|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH TRƯỜNG A
HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá &
Trúc Phật Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
PHÀM LỆ
1. Bản dịch Việt,
Trường A hàm, được thực hiện theo bản Hán dịch Trường A hàm kinh
長
阿
含
經, 22 quyển, do
Phật-đà-da-xá 佛
陀
耶
舍 (Buddhayaśsa)
tuyên đọc thuộc lòng (ám độc) bản Phạn, và Trúc Phật Niệm truyền dịch
sang Hán văn.
2. Về để bản, bản
dịch Việt căn cứ trên ấn bản “Đại chánh Tân tu Đại tạng kinh”
大
正
新
修
大
藏
經, 100 tập, mỗi tập
hơn 1000 trang chữ Hán cỡ 10pt. Trong đó, “A hàm bộ” gồm hai tập, 151
kinh (No.1- No.151). Trường A hàm kinh (No.1), thuộc “A hàm bộ” I, tập
1, từ trang 1-149.
3. “Đại chánh Tân
tu Đại tạng kinh”, từ No.2-No.25, là những bản Hán dịch lẻ tẻ các kinh
thuộc Truờng A hàm. Đây là những bản kinh thuộc nhiều bộ phái khác
nhau, do đó nội dung chứa đựng ít nhiều dị biệt. Trường A hàm hiện tại
được phần đông các nhà nghiên cứu cho rằng thuộc Pháp tạng bộ
(Dharmagupta), tức cùng bộ phái với Tứ phần luật
四
分
律 (Đại chánh, tập
22, No.1428). Công trình Việt dịch trong hiện tại chỉ thực hiện trên
bản Hán Trường A hàm (Đại chánh, No.1). Các bản Hán dịch lẻ tẻ khác
(Đại chánh, No.2-151) được dùng làm tư liệu đối chiếu.
4. Về xử lý văn bản
trong khi phiên dịch, phần lớn căn cứ công trình hiệu đính và đối
chiếu của Đại chánh. Ngoài ra, tham khảo thêm các công trình hiệu đính
và đối chiếu khác, trong đó chủ yếu:
- Phật quang Đại
tạng kinh, A hàm bộ 佛
光
大
藏
經,
阿
舍
部; Phật quang xuất
bản xã, Đài bắc, 1993.
- Trường A hàm kinh
長
阿
舍
經, bản dịch bạch
thoại, Thích Ngộ Từ (Shi Wu Ci)
釋
悟
慈; Đài nam, 1997.
-“Kokuyaku-issaikyoâ”,A-gom-bu,Choâ-a-gon-kyoâ,
國
譯
一
切
經
阿
舍
部,
長
阿
經, bản dịch tiếng
Nhật của Shin-Ô Iwano 岩
野
真
雄; Tokyo 1969.
5. Giữa các ấn bản
có những điểm khác nhau, bản Việt sẽ lựa chọn hoặc hiệu đính theo nhận
thức của người dịch.
6. Trong bản Hán,
nếu chỗ nào xét thấy văn dịch hay từ ngữ không phù hợp với giáo nghĩa
truyền thống phổ biến, người dịch sẽ tham khảo các Kinh, Luật, Luận
cần thiết để hiệu chính. Những hiệu chính này được giải thích ở phần
cước chú.
7. Bản Hán dịch
thực hiện căn cứ trên sự truyền khẩu. Do đó những từ phát âm tương tự
dễ đưa đến ngộ nhận, như sam Pāli hay sama và samyak; cala và jala;
muti và muṭṭhi,v.v…
Trong những trường
hợp này, người dịch sẽ tham chiếu các kinh tương đương, các bản Hán
biệt dịch, suy đoán tự dạng nguyên thủy có thể có trong Phạn bản để
hiệu chính. Những hiệu chính này đều được ghi ở phần cước chú.
8. Do các truyền
bản khác nhau giữa các bộ phái, để có nhận thức về giáo nghĩa nguyên
thuỷ, chung cho tất cả, cần có những nghiên cứu đối chiếu sâu rộng.
