|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
-
KINH TRƯỜNG
A HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật
Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
PHẦN II
-
5. KINH TIỂU DUYÊN
-
-
Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời, Phật trú
tại Xá-vệ, trong vườn Thanh tín, giảng đường Lộc mẫu, cùng chúng
Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người.
-
Lúc ấy, có hai người
Bà-la-môn với lòng tin kiên cố tìm đến chỗ Phật xin xuất gia học
đạo, một tên là Bà-tất-tra một tên là Bà-la-đọa.
-
Lúc bấy giờ, Ðức Thế
Tôn rời khỏi tịnh thất, đang kinh hành thong thả trên giảng
đường. Bà-tất-tra vừa trông thấy Phật liền vội vàng đến bảo
Bà-la-đọa:
-
“Anh biết không, Như
Lai hiện đang rời khỏi tịnh thất kinh hành tại giảng đường.
Chúng ta nên đến đó hoặc có nghe Ngài dạy bảo điều gì chăng?”
-
Bà-la-đọa nghe nói
thế liền cùng đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ chân Phật, rồi đi
theo sau Phật.
-
Phật nói với
Bà-tất-tra:
-
“Hai người vốn sanh
trong dòng Bà-la-môn, với lòng tin kiên cố, muốn xuất gia tu
hành ở trong giáo pháp ta phải không?”
-
Hai người đáp:
-
“Thưa phải.”
-
Phật nói:
-
“Này Bà-la-môn, nay
các ngươi xuất gia tu hành ở trong giáo pháp Ta, các người
Bà-la-môn khác há không hiềm trách các ngươi?”
-
Hai người đáp:
-
“Thưa có. Nhưng mong
ơn lớn của Phật được xuất gia tu đạo, thật sự chúng con không
khỏi bị các người Bà-la-môn hiềm trách.”
-
Phật dạy:
-
“Họ lấy lẽ gì mà hiềm
trách các ngươi?”
-
Hai người đáp:
-
“Họ nói rằng: Dòng
Bà-la-môn ta tối cao bậc nhất, các dòng khác thấp hèn. Dòng ta
trắng trẻo, các dòng khác đen điu. Dòng Bà-la-môn ta xuất xứ từ
Phạm thiên, từ miệng Phạm thiên sanh ra, ở ngay trong hiện tại
mà được thanh tịnh giải, về sau cũng thanh tịnh. Cớ gì các ngươi
lại bỏ dòng thanh tịnh của mình mà vào trong dị pháp của Cù-đàm
kia. Bạch Thế Tôn, thấy chúng con ở trong Phật pháp mà xuất gia
tu đạo nên họ lấy lời lẽ như thế chê trách chúng con.”
-
Phật bảo Bà-tất-tra:
-
“Này Bà-tất-tra,
ngươi xem các người đó khác nào kẻ ngu si vô thức như cầm thú,
dối trá tự xưng rằng: Dòng Bà-la-môn là tối cao bậc nhất, còn
ngoài ra là hèn hạ. Dòng ta trắng trẻo, các dòng khác đen điu.
Dòng Bà-la-môn ta xuất xứ từ Phạm thiên, từ miệng Phạm thiên
sanh, ở ngay trong hiện tại mà được thanh tịnh giải, về sau cũng
thanh tịnh. Này Bà-tất-tra, nay trong Chánh đạo vô thượng của Ta
không cần kể dòng dõi, không ỷ vào tâm kiêu mạn ngô ngã. Pháp
thế tục cần thứ đó. Pháp của Ta không phải vậy. Nếu có Sa-môn
hay Bà-la-môn nào tự thị chủng tộc, ôm lòng kiêu mạn thì ở trong
giáo pháp Ta trọn không chứng đắc Vô thượng. Nếu hay khước từ
chủng tánh, trừ bỏ tâm kiêu mạn, thì mới có thể chứng được đạo
quả Vô thượng trong giáo pháp Ta, mới kham lãnh thọ được Chánh
pháp. Người đời gớm ghét kẻ hạ lưu, còn giáo pháp ta không thế.”
