|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
-
KINH TRƯỜNG
A HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật
Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
- PHẦN II
-
6. KINH CHUYỂN LUẤN THÁNH VƯƠNG TU HÀNH
-
-
Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời, Phật ở tại
Ma-la-hê-sưu,, du hành nhân gian, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi
Tỳ-kheo, dần dần đi đến nước Ma-lâu.
-
Bấy giờ Thế Tôn nói với các
Tỳ-kheo:
-
“Này các Tỳ-kheo, các ngươi
hãy tự thắp sáng. Thắp sáng trong Chánh pháp, chớ đừng thắp sáng ở nơi
khác. Hãy tự mình nương tựa nơi mình, nương tựa nơi Chánh pháp, chớ
đừng nương tựa vào một nơi nào khác..
-
“Này các Tỳ-kheo, thế nào
là hãy tự thắp sáng; thắp sáng trong Chánh pháp, chớ đừng thắp sáng ở
nơi khác; hãy tự mình nương tựa nơi mình, nương tựa nơi Chánh pháp,
chớ đừng nương tựa vào một nơi nào khác?
-
“Ở đây, Tỳ-kheo quán thân
trên nội thân, tinh cần không biếng nhác, ức niệm không quên, trừ bỏ
tham ưu ở đời. Quán thân trên ngoại thân, quán thân trên nội ngoại
thân, tinh cần không biếng nhác, ức niệm không quên, trừ bỏ tham ưu ở
đời. Quán thọ, quán ý, quán pháp cũng vậy. Đó là Tỳ-kheo hãy tự thắp
sáng; thắp sáng trong Chánh pháp, chớ đừng thắp sáng ở nơi khác; hãy
tự mình nương tựa nơi mình, nương tựa nơi Chánh pháp, chớ đừng nương
tựa vào một nơi nào khác. Thực hành như thế sẽ không bị ma nhiễu hại,
công đức ngày một thêm. Tại vì sao?
-
“Vào thời quá khứ xa xưa,
có vị vua tên là Kiên Cố Niệm, là vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ, làm
Chuyển luân thánh vươngChuyển luân thánh vương, thống lãnh cả bốn châu
thiên hạ. Bấy giờ nhà vua là vị Tự tại, cai trị bằng chánh pháp, là
người tối thắng trong loài người. Vua có đủ bảy thứ báu: bánh xe vàng
báu, voi trắng báu, ngựa xanh báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, cư sĩ
báu, chủ binh báu. Và có một ngàn người con hùng dũng, đủ sức dẹp
địch. Vua không cần dùng binh mà thiên hạ tự thái bình.
-
“Vua Kiên Cố Niệm trị vì đã
lâu ngày, một hôm bánh xe vàng báu ở không trung bỗng tự nhiên rời
khỏi chỗ cũ. Người coi bánh xe gấp đến tâu vua: Tâu Đại vương, nên
biết, bánh xe báu nay rời khỏi chỗ cũ. Sau khi nghe thế, vua Kiên Cố
Niệm nghĩ: Ta từng nghe các bậc tiền túc kỳ cựu nói: Nếu bánh xe báu
rời khỏi chỗ cũ thì thọ mạng của Chuyển luân vương không còn được lâu.
Ta nay đã thụ hưởng phước lạc ở cõi người, nên tìm phương tiện để thọ
hưởng phước lạc thiên thượng. Ta hãy lập thái tử lên thống lãnh bốn
châu thiên hạ và phong riêng một ấp cho người hớt tóc, để khiến cắt bỏ
râu tóc, rồi ta mặc pháp y, xuất gia tu đạo.
-
“Rồi vua Kiên Cố Niệm sai
gọi thái tử và bảo: Khanh biết không? Ta từng nghe các bậc tiền túc kỳ
cựu nói, nếu bánh xe báu rời khỏi chỗ cũ thì thọ mạng của Chuyển luân
vương không còn được lâu. Ta nay đã thụ hưởng phước lạc ở cõi người,
nên tìm phương tiện để thụ hưởng phước lạc trên Trờithiên thượng. Nay
ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Ta đem bốn
châu thiên hạ ủy thác cho ngươi. Ngươi hãy gắng sức, thương yêu dân
chúng. Sau khi thái tử lãnh mạng. Vua Kiên Cố Niệm liền cạo bỏ râu
tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.
