|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
-
KINH TRƯỜNG
A HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật
Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
-
8. KINH TÁN-ĐÀ-NA
-
-
Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời, Phật ở tại động
cây Thất diệp, núi Tỳ-ha-la, thành La-duyệt-kỳ cùng chúng Đại Tỳ-kheo
một ngàn hai trăm năm mươi 1. 250 người.
-
Lúc đó, ở thành Vương xá có
một cư sĩ tên Tán-đà-na, tính ưa đi dạo, cứ ngày ngày ông ra khỏi
thành, đến chỗ Ðức Thế Tôn. Một hôm, ông xem bóng mặt trời rồi thầm
nghĩ: “Giờ này chưa phải lúc đến bái yết Phật. Giờ này Phật còn nhập
định tại tịnh thất và các Tỳ-kheo cũng đang thiền tịnh. Ta hãy đi đến
rừng của nữ Phạm chí Ô-tạm-bà-lỵ , chờ đúng giờ sẽ đến Phật để lễ bái
và gặp các Tỳ-kheo cung kính thăm viếng”.
-
Trong rừng của nữ Phạm chí
lúc đó có Phạm chí tên Ni-câu-đà cùng năm trăm đệ tử đang tụ tập một
chỗ, lớn tiếng bàn luận, suốt ngày chỉ nói những điều phù phiếm,
chướng đạo. Hoặc luận bàn quốc sự. Hoặc bàn việc đao binh chiến tranh.
Hoặc bàn việc quốc gia hòa nghĩa. Hoặc bàn việc đại thần, việc thứ
dân. Hoặc bàn chuyện xe ngựa, công viên, rừng. Hoặc bàn chuyện chiếu
giường, y phục, ăn uống, phụ nữ. Hoặc bàn việc núi biển, rùa trạnh.
Nghĩa là họ chỉ bàn những điều chướng ngại đạo như thế mà hết ngày.
-
Khi Phạm chí kia vừa xa
thấy bóng cư sĩ Tán-đà-na đi lại liền ra lệnh:
-
“Chúng ngươi hãy tĩnh lặng.
Vì sao vậy? Vì có đệ tử của Sa-môn Cù-đàm đang từ ngoài đến. Trong
hàng đệ tử bạch y của Sa-môn Cù-đàm, ông đó vào hạng trưởng thượng.
Ông ấy chắc đi đến đây. Các ngươi hãy im lặng”.
-
Các Phạm chí đều im lặng.
Cư sĩ Tán-đà-na đi đến chỗ Phạm chí, chào hỏi xong ngồi một bên và nói
với Phạm chí:
-
“Thầy tôi, Ðức Thế Tôn,
thường ưa nhàn tĩnh, chẳng ưa huyên náo. Không như các ông và đệ tử
các ông ưa ở giữa đám đông cao tiếng luận đàm. Nhưng chỉ toàn những
lời chướng đạo, vô ích”.”
-
Phạm chí nói loại:
-
“Sa-môn Cù-đàm có từng cùng
mọi người đàm luận không? Mọi người làm sao biết được Sa-môn có đại
trí tuệ? Thầy ngươi thường ưa ở chỗ biên địa. Cũng như con trâu đui ăn
cỏ, chỉ hài lòng với chỗ mà nó thấy. Thầy ngươi là Cù-đàm cũng thế. Cứ
ham điều độc kiến riêng nên mới ưa chỗ không người. Nếu thầy ngươi lại
đây, chúng ta sẽ kêu là trâu đui. Sa-môn Cù-đàm thường xưng là bậc đại
trí tuệ, nhưng ta chỉ cần một câu là đủ làm cho cùng bí mà phải im
lặng. Ví như con rùa thu hết mình vào vỏ cho thế là yên ổn rồi. Nhưng
ta chỉ cần một mũi tên là làm cho không chỗ tránh”.”