-
“Này Bà-tất-tra! Có
bốn chủng tánh gồm cả người lành người dữ; được người trí khen,
cũng bị người trí chê. Bốn chủng tánh ấy là: Sát-lỵ, Bà-la-môn,
Cư sĩ, Thủ-đà-la.
-
“Này Bà-tất-tra! Hẳn
ngươi từng nghe trong dòng Sát-lỵ có kẻ sát sinh, có kẻ trộm
cắp, có kẻ dâm loạn, kẻ dối trá, kẻ nói hai lưỡi, kẻ nói ác độc,
có kẻ ỷ ngữ, có kẻ xan tham, có kẻ tật đố, có kẻ tà kiến, thì
trong dòng Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la cũng có lẫn lộn đủ hạng
người làm mười ác hạnh đó. Này Bà-tất-tra! Phàm làm điều bất
thiện thì có quả báo bất thiện, làm điều hắc ám thì có quả báo
hắc ám. Nếu rằng quả báo đó chỉ có với dòng Sát-lỵ, Cư sĩ,
Thủ-đà-la chứ không có với dòng Bà-la-môn, khi ấy người
Bà-la-môn mới nên tự cho dòng Bà-la-môn ta là tối cao bậc nhất,
còn các dòng khác thấp hèn, dòng ta trắng trẻo, các dòng khác
đen điu; dòng Bà-la-môn ta xuất hiện từ Phạm thiên, từ miệng
Phạm thiên sinh ra, hiện tại thanh tịnh, về sau cũng thanh tịnh.
Trái lại nếu rằng làm điều bất thiện thì có quả báo bất thiện,
làm điều hắc ám thì có quả báo hắc ám, quả báo đó bất cứ
Bà-la-môn, Sát-lỵ, hay Thủ-đà-la đều có như nhau, thời người
Bà-la-môn không thể tự xưng chỉ dòng ta là thanh tịnh tối cao
bậc nhất.
-
“Này Bà-tất-tra! Nếu
trong dòng Sát-lỵ, có kẻ không giết, không trộm, không tà dâm,
không nói dối, không hai lưỡi, không ác khẩu, không ỷ ngữ, không
xan tham, không tật đố, không tà kiến, thời trong dòng
Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la cũng đều có hạng người tu mười điều
thiện như thế. Phàm làm điều lành, tất có quả báo lành, làm điều
thanh bạch tất có quả báo thanh bạch. Nếu rằng quả báo đó chỉ có
với dòng Bà-la-môn mà không có với dòng Sát-lỵ, Cư sĩ, Thủ-đà-la
khi ấy người dòng Bà-la-môn mới nên tự xưng dòng mình thanh tịnh
tối cao bậc nhất. Trái lại, nếu cả bốn chủng tánh đều có quả báo
đó, thời người Bà-la-môn không thể tự xưng chỉ dòng ta là thanh
tịnh tối cao bậc nhất.
-
“Này Bà-tất-tra! Nay
hiện dòng Bà-la-môn có gả cưới, có sinh sản không khác người
đời, thế mà lại dối xưng ta là dòng Phạm thiên, từ miệng Phạm
thiên sinh ra, hiện tại được thanh tịnh, về sau cũng thanh tịnh.
-
“Này Bà-tất-tra!
Ngươi nên biết hiện nay chúng đệ tử của Ta, dòng dõi không đồng,
xuất xứ khác nhau, xuất gia tu hành ở trong giáo pháp Ta. Nếu có
gặp ai hỏi: Người thuộc dòng nào? thì nên trả lời họ: Tôi là
Sa-môn, con dòng họ Thích. Hoặc có thể tự xưng: Tôi dòng
Bà-la-môn, tôi đích từ miệng Phật sanh ra, từ Pháp hóa sinh ra,
hiện tại được thanh tịnh, về sau cũng thanh tịnh. Tại sao thế?
Vì các danh xưng Đại Phạm tức là đức hiệu Như Lai. Như Lai là
con mắt của thế gian, là trí tuệ của thế gian, là pháp của thế
gian, là Phạm của thế gian, là Pháp luân của thế gian, là Cam lồ
của thế gian, là Pháp chủ của thế gian vậy.