-
“Vua xuất gia được bảy ngày
thì bánh xe vàng báu bỗng nhiên không hiện ra nữa. Người coi bánh xe
đến tâu vua: Đại vương nên biết, nay bánh xe vàng báu bỗng nhiên biến
mất. Vua không vui. Bèn tìm đến chỗ vua Kiên Cố Niệm. Sau khi đến,
bạch rằng: Phụ vương nên biết, nay bánh xe vàng báu bỗng nhiên không
hiện ra nữa. Vua Kiên Cố Niệm trả lời con: Ngươi chớ lo lắng cho là
điều không vui. Bánh xe vàng báu đó không phải là của cha ngươi sản
xuất ra. Ngươi chỉ cần gắng thi hành chánh pháp Thánh vương, rồi đến
ngày rằm trăng tròn, tắm gội nước hương, lên ngồi tại chánh pháp điện,
có thể nữ bao quanh, tức thì có thần bảo bánh xe vàng báu tự nhiên
hiện đến. Bánh xe có ngàn căm, màu sắc đầy đủ, là tác phẩm của thợ nhà
trời chứ không phải của loài người.
-
“Thái tử tâu phụ vương: Phụ
vương, chánh pháp của Chuyển luân thánh vươngChuyển luân thánh vương
là thế nào? Phải làm như thế nào?. Vua bảo con: Hãy nương trên pháp,
an lập trên pháp, thành tựu nơi pháp; cung kính, tôn trọng, quán sát
pháp; lấy pháp làm đầu, thủ hộ chánh pháp. Lại nữa, hãy răn dạy các
thể nữ bằng pháp. Lại nữa, hãy chăm sóc dạy dỗ các vương tử, đại thần,
các quan lại, trăm quan và thứ dân bằng pháp. Hãy hộ trì, chăm sóc các
Sa-môn, Bà-la-môn, cho đến cầm thú. Rồi vua lại bảo con: Lại nữa,
trong cõi nước ngươi, nếu có các Sa-môn, Bà-la-môn, tu hành thanh
chơn, công đức đầy đủ, chuyên cần tinh tấn, xa lìa kiêu mạn, nhẫn nhục
nhân ái, một mình ở chỗ nhàn tịnh tu tập, một mình yên nghỉ, một mình
đạt đến Niết-bàn; tự mình diệt trừ tham dục, dạy người khác diệt trừ
tham dục; tự diệt trừ sân nhuế, dạy người khác diệt trừ sân nhuế; tự
diệt trừ ngu si, dạy người khác diệt trừ ngu si; ở trong chỗ ô nhiễm
họ không ô nhiễm, trong chỗ tội ác họ không tội ác, trong chỗ ngu si
họ không ngu si, chỗ có thể đắm trước họ không đắm trước, chỗ đáng trụ
họ không trụ, chỗ đáng ở họ không ở, thân hành chất trực, miệng nói
lời chất trực, ý nghĩ chất trực; thân hành thanh tịnh, miệng nói thanh
tịnh, ý nghĩ thanh tịnh, chánh niệm thanh tịnh, nhân huệ,, không hề
chán; biết đủ trong sự ăn mặc và cầm bát đi khất thực để gây phước
lành cho chúng sanh. Nếu có những người như thế, ngươi hãy thường nên
tìm đến, tùy lúc hỏi han: phàm những điều tu hành, sao là thiện, sao
là ác, sao gọi là phạm, sao gọi không phạm, cái nào đáng thân, cái nào
không đáng thân, việc gì đáng làm, việc gì không đáng làm và thi hành
pháp gì để được an lạc lâu dài? Ngươi hỏi xong rồi lấy ý mình quán xét
thấy việc nên làm thì gắng làm, việc nên bỏ thì gắng bỏ. Trong nước
nếu có kẻ mồ côi, già cả hãy nên chẩn cấp. Người nghèo cùng yếu kém
đến xin, cẩn thận chớ trái nghịch. Trong nước có luật pháp cũ, ngươi
chớ thay đổi. Đó là những pháp mà Chuyển luân thánh vương Chuyển luân
thánh vương tu hành, ngươi hãy phụng hành”.”