Công việc này ngoài khả năng hiện tại của các dịch giả. Tuy nhiên,
trong trường hợp có thể, những điểm dị biệt giữa các truyền bản sẽ
được ghi nhận và đối chiếu. Những ghi nhận này được nêu ở phần cước
chú.
9. Bản Hán dịch
được phân thành 22 quyển. Bản dịch Việt không chia số quyển như vậy,
nhưng sẽ ghi ở phần cước chú mỗi khi bắt đầu một quyển khác.
10. Nội dung bản
Hán dịch được xếp thành bốn phần, mỗi phần gồm số kinh nhiều ít khác
nhau. Bản dịch Việt giữ nguyên sự phân chia này.
11. Các bản Hán
biệt dịch được dùng làm tài liệu tham chiếu đều là các ấn bản của Đại
chánh Đại tạng kinh. Số quyển được dẫn sẽ ghi là “Đại” theo sau là số
La-mã chỉ thứ tự số quyển. Thí dụ: Đại XXII, nghĩa là, Đại chánh Tân
tu Đại tạng kinh, tập thứ 22. Mặc dù ấn bản Đại tạng này được tái bản
nhiều lần, với nhiều nhà xuất bản khác nhau, nhưng số quyển và số
trang mỗi quyển được xem là cố định. Do đó, trong các trích dẫn không
cần thiết ghi năm và nơi tái bản.
12. Mỗi trang của
ấn bản Đại chánh chia làm ba phần. Trong trích dẫn, các phần này được
ghi là a, b, và c ngay sau số trang. Trường hợp cần thiết, có thể ghi
cả số dòng. Thí dụ: Đại X, tr.125b, hay Đại X, tr,125b24.
13. Vì lý do phải
thường xuyên di chuyển trú xứ, mà khi di chuyển không thể mang theo
các tài liệu cần thiết, do đó, khi tham chiếu các bản Pāli tương
đương, người dịch đã phải sử dụng nhiều ấn bản Pāli khác nhau. Chủ yếu
là ấn bản Latinh, ấn bản Devanagari, và bản CD Rom. Số trang, số đoạn
các bản không đồng nhất. Do đó các trích dẫn Pāli đối chiếu thường
không thống nhất. Khi nào điều kiện thuận tiện, hoàn cảnh cho phép,
những sự bất nhất này sẽ phải được chỉnh lý cho thống nhất.
14. Phần lớn các từ
Phật học trong bản Hán dịch này không phổ biến. Do đó có thể gây khó
khăn cho việc đọc và nghiên cứu. Trong các trường hợp như vậy, tuy vẫn
giữ nguyên dịch ngữ của bản Hán, nhưng dịch ngữ tương đương thông dụng
hơn sẽ được ghi trong phần cước chú. Trong trường hợp có thể, sẽ ghi
luôn dịch giả của những dịch ngữ này và xuất xứ của chúng từ bản dịch
nào để tiện việc tham khảo.
15. Theo thói quen,
trong các bản dịch Việt từ Hán văn, những từ phiên âm tiếng Phạn đều
được viết hoa, không phân biệt từ riêng hay từ chung. Thí dụ, do trang
phục dị biệt, trong Hán văn không từ nào chính xác tương đương với
uttarāsaṅga của
tiếng Phạn, nên phần lớn được phiên âm là uất-đa-la-tăng, và trong các
bản dịch Việt, từ phiên âm này luôn luôn viết hoa. Bản dịch Việt
Trường A hàm sẽ cố gắng chuẩn hóa cách viết các từ , phiên âm, cũng
như các từ dịch nghĩa, để có thể phân biệt từ riêng và từ chung.
- Vì tiếng Phạn là
ngôn ngữ đa âm tiết, trong khi Hán là ngôn ngữ đơn âm. Để phiên âm một
tiếng Phạn, cần nhiều từ Hán. Những từ Hán phiên âm này sẽ được liên
kết nhau bằng dấu nối. Thí dụ: Xá-lợi-phất, là phiên âm của một từ
tiếng Phạn: Śāriputra (Skt) hay Sāriputta (Pāli). Nhưng nếu viết
Xá-lợi Tử, đó là hai từ ghép với nhau, một từ phiên âm, và một từ dịch
nghĩa. Sự phân biệt này rất cần thiết để tránh nhầm lẫn đã xảy ra như
từ đàn việt, được giải thích là bố thí để siêu việt tam giới, do nhận
thức rằng từ này ghép một phiên âm Phạn của dāna (bố thí) và một từ
nghĩa Hán. Thực tế, nếu đàn-việt được viết với dấu nối, nhất định đó
là phiên âm của dāna-pati (thí chủ).