-
“Này Bà-tất-tra, nếu
trong dòng Sát-lỵ có người thành tín Phật, là Như Lai, Chí Chân,
Đẳng Chánh Giác, mười hiệu đầy đủ.
-
“Thành tín Pháp, tin
pháp của Như Lai, là thanh tịnh vi diệu, có thể tu hành ngay
hiện tại, được nói ra không hạn cuộc thời tiết, là pháp đưa đến
Niết-bàn, duy người trí mới thấu rõ, chẳng phải kẻ phàm phu ngu
si thấu rõ được .
-
“Thành tín Tăng, tánh
thiện chất trực, đạo quả thành tựu, quyến thuộc thành tựu, là đệ
tử chân chính của Phật, thành tựu pháp và tùy pháp. Nói là
chúng, đó là nói chúng thành tựu giới, chúng thành tựu định,
chúng thành tựu tuệ, chúng giải thoát, chúng giải thoát tri
kiến. Đó là chúng Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn quả; chúng
Tư-đà-hàm hướng, Tư-đà-hàm quả; chúng A-na-hàm hướng, A-na-hàm
quả; chúng A-la-hán hướng; chúng A-la-hán quả. Gồm bốn đôi tám
bậc. Đó là chúng đệ tử của Như Lai, rất đáng kính, đáng tôn
trọng, làm ruộng phước của thế gian; xứng đáng lãnh thọ sự cúng
dường người .
-
“Thành tín Giới, là
giới luật Thánh hiền đầy đủ, không khuyết lậu, không tì vết,
cũng không dính nhơ, được người trí ngợi khen, đầy đủ đức tính
tốt lành và vắng lặng thì này Bà-tất-tra, người dòng Bà-la-môn,
Cư sĩ, Thủ-đà-la cũng có thể như thế. Thành tín Phật, tin Pháp,
tin Tăng và tin Thánh giới thành tựu.
-
“Này Bà-tất-tra,
trong dòng Sát-lỵ cũng có người cúng dường, cung kính, lễ bái
A-la-hán. Dòng Bà-la-môn, Cư sĩ, Tthủ-đà-la cũng đều có người
cúng dường, cung kính, lễ bái A-la-hán như thế.
-
Này Bà-tất-tra, nay
thân tộc Ta, dòng họ Thích, cũng tôn phụng vua Ba-tư-nặc , tôn
thờ lễ kính. Vua Ba-tư-nặc cũng lại đến cúng dường, kính lễ Ta.
Vua không nghĩ rằng: Vì Sa-môn Cù-đàm sinh từ dòng hào quý còn
ta sinh dòng hạ tiện. Sa-môn Cù-đàm sinh trong nhà đại tài phú,
đại oai đức còn ta sinh nhà hạ cùng bỉ lậu ty tiện. Cho nên ta
phải đến cúng dường Như Lai. Nhưng Ba-tư-nặc căn cứ trên pháp,
quán sát pháp, biết rõ chân ngụy, cho nên mới sanh lòng tịnh tín
đến kính lễ cúng dường Như Lai.
-
“Này Bà-tất-tra, nay
Ta sẽ vì ngươi nói rõ nhân duyên của bốn chủng tánh ấy.
-
“Trời đất thủy chung,
khi kiếp tận băng hoại, chúng sanh mệnh chung đều sanh lên cõi
trời Quang âm. Tự nhiên hóa sanh, ăn bằng tư niệm lực, mình phát
ánh sáng và có thần túc bay trong hư không.
-
“Về sau, cõi đất này
thảy biến thành nước trùm ngập tất cả. Vào lúc ấy không có mặt
trời, mặt trăng, các sao, cũng không có kể ngày đêm, năm, tháng,
số tuổi. Duy có một vùng tối tăm bao la. Sau dần dần biển nước
đó lại biến thành cõi đất. Các vị trời Quang âm đến lúc hết
phước, mệnh chung, sinh xuống nơi này. Tuy sinh xuống đó, song
vẫn ăn bằng tư niệm, còn có thần túc bay đi, thân còn tỏa sáng.
Chúng sống như thế một thời gian lâu và ai cũng gọi nhau là
chúng sanh, chúng sanh.