-
Phật nói với các Tỳ-kheo:
-
“Này các Tỳ-kheo, khi
Chuyển luân thánh vương nghe lời phụ vương dạy xong, thì như lời dạy
mà tu hành. Đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội nước hương, lên ngồi tại
bảo điện, có thể nữ bao quanh, tự nhiên có bánh xe báu hiện ra trước
mặt, vành xe có ngàn căm sáng chói, do thợ trời làm chớ không phải đời
có được. Bánh xe toàn bằng chân kim, đường kính bánh xe một trượng tư.
Khi ấy, Chuyển luân Thánh vương Chuyển luân thánh vương thầm nghĩ: Ta
từng nghe các bậc tiên túc kỳ cựu nói: Nếu vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ,
đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội nước hương, lên ngồi tại bảo điện, có
thể nữ bao quanh, thời tự nhiên có bánh xe vàng hiện đến trước mặt,
bánh xe có ngàn căm, ánh sáng rực rỡ, là tác phẩm của thợ nhà trời chứ
không phải do con người làm, được làm thành bằng vàng thật, đường kính
trượng tư, khi đó được gọi là Chuyển luân thánh vươngChuyển luân thánh
vương. Nay có bánh xe báu ấy hiện đến há không là đây chăng? Ta hãy
thử coi bánh xe đó thế nào?
-
“Khi ấy, vua Chuyển luân
liền triệu bốn thứ binh, hướng về phía bánh xe vàng, trịch áo bày vai
phải, đầu gối phải qùỳy sát đất, rồi lấy tay mặt vỗ lên bánh xe và
nói: Ngươi hãy theo đúng phép mà vận chuyển về phương Đông, chớ trái
lệ thường. Bánh xe liền chuyển về phương Đđông. Vua bèn dẫn bốn thứ
quân binh đi theo bánh xe vàng, trước bánh xe vàng có bốn vị thần dẫn
đường. Đến chỗ bánh xe vàng ngừng thì vua cũng dừng xe. Bấy giờ, các
tiểu quốc phương Đđông thấy đại vương đến, họ đem bát vàng đựng lúa
bạc, bát bạc đựng lúa vàng đến trước vua, cúi đầu tâu rằng: “Đại vương
đến, thật lành thay! Nay phương Đđông này đất ruộng phì nhiêu, nhân
dân sung túc, tánh khí nhân hòa, từ hiếu trung thuận. Cúi mong Thánh
vương lấy chánh pháp trị hóa chốn này, chúng tôi xin cung cấp hầu hạ,
phục vụ mọi việc cần dùng. Vua Chuyển luân nói với các tiểu vương:
“Thôi thôi chư Hiền! Thế là các ngươi đã cúng dường ta rồi đó. Các
ngươi hãy nên lấy chánh pháp mà trị dân, chớ làm cho thiên lệch, không
để cho quốc nội có hành vi phi pháp. Như vậy tức là ta trị hóa đó. Các
tiểu vương vâng lệnh. Họ liền theo vua đi tuần khắp nước, đến tận mé
biển Đđông mới trở về.
-
“Vua lần lượt đi về phương
Nnam, rồi phương Ttây, phương Bbắc. Hễ bánh xe vàng đến ở đâu thì các
quốc vương đều đến cống hiến như các tiểu quốc phương Đông vậy.
-
“Bấy giờ, vua Chuyển luân,
sau khi đã theo bánh xe vàng đi khắp bốn biển, đem chánh đạo khai hóa,
an ủi dân chúng xong, trở về nước, thì bánh xe vàng dừng lại trên
không trung ngay cửa cung điện. Vua Chuyển luân vui mừng phấn khởi
nói: Bánh xe vàng báu này thật là điềm tốt của ta. Nay ta chính thật
là Chuyển luân thánh vương.
-
“Đó là sự thành tựu bánh xe
vàng báu.
-
“Vua ấy trị đời một thời
gian lâu, rồi bánh xe vàng báu giữa hư không lại bỗng nhiên rời chỗ
cũ. Người coi bánh xe gấp đến tâu vua: Đại vương nên biết, nay bánh xe
báu đã rời chỗ. Vua nghe xong liền tự mình suy nghĩ: Ta từng nghe nơi
các bậc tiên túc kỳ cựu rằng, nếu bánh xe báu dời chỗ, Chuyển luân
thánh vương Chuyển luân thánh vương sống chẳng còn bao lâu nữa. Ta nay
đã hưởng thọ phước lạc của loài người, cũng nên tìm phương tiện thọ
phước lạc trên trời. Ta hãy lập thái tử thống lãnh bốn thiên hạ, phong
riêng một ấp cho người hớt tóc và ra lệnh cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp
y, xuất gia tu đạo.