-
Lúc đó, Ðức Thế Tôn đang ở
tại tịnh thất, bằng thiên nhĩ, nghe câu chuyện giữa Phạm chí và cư sĩ
như thế, liền ra khỏi động Thất diệp, đi đến rừng nữ Phạm chí
Ô-tạm-bà-lỵ.
-
Khi Phạm chí vừa từ xa thấy
Phật đi lại, bảo các đệ tử:
-
“Các ngươi im lặng. Sa-môn
Cù-đàm đang muốn đến đây. Các ngươi chớ đứng dậy nghinh đón, cung kính
lễ bái, cũng đừng mời ngồi. Chỉ riêng một chỗ cho ông ta ngồi thôi.
Khi y ngồi xong các ngươi hãy hỏi: Sa-môn Cù-đàm, từ trước đến nay ông
dạy bảo đệ tử những pháp gì để họ được an ổn, tịch định, tịnh tu phạm
hạnh.”
-
Bấy giờ, Thế Tôn vừa đi đến
khu vườn, Phạm chí bất giác đứng dậy, nghinh đón Thế Tôn và nói rằng:
-
“Xin mời đến đây, Cù-đàm.
Xin mời đến đây, Sa-môn. Từ lâu không được gặp, nay có việc gì Ngài
đến đây? Xin mời ngồi tạm ở đàng trước”.”
-
Khi ấy, Ðức Thế Tôn ngồi
xuống, vui vẻ mỉm cười và thầm nghĩ: Các người ngu này không tự chủ
được. Trước đã đặt lệnh ước với nhau mà rốt cuộc không giữ toàn. Sở dĩ
vậy, là vì thần lực của Phật khiến ác tâm của chúng tự nhiên tiêu tan.
-
Cư sĩ Tán-đà-na đảnh lễ
chân Phật rồi ngồi một bên.
-
Phạm chí Ni-câu-đà chào hỏi
Phật xong cũng ngồi một bên và bạch Phật:
-
“Sa-môn Cù-đàm từ trước đến
nay dạy bảo hàng đệ tử những pháp gì khiến họ được tịch định an vui,
tịnh tu phạm hạnh?”
-
Phật nói:
-
“Hãy thôi Phạm chí. Pháp Ta
sâu rộng. Những điều mà từ trước đến nay Ta dạy các đệ tử được an vui,
tịnh tu phạm hạnh, không phải là những điều mà ông có thể theo kịp”.”
-
Rồi Phật lại nói với Phạm
chí:
-
“Dẫu đến cả đạo pháp mà
thầy của ông và các đệ tử của ông tu hành, tịnh hay bất tịnh, Ta cũng
nói được cả”.”
-
Lúc đó năm trăm đệ tử Phạm
chí này đều cất tiếng bảo nhau: “Sa-môn Cù-đàm có oai thế lớn, có thần
lực lớn thật. Người ta hỏi nghĩa lý mình, mình lại giảng trở lại nghĩa
lý của người ta!" Phạm chí bạch Phật:
-
“Lành thay Cù-đàm! Xin Ngài
phân biệt cho”.”
-
Phật bảo Phạm chí:
-
“Này Phạm chí, hãy lắng
nghe, hãy lắng nghe. Ta sẽ nói”.”
-
Phạm chí đáp:
-
“Rất vui lòng được nghe”.”