-
“Về sau nữa, từ trong
cõi đất này có suối ngọt chảy ra giống như đường mật. Chúng khi
mới đến, thiên tánh còn khinh tháo giản dị, thấy vậy nghĩ thầm:
Đó là vật gì ta hãy nếm thử? Liền nhúng ngón tay vào suối để nếm
thử, nếm tới ba lần, cảm thấy ngon, chúng mới lấy tay bụm ăn
không chút e ngại và cứ mê say ăn như thế chẳng biết nhàm. Các
chúng sanh khác nhìn thấy bắt chước làm theo, nếm đến ba lần,
cảm thấy ngon rồi cũng tiếp tục ăn mãi, do đó, thân họ trở nên
thô kệch, da thịt cứng rắn, mất cả màu sắc đẹp đẽ nhà trời, thần
túc không còn, phải đi trên đất, ánh sáng nơi thân cũng mất, cả
trời đất tối tăm.
-
“Này Bà-tất-tra, nên
biết pháp thường của trời đất, sau thời gian tối tăm thì có
thiên tượng: mặt trời, trăng, sao, xuất hiện ở không trung, rồi
từ đó bắt đầu có ngày đêm, tối sáng, năm tháng, số tuổi. Chúng
sanh lúc này chỉ sống nhờ ăn vị đất mà sống lâu trong thế gian.
Người nào ham ăn nhiều thì nhan sắc thô xấu, người nào ăn ít thì
nhan sắc còn tươi nhuận, do đó mới bắt đầu có sự tốt xấu, đoan
chính. Người đoan chính thì sinh tâm kiêu mạn khinh người xấu
xí. Người xấu xí thì sinh tâm tật đố ghét người đoan chính.
Chúng sanh do đó thù nghịch với nhau.
-
“Bấy giờ suối ngọt tự
nhiên cạn khô. Về sau, cõi đất tự nhiên lại sinh ra chất béo của
đất có đủ mùi vị thơm tho ăn được. Chúng sanh lại lấy đất ấy mà
ăn, sống lâu trong thế gian. Người nào ham ăn nhiều thì nhan sắc
mau xấu, người nào ăn ít thì nhan sắc còn tươi nhuận; người đẹp
đẽ sinh tâm kiêu mạn khinh người xấu xí; người xấu xí sinh tâm
tật đố ghét người đẹp đẽ. Chúng sanh vì thế cùng nhau tranh tụng
mãi. Rồi thì, chất béo của đất không còn sinh như trước. Về sau,
đất này lại sinh thứ chất béo của đất dày mà thô, tuy cũng thơm
ngon ăn được nhưng không bằng trước. Chúng sanh bấy giờ lại lấy
đất này ăn mà sống lâu ở thế gian. Người ham ăn nhiều thì nhan
sắc mau xấu, người ăn ít thì nhan sắc còn tươi nthuận. Người
đoan chính, kẻ xấu xí cứ thị phi nhau rồi sinh điều tranh tụng
mãi. Từ đó chất đất tốt không sinh lại nữa. Về sau, đất này lại
sinh ra thứ lúa tự tnhhiên không có trấu, sắc vị đầy đủ, thơm
tho ăn được, chúng sanh lại lấy lúa gạo ăn, sống lâu ở thế gian;
con trai con gái nhìn nhau, dần dần móng tâm tình dục, mới tìm
gần gũi nhau. Nhưng chúng sanh khác thấy thế nói: Ngươi làm
quấy, ngươi làm quấy và kẻ làm quấy bị tẩn xuất khỏi nhóm người,
sau ba tháng mới cho trở lại.
-
“Này Bà-tất-tra,
những điều trước kia người ta cho là quấy, thì bây giờ người ta
cho là phải. Rồi chúng sanh kia tập quen với phi pháp, mặc tình
buông thả theo tình dục, không kể gì thời tiết. Rồi vì sự hổ
thẹn mới tạo lập phòng xá và từ đó thế gian khởi đầu có phòng
xá. Đùa quen với điều quấy, dâm dục ngày càng tăng lên, mới có
bào thai sinh ra từ bất tịnh và thế gian mới bắt đầu có bào thai
vậy.
-
“Chúng sanh lúc ấy ăn
loại lúa gạo tự nhiên; lấy xong nó lại sinh ra, vô cùng vô tận.