-
“Rồi vua sai gọi thái tử và
bảo: Khanh biết không? Ta từng nghe các bậc tiền túc kỳ cựu nói, nếu
bánh xe báu rời khỏi chỗ cũ thì thọ mạng của Chuyển luân vương không
còn được lâu. Ta nay đã thụ hưởng phước lạc ở cõi người, nên tìm
phương tiện để thụ hưởng phước lạc thiên thượng. Nay ta muốn cạo bỏ
râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Ta đem bốn châu thiên hạ ủy
thác cho ngươi. Ngươi hãy gắng sức, thương yêu dân chúng. Sau khi thái
tử lãnh mạng, vua liền cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.
-
“Vua xuất gia được bảy ngày
thì bánh xe vàng bỗng nhiên không hiện. Người coi bánh xe đến báo tin
vua: Tâu Đại vương, bánh xe báu nay bỗng nhiên biến mất. Vua nghe xong
chẳng cho đó là điều đáng lo, cũng chẳng chịu đến hỏi ý phụ vương.
-
“Rồi vua cha bỗng nhiên
thăng hà.
-
“Kể từ đây về trước có sáu
vua Chuyển luân, cứ đắp đổi trao ngôi và lấy chánh pháp trị dân, duy
một ông vua sau này tự chuyên trị nước, không theo pháp cũ, chánh trị
bất công khiến thiên hạ oán thán, quốc độ kém sút, nhân dân điêu linh.
Thấy vậy có một đại thần dòng Bà-la-môn đến tâu vua: Nay quốc độ sút
kém, nhân dân điêu linh, không được như trước. Hiện nay trong nước vua
có nhiều vị trí thức, thông minh bác đạt, rõ thấu cổ kim, biết đủ pháp
chánh trị của tiên vương, sao ngài không vời lại để hỏi những điều họ
biết, hỏi chắc họ đáp. Vua liền vời quần thần đến hỏi cái đạo trị
chánh của Tiên vương, các vị trí thần đáp đủ mọi việc. Vua nghe xong
bèn thi hành theo pháp cũ, lấy chánh pháp cứu hộ nhân dân, nhưng vẫn
không thể chẩn tế những kẻ cô lão, cấp thí cho người hạ cùng, nhân dân
trong nước vẫn bị đưa dần tới chỗ nghèo khổ, xâm đoạt lẫn nhau mà
thành có nạn đạo tặc hoành hành. Mỗi khi có ai bị rình bắt được đem
đến vua, tâu rằng: Người này làm giặc, xin vua trị nó. Vua hỏi: Có
thật ngươi là giặc không? Người ấy đáp: Thật. Vì tôi nghèo cùng đói
khát, không tự sống nổi nên phải làm giặc. Vua liền xuất kho, lấy của
cấp cho và dặn: Ngươi đem của này về cung cấp cha mẹ, giúp đỡ bà con,
từ nay chớ làm giặc nữa nghe.
-
“Các người khác thấy vậy
đồn: Có kẻ làm giặc được vua cấp cho tài bảo, nên họ cũng bắt chước
làm theo. Họ lại bị rình bắt được đem đến vua, tâu rằng: Người này làm
giặc, xin vua trị nó. Vua lại hỏi: Có thật ngươi là giặc không? Người
kia đáp: Dạ thật. Vì tôi nghèo cùng đói khát không tự sống nổi, nên
phải làm giặc. Vua lại xuất kho lấy của cấp cho và bảo: Ngươi đem của
này về cung cấp cha mẹ, giúp đỡ bà con, từ nay chớ làm giặc nữa nghe.
-
“Lại những người khác nghe
nói có kẻ làm giặc được vua cấp cho tài bảo, nên họ bắt chước rủ nhau
làm theo và lại bị rình bắt đem đến vua, tâu: Người này làm giặc, xin
vua trị nó. Vua lại hỏi: Có thật ngươi làm giặc không? Người kia đáp:
Dạ thật. Vì tôi nghèo cùng đói khát, không tự sống nổi nên phải làm
giặc. Lần này vua nghĩ: Trước có người làm giặc, ta thấy nghèo đói cấp
cho tài vật, dặn thôi đừng làm. Người khác nghe thế lại bắt chước làm.