- Những từ phiên
âm, nếu là từ riêng, không phân biệt nhân danh hay địa danh, đều được
viết với chữ hoa ở đầu. Các chữ tiếp theo đều viết thường và liên kết
với nhau bằng dấu nối. Nếu tên riêng do ghép nhiều từ Phạn, mỗi từ bắt
đầu bằng chữ hoa ở phiên âm. Thí dụ: Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử, cách viết
cho thấy có ba từ Phạn ghép lại với nhau: Nirgrantha-Jñaṭi-putra.
- Những tên riêng
được dịch nghĩa, nếu là địa danh, chỉ chữ đầu được viết hoa, và không
có dấu nối. Thí dụ: Vương xá thành. Nhưng nếu là tên người, tất cả đều
viết hoa, không có dấu nối. Thí dụ: Khánh Hỷ.
16. Cuối cùng là
các sách dẫn. Sách dẫn chủ yếu lá các từ Hán, bao gồm danh từ Phật
học, nhân danh và địa danh. Một số từ không phải là thuật ngữ, nhưng
trong Hán dịch tối nghĩa, cần suy đoán nguyên hình tiếng Phạn để xác
định ngữ nghĩa. Những từ này cũng được liệt kê trong bảng sách dẫn.
17. Một số câu dịch
Hán văn tối nghĩa, cần đối chiếu Pāli để suy đoán cú pháp Phạn bản,
tìm ý nghĩa gần chính xác để chuyển thành Việt ngữ. Một số câu như vậy
cũng được liệt kê trong phần sách dẫn các từ Hán.
18. Mỗi từ Hán
trong bảng sách dẫn đều có phụ chú Pāli và Sanskrit để tiện việc tham
chiếu.
19. Tài liệu đối
chiếu chủ yếu là Pāli, nếu có phụ chú Skt. thì phần lớn là suy đoán.
Vì vậy, ở đây chỉ đưa ra một sách dẫn Pāli, xem như bổ túc cho sách
dẫn từ Hán dịch.
Quảng Hương
Già-lam
Mùa an cư,
Pl. 2543
Tuệ-Sỹ cẩn
chí
Giới Thiệu
Kinh Trường A Hàm:
Kinh Trường A-hàm,
tiếng Phạn là Dìghàgama, tiếng Pàli là Digha-nikàya, gồm 22 quyển, do
Ngài Phật-đà Da-xá và Trúc Phật Niệm cùng dịch vào năm Hoằng Thỉ thứ
15 đời Dao Tần (413), hiện được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
tập 1. Sở dĩ nói "Trường" là vì do soạn tập những kinh điển dài nhất
trong A-hàm mà thành. Theo Tứ Phần Luật 54, Ngũ Phần Luật 30, Luận
Du-Già-Sư-Địa 85, nguyên do có chữ "Trường" là vì tổng tập những kinh
lớn (dài). Tát-Bà-Đa Tỳ-Ni Tỳ-Bà-Sa 1 thì cho rằng Trường A-hàm là phá
dẹp các tà thuyết của ngoại đạo. Luận Phân Biệt Công Đức thì cho rằng
"Trường" nghĩa là nói những việc lâu xa, nghĩa là trải qua nhiều kiếp
vẫn không dứt. Nói chung về phần định danh, các kinh luận nói khác
nhau, xong đại để vẫn vậy.
Toàn kinh chia làm
4 phần, gồm 30 kinh. Trong đó, phần thứ nhất nói về bản thủy và sự
tích của Đức Phật; phần thứ hai nói về việc tu tập các hạnh và cương
yếu giáo pháp của Phật thuyết; phần thứ ba nói về các luận nạn đối với
ngoại đạo và dị thuyết; phần thứ tư ghi chép về tướng trạng khởi
nguyên của thế giới (Vũ trụ).