Sau trong chúng sanh đó có kẻ lười nhác thầm nghĩ rằng: Cứ sáng
ăn sáng lấy, chiều ăn chiều lấy thì nhọc nhằn. Chi bằng lấy luôn
cất đủ ăn một ngày. Nó liền lấy cất để ăn đủ một ngày. Sau đó có
bạn gọi nó đi lấy lúa, nó đáp: Tôi đã lấy đủ để ăn một ngày rồi.
Bạn muốn lấy thì cứ tùy ý. Người ấy bèn suy nghĩ: Anh này khôn
ngoan, chứa lương thực trước. Ta nay cũng muốn tích trữ lương
thực đủ cho ba ngày. Nó bèn trữ lương thực dư cho ba ngày. Khi
có chúng sanh khác đến rủ đi lấy gạo, nó đáp: Ta đã cất trước đủ
ăn ba ngày rồi. Ngươi muốn lâấy cứ tự ý đi mà lấy mấy tùy ý.
Người đó lại nghĩ rằng: Gã kia khôn ngoan, đã biết cất lương
thực trước đủ ăn ba ngày. Vậy ta hãy bắt chước nó, cất đủ năm
ngày. Nó đi lấy cất ăn đủ năm ngày.
-
“Chúng sanh sau khi
cạnh tranh nhau tích trữ, thóc lúa trở nên hoang dại, bắt đầu có
vỏ trấu. Cắt rồi không tự nhiên sinh lại như trước nữa. Chúng
sanh thấy thế trong lòng không vui, mới có sự ưu lo suy nghĩ: Ta
lúc đầu mới sinh ra, chỉ sống bằng tư niệm, thân ta có ánh sáng
và thần túc bay đi. Sau đó đất này tuôn ra suối ngọt, chảy ra
giống như đường mật thơm ngon ăn được. Chúng ta cùng ăn, tiếp
tục ăn mãi. Ai ăn nhiều thì nhan sắc thô xấu, người ăn ít thì
sắc còn tươi nhuận. Do thức ăn này mà nhan sắc chúng ta trở nên
khác nhau. Chúng ta do vậy ai nấy ôm lòng thị phi, ganh ghét lẫn
nhau. Bấy giờ suối ngọt tự nhiên cạn khô. Về sau, cõi đất tự
nhiên lại sinh ra chất béo của đất có mùi vị thơm tho ăn được.
Chúng ta lại lấy đất ấy mà ăn. Ai ăn nhiều thì nhan sắc thô xấu,
người ăn ít thì sắc còn tươi nhuận. Chúng ta do vậy ai nấy ôm
lòng thị phi, ganh ghét lẫn nhau. Rồi thì, chất béo của đất
không còn sinh như trước mà lại sinh thứ chất thô kệch, tuy cũng
thơm ngon ăn được. Chúng ta lại lấy mà ăn. Ai ăn nhiều thì nhan
sắc thô xấu, nghười ăn ít thì sắc còn tươi vui. Chúng sanh do
vậy ai nấy ôm lòng thị phi, ganh ghét lẫn nhau. Rồi thì, chất
béo của đất không còn sinh như trước, mà lại sinh ra thứ lúa tự
nhiên không có trấu. Chúng ta lại lấy mà ăn để sống lâu ở đời.
Rồi những kẻ biếng nhác tranh nhau tích trữ, nên lúa gạo trở nên
hoang dại, bắt đầu có vỏ trấu, cắt rồi không sinh lại. Bây giờ
phải làm sao đây?
-
“Rồi chúng bảo nhau:
Chúng ta hãy phân chia đất và cắm mốc. Chúng chia đất và cắm
mốc.
-
“Này Bà-tất-tra, do
nhân duyên ấy mới phát sinh danh từ ruộng đất.