Nạn đạo tặc nhân đó tràn lan mãi. Thôi bây giờ tốt hơn ta phải hạ lệnh
bắt trói người này dắt đi các ngõ đường, sau đưa ra ngoài thành đến
chỗ trống trải mà hành hình, để răn người sau. Vua liền sắc tả hữu bắt
trói lại rồi đánh trống xướng lệnh đưa đi khắp ngõ đường. Xong rồi đem
tới một nơi trống trải ở ngoài thành mà hành hình. Mọi người khác thấy
vậy truyền nhau: Nếu chúng ta làm giặc, cũng phải bị xử như thế chẳng
khác gì. Từ đây quốc dân, để tự phòng hộ, mới tạo ra những binh
trượng, gươm đao, cung tên, tàn hại nhau, tấn công, cướp gidậựt lẫn
nhau.
-
“Kể từ vua này mới bắt đầu
có sự nghèo cùng. Nhân có nghèo cùng mới có đạo tặc. Nhân có đạo tặc
mới có đao trượng. Nhân có đao trượng mới có sát hại. Nhân có sát hại
nên nhan sắc con người mới tiều tụy, thọ mạng ngắn ngủi. Họ sống từ
bốn vạn tuổi, sau lần xuống còn hai vạn tuổi. Trong số đó có người
sống lâu; có người chết yểu; có người khổ; có người sướng. Những người
khổ thì sinh tâm tà dâm, tham thủ, bày đủ phương tiện để mưu đọạat của
nhau, nên tai nạn nghèo cùng, trộm cướp, đao trượng, sát hại càng ngày
càng nhiều, làm cho mạng người lại giảm dần xuống chỉ sống một vạn
tuổi.
-
“Trong thời gian người sống
một vạn tuổi, vẫn lại trộm cướp lẫn nhau. Mỗi khi bị rình bắt đem đến
vua, tâu rằng: Người này làm giặc, xin vua trị nó. Vua hỏi: Có thật
ngươi làm giặc không? Người kia đáp: Tôi không làm. Và ở giữa đám đông
nó cố ý nói dối. Như vậy chúng sanh lúc đó vì nghèo cùng nên trộm
cướp. Vì trộm cướp nên có đao binh. Vì đao binh nên có giết hại. Vì
giết hại nên có tham thủ tà dâm. Vì tham thủ tà dâm nên có nói dối. Vì
có nói dối, do đó tuổi thọ lại giảm lần, chỉ còn sống được một ngàn
tuổi.
-
“Trong thời gian sống một
ngàn tuổi, bắt đầu người ta tạo bốn ác hạnh về miệng trên đời là nói
dối, nói hai lưỡi, nói độc ác và nói thêu dệt. Ba ác nghiệp đó tăng
dần lên thì tuổi thọ con người giảm bớt xuống, chỉ còn sống được năm
trăm tuổi.
-
“Trong thời gian sống năm
trăm tuổi, người ta lại tạo thêm ba nết ác khác là dâm dục phi pháp,
tham lam phi pháp và tà kiến. Ba ác nghiệp này tăng dần lên thì tuổi
thọ con người giảm bớt xuống, chỉ còn sống đến ba trăm rồi hai trăm
tuổi và nay, nhân loại trong thời ta, chỉ còn sống được một trăm tuổi.
Số tuổi thọ được tăng thì ít mà giảm thì nhiều. Hễ cứ làm ác mãi thì
tuổi thọ cứ như thế giảm xuống mãi cho đến khi nhân loại chỉ còn sống
mười tuổi.
-
“Trong thời gian nhân loại
sống mười tuổi này, con gái vừa sinh ra năm tháng đã gả chồng. Ở vào
thời ấy, những vị ngon ngọt như dầu mỡ, đường mật không còn nghe tên.