-
Phật nói:
-
“Những điều sở hành của ông
toàn là thấp hèn. Như việc, cởi bỏ y phục để trần truồng, hoặc lấy tay
che, hoặc không nhận đồ ăn đựng trong cái ghè, không nhận đồ ăn đựng
trong chậu, không nhận đồ ăn giữa hai bức vách, không nhận đồ ăn giữa
hai người, không nhận đồ ăn giữa hai con dao, không nhận đồ ăn giữa
hai cái chậu, không nhận đồ ăn từ gia đình đang ăn chung, không nhận
đồ ăn từ nhà có thai, không nhận đồ ăn từ nhà được thấy có chó đứng
trước cửa, không nhận đồ ăn từ nhà có nhiều ruồi, không nhận lời mời
ăn, không nhận đồ ăn từ người nói đã có biết từ trước, không ăn cá,
không ăn thịt, không uống rượu, không ăn với hai chén bát, một bữa ăn,
một lần nuốt cho đến bảy lần nuốt thì thôi, nhận thức ăn được thêm,
không quá bảy lần thêm, hoặc mỗi ngày ăn một bữa, hoặc hai ngày, ba
ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày ăn một bữa, hoặc chỉ ăn
rau, hoặc chỉ ăn cỏ lúa, hoặc chỉ uống nước cơm, hoặc chỉ ăn mè, hoặc
ăn gạo lứt, hoặc ăn phân bò, hoặc ăn phân nai, hoặc ăn rễ, nhánh lá,
trái, hột cây, hoặc ăn trái cây tự rụng, hoặc choàng áo, hoặc mặc áo
cỏ cú, hoặc mặc vỏ cây, hoặc lấy cỏ quấn mình, hoặc mặc da nai, hoặc
để đầu tóc, hoặc mang tấm lông bện, hoặc mặc áo vất ở gò mả, hoặc
thường đưa tay lên, hoặc không ngồi giường chiếu, hoặc thường ngồi
chồm hổỗm, hoặc cạo tóc chừa râu, hoặc nằm trên chông gai, hoặc nằm
trên dưa quả, hoặc lõa hình nằm trên phân bò, hoặc một ngày tắm ba
lần, hoặc một đêm tắm ba lần. Tóm lại là lấy vô số chuyện khổ cực hành
hạ xác thân. Ni-câu-đà, ý ngươi nghĩ sao? Tu những hạnh như thế, đáng
gọi là thanh tịnh pháp chăng"?”
-
Ni-câu-đà đáp:
-
“Pháp đó là tịnh, chớ
chẳẵng phải bất tịnh”.”
-
Phật nói:
-
“Ngươi bảo là tịnh, Ta sẽ
từ trong cái tịnh của ông đó chỉ ra điều cấu uế cho ông xem”.”
-
Ni-câu-đà nói: “Hay lắm,
Cù-đàm! Ngài cứ nói, tôi xin nghe”.
-
Phật nói:
-
“Những người kia trong khi
tu khổ hạnh mà tâm thường tính nghĩ rằng: Ta làm như thế này sẽ được
mọi người cúng dường, cung kính, lễ bái. Thế là cấu uế. Người tu khổ
hạnh kia khi được cúng dường rồi thì say đắm giữ chặt, ưa luyến không
rời, không biết xa lìa, không biết cách thoát ra. Thế là cấu uế. Người
tu khổ hạnh kia mà vừa trông thấy bóng ai đi đến, thì cùng nhau ngồi
thiền. Khi không ai thì mặc ý nằm ngồi. Thế là cấu uế. Người tu khổ
hạnh kia mà nếu nghe chánh nghĩa người khác, không chịu nhìn nhận. Thế
là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia nếu mà có ai hỏi ngay, tiếc lẫn không
chịu đáp. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia mà hễ thấy người nào
cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn thì la rầy, ngăn cản. Thế là cấu uế.
Người tu khổ hạnh kia nếu thấy Sa-môn, Bà-la-môn ăn vật có thể sinh
sản nữa liền đến chê trách. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia có
thức ăn bất tịnh, không chịu cho người khác mà tham ăn một mình, không
thấy lỗi lầm của mình, không biết con đường xuất ly. Thế là cấu uế.