-
“Bấy giờ chúng sanh
đó chia cắt ruộng đất, ai lập bờ cõi nấy, nên dần dần sinh ra
tâm lén lút trộm cắp thóc lúa của nhau. Những chúng sanh khác
trông thấy bảo: Ngươi làm quấy, ngươi làm quấy. Ngươi đã có
ruộng đất mà còn lấy trộm của người ta. Từ nay về sau không được
làm thế nữa. Nhưng chúng sanh kia vẫn lấy cắp mãi. Các chúng
sanh khác lại đã quở trách, nhưng nó không thôi, bèn lấy tay
đánh và tố cáo với mọi người rằng: Người này đã có ruộng lúa mà
còn lấy trộm của người khác. Gã này lại bảo: Người này đánh tôi.
Mọi người thấy hai bên cãi nhau mãi, thì ưu sầu không vui, nói
nhau một cách áo não: Chúng sanh đi dần đến chỗ ác, nên thế gian
mới có xảy ra sự bất thiện đó. Điều xấu ác, bất tịnh đó chính là
nguyên nhân của sanh, già, đau, chết và phiền não khổ báo trong
ba đường ác. Bởi có ruộng đất riêng nên mới sinh kiện cáo, vậy
tốt hơn chúng ta nên lập lên một người làm chủ để xử trị. Hễ ai
đáng bảo hộ thì bảo hộ, ai đáng khiển trách thì khiển trách. Mỗi
người chúng ta đều giảm phần gạo để cung cấp cho người ấy để lo
xét xử kiện cáo. Họ mới lựa trong đám tôn lên một người có hình
vóc to lớn, nhan mạo đoan chánh, có oai đức và bảo rằng: Ngươi
nay hãy vì bọn ta mà lên làm ông chủ bình đẳng . Hễ thấy ai đáng
bảo hộ thì bảo hộ, ai đáng khiển trách thì khiển trách, ai đáng
đuổi thì đuổi. Bọn ta sẽ góp gạo cung cấp cho.
-
“Người kia nhận lời
lên làm chủ, trông coi xử đoán kiện cáo. Mọi người cùng góp gạo
cung cấp.
-
“Người kia thường lấy
lời hay đẹp ủy lạo mọi người và mọi người đều hoan hỷ tôn xưng
rằng: Lành thay Đại vương! Lành thay Đại vương! Từ đó thế gian
mới bắt đầu có danh từ vua. Lấy chánh pháp trị dân, nên gọi là
Sát-lỵ và thế gian bắt đầu có tên “Sát-lỵ”.
-
“Thời gian sau trong
chúng độc nhất có một người suy nghĩ như vầy: Nhà là đại hoạn,
nhà là gai độc, ta thà bỏ nhà đi ở riêng trên rừng núi để nhàn
tịnh tu hành thì hơn. Người ấỵ lliền bỏ nhà vào rừng, trầm lặng
tư duy, đến giờ ăn thì mang bình bát vào làng khất thực. Mọi
người trông thấy đều vui vẻ cúng dường, tán thán: Lành thay,
người này có thể bỏ nhà lên ở núi, trầm lặng tu đạo, xa lìa mọi
điều xấu ác. Từ đó trong thế gian mới bắt đầu có tên Bà-la-môn .
-
“Nhưng trong đám
Bà-la-môn có kẻ không ưa ở chỗ nhàn tịnh tọa thiền tư duy, mà
chỉ ưa vào nhân gian chuyên nghề tụng đọc và tự nói: “Ta là
người không tọa thiền”. Người đời nhân đó gọi là “Bất thiền
Bà-la-môn" và cũng vì hay đi vào nhân gian nên lại có tên là
“Nhân gian Bà-la-môn”. Bắt đầu từ đó trong thế gian có dòng
Bà-la-môn hiện ra.
-
“Lại trong đám chúng
sanh kia, có người ưa kinh doanh sự nghiệp, chất chứa tài bảo,
nhân đó người ta kêu hạng này là hạng Cư sĩ. Trong đám chúng
sanh kia có người có nhiều cơ xảo kiến tạo, nên thế gian mới có
thêm một hạng nữa gọi là Thủ-đà-la công xảo.