Đậu, mè, lúa, nếp biến thành cỏ rác. Những thứ danh phục, lụa là, gấm
vóc, vải trắng, kiếp- ba, lụa tơ, lãnh nhiễu như bây giờ không thấy
mặc, mà phải bện lông gai xô xảm lấy làm áo mặc thượng hạng. Bấy giờ,
toàn cõi đất này mọc đầy gai góc, sanh đầy mòng muỗi, ruồi lằng, chấy
rận, rắn rết, ong, bò cạp, trùng độc. Vàng bạc, lưu ly, trân châu,
danh bảo đều lặn hết xuống đất, chỉ còn ngói đá, sạn sỏi thì nổi cả
lên trên. Nhân loại lúc đó tuyệt nhiên không còn nghe đến tên thập
thiện mà chỉ có thập ác dẫy đầy thế gian. Nhằm lúc cái tên thiện pháp
còn không nghe thấy, nhân loại không biết đâu để tu tập hạnh lành, do
đó hễ người nào làm điều cực ác, bất hiếu với cha mẹ, bất kính với sư
trưởng, bất trung bất nghĩa, phản nghịch vô đạo, thì được dân chúng
tôn sùng như hiện nay người ta tôn sùng kẻ làm điều lành, hiếu dưỡng
cha mẹ, kính thuận sư trưởng, trung tín tiết nghĩa, thuận đạo tu nhân
vậy.
-
“Nhân loại thời ấy, phần
nhiều tạo mười điều ác nên sa vào nẻo ác nhiều, hễ vừa trông thấy nhau
là họ muốn bắn giết nhau như kẻ thợ săn trông thấy bầy nai.
-
“Cõi đất lúc ấy đầy dẫy hố
hầm, khe suối, hang hóc; đất rộng người thưa, đi lại ghê sợ. Nhằm lúc
ấy thì có nạn đao binh nổi lên. Cọng cỏ nhánh cây cầm trong tay cũng
đều biến thành qua mâu, giết hại nhau trong vòng bảy ngày. Khi ấy,
những kẻ có trí, tìm lánh vào rừng sâu, nương ở hang hố, trong bảy
ngày lòng quá sợ hãi mà phát lời từ thiện rằng: Ngươi không hại ta, ta
không hại ngươi. Họ nhờ ăn cỏ cây mà sống còn. Qua khỏi bảy ngày họ từ
núi đi ra, hễ gặp người sống sót, vừa thấy nhau đã mừng rỡ nói: Ngươi
không chết ư? Ngươi không chết ư? Giống như cha mẹ chỉ có con một, xa
cách lâu ngày, nay gặp lại mừng không xiết kể. Họ đem lòng mừng rỡ
chúc hỏi nhau như thế xong, sau mới thăm hỏi đến nhà, thì hay rằng
thân thuộc nhà họ đã chết đi nhiều, nên họ lại buồn khóc, than van,
kêu ca với nhau trong suốt bảy ngày tiếp.
-
“Hết bảy ngày buồn khóc,
tiếp đến bảy ngày họ cùng nhau chúc mừng, hoan lạc và tự nghĩ: Vì
chúng ta chứa ác quá nhiều nên gặp phải tai nạn, khiến thân tộc chết
chóc, gia quyến mất tiêu. Vậy nay ta nên chung nhau tu tập điều lành,
nhưng hãy tu điều lành gì? Ta nên đừng sát sinh.
-
“Bấy giờ nhân loại lại phát
từ tâm, không tàn hại nhau, nhờ đó nhân loại được tăng dần sắc lực và
thọ mạng từ mười tuổi nay sống lên hai mươi tuổi. Trong lúc sống hai
mươi tuổi lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít hạnh lành không tàn
hại nhau mà thọ mạng tăng lên hai mươi tuổi. Có lẽ ta nên tu thêm ít
điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Trước đã không sát sinh rồi,
giờ ta nên đừng trộm cắp. Và do tu điều không trộm cắp mà thọ mạng
tăng lên bốn mươi tuổi. Trong lúc sống bốn mươi tuổi, lại suy nghĩ:
Chúng ta nhờ tu chút ít lành mà thọ mạng tăng lên, nay có lẽ ta nên tu
thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên tu điều không
tà dâm. Từ đó mọi người đều không tà dâm và thọ mạng tăng lên tám mươi
tuổi. Trong lúc sống tám mươi tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút
ít lành mà thọ mạng tăng lên, nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành
nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không nói dối. Từ đó mọi người
thảy đều không nói dối và thọ mạng tăng lên đến một trăm sáu mươi
tuổi. Trong lúc sống một trăm sáu mươi tuổi lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ
tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít
điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không nói hai lưỡi.