Kinh này tương
đương với Trường Bộ (Pàli: Digha-nikàya) trong 5 bộ của hệ Nam truyền.
Trường Bộ gồm có 3 phẩm, 34 kinh, tức Giới Uẩn Phẩm (gồm 13 kinh), Đại
Phẩm (10 kinh) và Pàli phẩm (11 kinh). Nhưng Thế Ký Kinh trong Trường
A-hàm thì không có trong Trường Bộ. Theo Mục Lục Tam Tạng (Anh văn)
của học giả Nhật Bản là Nanjò Fumio, nếu đối chiếu 34 kinh bản Pàli
với 30 kinh bản Hán dịch thì chỉ có kinh thứ 6 bản Hán dịch và kinh
thứ 10 bản Pàli là có mối quan hệ rõ ràng, còn các kinh khác thì không
nhất trí với nhau. Nhận xét của một số học giả nổi tiếng khác của Nhật
Bản thì ôn hòa hơn, tức cho rằng các kinh tương tợ nhau.
Đặc biệt có Kinh
Thất Phật trong Trường A-hàm (Trung Quốc gọi là Biệt Sanh Kinh) được
trích riêng ra để dịch rất nhiều (21 loại). Các học giả Tây phương
thường dùng bản chép tay Pàli, hiệu đính, phiên dịch rồi xuất bản cũng
nhiều, như Dialogues of Buddha, 1909 - 1921, do học giả người Anh là
Rhys Davids và phu nhân là J.E. Carpenter phiên dịch; Dic Reden des
Gotamo Buddhos, 1907 - 1918, do K..E. Newmann dịch sang tiếng Đức; Das
Buch der langen Texte des Buddhist Kanon Leipzig, 1913, do O. Franke
dịch sang tiếng Đức. Ngoài ra còn có bản chú thích Trường Bộ
Sumangalavilàsinì của Đại luận sư của Tích Lan sống vào thế kỷ V là
ngài Phật Âm (Buddhaghosa), được hai vợ chồng Davids xuất bản vào năm
1986.
Trong các bản
Sankrit mới phát hiện ở Tân Cương, Trung Quốc có kinh tương đương với
Chúng Tập Kinh (Sangìti-sutta) - kinh thứ 9 của bản Hán dịch, và tương
đương với một đoạn kinh Atànàtiya-sutta - kinh thứ 32 bản Pàli, được
học giả R.Hoernle thu lục trong tác phẩm Manuscrip Remains of Buddhist
Literature found in Eastern Turkestan,Vol.1.
Ngoài ra trong Đại
Tạng Kinh của Tây Tạng có Hdus-pa chen-pohi mdo tương đương với
Đại Hội Kinh - kinh thứ 19 trong Trường A-hàm; Tshans-Pahi dra-bahi
mdo tương đương với Phạm Đôĩng Kinh - kinh thứ 21 trong Trường
A-hàm; Lcan-lo-can-gyi pho-bran-gi mdo tương đương với
Antànàtiya-sutta trong Trường Bộ.
Thích Nguyên Hiền
THƯ MỤC ĐỐI CHIẾU: TRƯỜNG A-HÀM
– DĪGHANIKĀYA
1. Phật thuyết
Trường A-hàm kinh, 22 quyển, Hậu Tần (Hoằng thủy 14 – 15; Tl. 412
– 413), Phật-đà-da-xá (Buddhayasa) và Trúc Phật Niệm dịch.
2. Pāli :
Dīghanikāya (Sanskrit: Dīrghāgama):
a) Ấn bản
Devanagari, 3 tập, Pàli Publication Board (Bihar Government), 1958.
b) Ấn bản Roman,
Trường bộ kinh (Thích Minh Châu), Pàli-Việt đối chiếu, Ban Tu thư,
Viện Đại học Vạn hạnh, 4 tập; tập I, 1965, tập II, 1967, tập III,
1972, tập IV, 1972.
c) Ấn bản CD-ROM,
Chaṭṭha Saṅgāyana
CD-ROM (Version 1.1).
|
|