-
“Này Bà-tất-tra! Nay
thế gian có đủ tên bốn chủng tánh và thêm hạng thứ năm là chúng
Sa-môn. Như thế là vì có khi trong chúng Sát-lỵ, có người tự
thấy nhàm chán pháp của mình, bèn cắt bỏ râu tóc, mặc pháp y tu
đạo. Do đó, tên Sa-môn bắt đầu có từ đó. Trong chúng Bà-la-môn,
Cư sĩ, Thủ-đà-la, có khi có người tự thấy nhàm chán pháp của
mình, bèn cắt bỏ râu tóc, mặc pháp y tu đạo. Do đó, tên Sa-môn
bắt đầu có từ đó.
-
“Này Bà-tất-tra!
Người dòng Sát-lỵ mà thân làm bất thiện, miệng nói bất thiện, ý
nghĩ bất thiện, khi thân hoại mạng chung phải thọ ác báo. Dòng
người Bà-la-môn, dòng Cư sĩ, dòng Thủ-đà-la mà thân làm bất
thiện, miệng nói bất thiện, ý nghĩ bất thiện, khi thân hoại mệnh
chung họ cũng phải thọ ác báo như thế.
-
“Này Bà-tất-tra! Nếu
người dòng Sát-lỵ mà thân làm lành, miệng nói lành, ý nghĩ lành,
khi thân hoại mệnh chung được hưởng thiện báo, thì người dòng
Bà-la-môn, dòng Cư sĩ, dòng Thủ-đà-la mà thân làm lành, miệng
nói lành, ý nghĩ lành, khi thân hoại mệnh chung cũng được hưởng
thiện báo như thế.
-
“Này Bà- tất- tTra!
Nếu người dòng Sát-lỵ mà làm cả hai điều thiện ác về nơi thân,
miệng, ý, khi thân hoại mệnh chung phải gặt lấy quả báo vừa khổ
vừa vui, thì người dòng Bà-la-môn, dòng Cư sĩ, dòng Thủ-đà-la mà
làm cả hai điều thiện ác về nơi thân, miệng, ý, đến khi thân
hoại mệnh chung, cũng phải thọ lấy quả báo vừa khổ vừa vui như
thế.
-
“Này Bà-tất-tra!
Trong dòng Sát-lỵ có kẻ cắt tóc cạo râu, mặc y tu đạo, tu bảy
pháp giác ý, không bao lâu là được thành đạo. Vì sao? Con nhà
tộc tánh ấy mặc pháp y xuất gia, tu các phạm hạnh cao thượng,
thì chính ngay trong hiện tại tự thân tác chứng, sanh tử đã dứt,
phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh.
Trong dòng Bà-la-môn, dòng Cư sĩ, dòng Thủ-đà-la mà có kẻ cắt bỏ
râu tóc, mặc pháp y tu đạo, tu bảy pháp giác ý, không lâu cũng
sẽ được thành đạo như thế. Vì sao? Con nhà tộc tánh ấy xuất gia,
mặc pháp y, tu các phạm hạnh vô thượng, chính ngay trong hiện
tại tự thân tác chứng, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều
cần làm đã làm xong, không còn tái sanh.
-
“Này Bà-tất-tra! Cả
bốn chủng tánh đó, đều có thể xuất sinh bậc La-hán thành tựu
viên mãn trí minh và đức hạnh, là bậc đứng nhất ở trong năm
chủng tánh ấy.
-
“Này Bà-tất-tra! Phạm
thiên có bài kệ rằng:
-
Trong đời, Sát-lỵ
nhất.
-
Bỏ chủng tánh xuất
gia,
-
Thành bậc đủ Minh
Hạnh,
-
Bậc nhất trong thế
gian.
-
“Này Bà-tất-tra! Phạm
thiên nói như thế là đúng chớ không phải không đúng, khéo thọ
chứ không phải không khéo thọ. Lúc đó Ta liền ấn khả lời nói ấy
của Phạm thiên. Vì nay Ta, là Như Lai, Chí Chân, cũng nói nghĩa
như thế đó:
-
Trong đời, Sát-lỵ
nhất.
-
Bỏ chủng tánh xuất
gia,
-
Thành Bậc đủ Minh
Hạnh đủ,
-
Bậc nhất trong thế
gian.
-
Bấy giờ, sau khi nghe
Ðức Thế Tôn nói pháp, Bà-tất-tra, Bà-la-đọa liền được tâm giải
thoát vô lậu. Nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
|
|