Từ đó mọi người đều không nói hai lưỡi và thọ mạng tăng lên ba trăm
hai mươi tuổi. Trong lúc sống ba trăm hai mươi tuổi, lại suy nghĩ:
Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta
nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không
ác khẩu. Từ đó mọi người không ác khẩu và thọ mạng tăng lên sáu trăm
bốn mươi tuổi. Trong lúc sống sáu trăm bốn mươi tuổi, lại suy nghĩ:
Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta
nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không
nói thêu dệt. Từ đó mọi người không nói thêu dệt và thọ mạng tăng lên
đến hai ngàn tuổi. Trong lúc sống hai ngàn tuổi, lại suy nghĩ: Chúng
ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu
thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không xan
tham. Từ đó mọi người không xan tham và thọ mạng tăng lên đến năm ngàn
tuổi. Trong lúc sống năm ngàn tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút
ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều
lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không tật đố, Từ tâm tu
thiện. Từ đó mọi người không tật đố, Từ tâm tu thiện và thọ mạng tăng
lên đến một vạn tuổi. Trong lúc sống một vạn tuổi, lại suy nghĩ: Chúng
ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu
thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên tu chánh
kiến, không sanh điên đảo. Từ đó mọi người tu chánh kiến, không sanh
điên đảo và thọ mạng tăng lên đến hai vạn tuổi. Trong lúc sống bốn vạn
tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng
lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành
gì? Ta nên hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng. Từ đó mọi người đều
hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng và thọ mạng tăng lên đến tám vạn
tuổi.
-
“Trong lúc nhân loại sống
tám vạn tuổi, con gái đến năm trăm tuổi mới gả chồng và có chín thứ
bệnh là lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện, tham dục, ham ăn
và già nua. Cõi đất lúc ấy bằng phẳng không có rạch hầm, gò nổng gai
góc, cũng không mòng muỗi, rắn rết, trùng độc. Ngói, đá, cát, gạch thì
biến thành lưu ly. Nhân dân sung túc, ngũ cốc rẻ thường, giàu vui
không xiết tả. Có tám vạn thành lớn được dựng lên, thôn thành san sát
gần nhau, gà gáy cùng nghe được.
-
“Vào thời kỳ ấy thì có Đức
Phật ra đời hiệu là Di-lặc Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười
hiệu đầy đủ như Đức Thích-ca Như Lai ngày nay không khác. Đức Di-lặc
kia tự mình tu chứng ngay ở giữa hàng chư Thiên, Đế Thích, Ma, Thiên
ma, Sa-môn, Bà-la-môn và Nhân gian, mà tự thân tác chứng, cũng như ta
ngày nay ở ngay giữa hàng chư Thiên, Đế Thích, Ma hoặc Thiên ma,
Sa-môn, Bà-la-môn và Nhân gian mà tự mình tác chứng vậy.
-
“Đức Di-lặc sẽ thuyết pháp,
khoảng đầu, giữa và cuối đều trọn lành, đầy đủ nghĩa vị, tịnh tu phạm
hạnh như ngày nay Ta thuyết pháp, khoảng đầu, giữa, cuối đều chân
chánh, nghĩa vị đầy đủ, phạm hạnh thanh tịnh vậy.
-
“Đức Di-lặc có chúng đệ tử
vô số ngàn vạn, như Ta ngày nay có đệ tử vài trăm. Nhân dân lúc ấy gọi
đệ tử Ngài là Từ tử như gọi đệ tử Ta nay là Thích tử.
-
“Lúc ấy, có vua tên là
Tương-già, là vua Sát-lỵ Chuyển luân thánh vương Chuyển luân thánh
vương quán đảnh, cai trị bốn châu thiên hạ. Vua lấy chánh pháp trị
dân, ai nấy đều mến phục. Vua có đủ bảy thứ báu là bánh xe vàng, voi
trắng, ngựa xanh, thần châu, ngọc nữ, cư sĩ, chủ binh và ngàn người
con dõng mãnh hùng nghị, đủ sức dẹp ngoại địch, được bốn phương kính
thuận, không cần binh đao mà thiên hạ thái bình.
