tập
pháp bảo ấy trong bao vô số kiếp. Các Tỳ-kheo đời tương lai dùng ca khúc, ở
trong chúng khất thực để tự nuôi sống. Song các đàn-việt thí chủ cúng thức ăn
cho các Tỳ-kheo ấy cũng còn được phước, huống gì ngày nay mà không được phước
sao?
-
Nay Ta đem pháp này trao lại cho
Tỳ-kheo Ca-diếp và A-nan. Vì sao? Nay Ta tuổi đã già đến tám mươi. Như Lai
không bao lâu sẽ diệt độ. Nay đem pháp bảo phó chúc hai người, khéo ghi nhớ
đọc tụng, giữ gìn đừng cho dứt mất, lưu truyền trong thế gian. Người nào có
lỗi làm dứt tuyệt lời dạy của bậc Thánh sẽ bị đọa vào chốn biên địa. Cho nên
hôm nay Ta dặn dò trao phó kinh pháp cho các Thầy, đừng để dứt mất.
-
Khi ấy, Tôn giả Ðại Ca-diếp và Tôn
giả A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chấp tay bạch Phật:
-
- Do những cớ gì đem kinh pháp này
trao phó hai chúng con mà không trao người khác? Trong chúng của Như Lai, lại
có các vị thần thông đệ nhất không thể tính kể, sao không trao phó dặn dò?
-
Thế Tôn bảo Ca-diếp:
-
- Ta xem trong cõi Trời, cõi Người,
trọn không thấy người nào có thể thọ trì pháp bảo này sánh bằng Ca-diếp,
A-nan. Trong hàng Thanh văn cũng không ai hơn hai người này. Chư Phật đời quá
khứ cũng có hai người thọ trì kinh pháp, như Tỳ-kheo Ca-diếp và A-nan ngày nay
sánh rất là rất thù diệu. Vì sao? Tỳ-kheo hành đầu đà ở thời Phật quá khứ, khi
pháp còn thì còn, pháp mất thì mất. Còn Tỳ-kheo Ca-diếp của Ta hôm nay còn lưu
lại ở đời,đến Phật Di-lặc ra đời mới nhập diệt. Do nhân duyên này, Tỳ-kheo
Ca-diếp ngày nay hơn chúng Tỳ-kheo thời quá khứ.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo A-nan, vì sao hơn
thị giả thời quá khứ? Thị giả chư Phật thời quá khứ nghe Phật nói rồi sau mới
hiểu; còn nay Tỳ-kheo A-nan, Như Lai chưa nói ra đã hiểu. Như Lai không cần
nói, Tỳ-kheo A-nan hơn các thị giả chư Phật thời quá khứ.
-
Cho nên, này Ca-diếp, A-nan! Nay Ta
giao phó cho các Thầy, dặn dò các Thầy pháp bảo này, đừng để thiếu sót, diệt
mất.
-
Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:
-
Tất cả hành vô thường
-
Khởi lên ắt có diệt
-
Không sanh thì không tử
-
Diệt này rất là vui.
-
Khi ấy, Tôn giả Ðại Ca-diếp và Tôn
giả A-nan nghe lời Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
- --o0o--
|
|