-
“Vua thiết lập một Đại bảo
tràng vòng vây mười tầm, cao một ngàn tầm, được trang nghiêm với ngàn
sắc lẫn lộn. Bảo tràng có một trăm góc ;; mỗi góc có trăm nhánh, dệt
bằng chỉ báu, có các châu bảo xen lẫn. Sau khi lập bảo tràng để cúng
thí hàng Sa-môn, Bà-la-môn và người nghèo trong nước xong, vua cắt bỏ
râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, tập hạnh vô thượng, ngay
trong pháp hiện tại mà tự thân tác chứng, sanh tử dứt hết, phạm hạnh
thành tựu, việc làm hoàn mãn, không còn phải chịu thân sau nữa”.”
-
Phật dạy:
-
“Này các Tỳ-kheo! Các ngươi
hãy siêng tu các thiện hạnh. Nhờ tu thiện hạnh mà thọ mạng lâu dài,
nhan sắc thêm tươi, an ổn khoái lạc, tài bảo phong nhiêu, oai lực đầy
đủ, giống như các vua thuận làm theo cựu
-
pháp của Chuyển luân thánh
vương Chuyển luân thánh vương thời thọ mạng lâu dài, nhan sắc thêm
tươi, an ổn khoái lạc, tài bảo phong nhiêu, oai lực đầy đủ. Tỳ-kheo
cũng vậy, nên tu thiện pháp, thọ mạng lâu dài, nhan sắc thêm tươi, an
ổn khoái lạc, tài bảo phong phú, oai lực đầy đủ.
-
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo
được thọ mạng lâu dài? Tỳ-kheo tu tập dục định, tinh cần không giải
đãi, do thành tựu diệt hành mà tu thần thông.. Tu tập tinh tấn định, ý
định, tư duy định, tinh cần không giải đãi, do thành tựu diệt hành mà
tu thần thông. Như thế là Tỳ-kheo thọ mạng lâu dài.
-
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo
được nhan sắc thêm tươi? Ở đây, Tỳ-kheo có giới Cụ túc, thành tựu oai
nghi, thấy có tội nhỏ đã sanh lòng sợ lớn, học tập đầy đủ trong các
học giới, hoàn toàn không thiếu sót. Như thế là Tỳ-kheo nhan sắc thêm
tươi.
-
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo
được an ổn khoái lạc? Ở đây, Tỳ-kheo đoạn trừ dâm dục, xả bỏ pháp bất
thiện, có giác có quán, có hỷ lạc phát sanh do viễn ly, chứng đệ Nhất
thiền. Trừ diệt giác và quán, nội đẳng tịnh, tâm chuyên nhất, không
giác không quán, có hỷ lạc phát sanh do định, chứng đệ Nhị thiền. Lìa
hỷ, an trú xả, chuyên tâm không tán loạn, tự mình biết rõ cảm giác lạc
nơi thân, an trú nơi điều mà Hiền thánh nói là xả-niệm-lạc, chứng đệ
Tam thiền. Dứt khổ dứt lạc, ưu và hỷ đã loại trừ từ trước, không khổ
không lạc, xả và niệm thanh tịnh, chứng đệ Tứ thiền. Như thế là
Tỳ-kheo an ổn, khoái lạc.
-
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo
được tài bảo phong nhiêu? Ở đây, Tỳ-kheo lo tu tập Từ tâm, khắp một
phương, rồi đến các phương khác cũng vậy, bao trùm, rộng lớn, bình
đẳng vô lượng, trừ mọi oán kết, tâm không tật đố, tịch mặc từ nhu. Bi
tâm, Hỷ tâm, Xả tâm cũng như thế. Như thế là Tỳ-kheo được tài bảo
phong nhiêu.
-
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo
được oai lực đầy đủ? Ở đây, Tỳ-kheo hiểu biết một cách như thật về Khổ
đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. Như thế là Tỳ-kheo được oai lực đầy đủ.
Này các Tỳ-kheo! Nay Tta xem khắp những người có sức lực không ai hơn
ma lực, nhưng Tỳ-kheo đã đoạn trừ hết hoặc lậu, thì lại thắng được
chúng ma đó.
-
Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau
khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
|
|