Người tu khổ hạnh kia tự khen mình hay, chê bai người khác. Thế là cấu
uế. Người tu khổ hạnh kia mà giết, trộm, tà dâm, hai lưỡi, ác khẩu,
nói dối, nói thêu dệt, tham lam, tật đố, tà kiến điên đảo. Thế là cấu
uế. Người tu khổ hạnh kia mà lười biếng, lãng quên, không tập thiền,
không có trí tuệ, chẳng khác nào cầm thú. Thế là cấu uế. Người tu khổ
hạnh kia mà cống cao, kiêu mạn, mạn, tăng thưuợng mạn. Thế là cấu uế.
Người tu khổ hạnh kia mà không có tín nghĩa, lại không báo đáp, không
trì tịnh giới, không hay tinh cần chịu nghe người khuyên răn, thường
kết bạn xấu làm điều xấu ác không thôi. Thế là cấu uế. Người tu khổ
hạnh kia mà ôm nhiều sân hận, ưa làm xảo quyệt, cậy mình hiểu biết,
tìm tòi hay dở của người, thường chấp tà kiến, biên kiến. Thế là cấu
uế. Ni-câu-đà, ý ngươi nghĩ thế nào? Tu khổ hạnh như trên, đáng gọi là
thanh tịnh ư?
-
Ni-câu-đà đáp:
-
“Đó là bất tịnh chứ không
phải tịnh”.”
-
Phật nói: “Nay Ta từ trong
pháp cấu uế ấy của ông mà chỉ ra phần thanh tịnh, vô cấu cho ông
hiểu”.
-
Phạm chí nói: “Xin hãy
nói”.
-
Phật nói:
-
“Những người tu khổ hạnh
kia, nếu không tính nghĩ rằng ta tu như thế này sẽ được sự cúng dường
cung kính, lễ bái. Đó là pháp khổ hạnh không cấu uế. Người tu khổ hạnh
nếu được cúng dường tâm không tham đắm, hiểu biết xa lìa, rõ biết con
đường xuất ly. Đó là pháp khổ hạnh không cấu uế. Người tu khổ hạnh lo
tọa thiền thường lệ, không vì có người không người mà thay đổi. Đó là
pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh, nếu nghe ai nói chánh
nghĩa thì hoan hỷ tín nhận. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu
khổ hạnh nếu gặp ai hỏi ngay thì hoan hỷ đáp. Đó là pháp khổ hạnh
thanh tịnh. Người tu khổ hạnh hễ thấy ai cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn
thì hoan hỷ thay họ, chứ không la rầy ngăn cản. Đó là pháp khổ hạnh
thanh tịnh. Người tu khổ hạnh nếu thấy Sa-môn, Bà-la-môn ăn vật có thể
sanh lại, không tới chê bai. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu
khổ hạnh mà gặp món ăn bất tịnh, tâm không lẫn tiếc, gặp món ăn tịnh
tâm không say đắm, xét thấy lỗi mình, biết cách thoát ly. Đó là pháp
khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh không tự khen mình, không chê
kẻ khác. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh không sát,
không đạo, không dâm, không hai lưỡi, không ác khẩu, không nói dối,
không thêu dệt, không tham lam, không tật đố, không tà kiến. Đó là
pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh mà tinh cần không quên, ưa
tập thiền định, tu nhiều trí tuệ, chẳng ngu như thú. Đó là pháp khổ
hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh mà không cống cao, kiêu mạn, tự
đại. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh mà có lòng tín
nghĩa, tập hạnh báo bổ, giữ gìn tịnh giới, siêng năng học hỏi, thường
kết bạn với người lành, chứa điều lành mãi. Đó là pháp khổ hạnh thanh
tịnh. Người tu khổ hạnh mà không ôm lòng sân hận, không xảo ngụy,
không cậy mình biết, không tìm cái dở của người, không chấp chặt tà
kiến cũng không biên kiến. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Phạm chí
nghĩ thế nào? Pháp khổ hạnh như thế, đáng gọi là pháp thanh tịnh vô
cấu không?”
-
Ni-câu-đà đáp:
-
“Quả như vậy, quả thật là
pháp khổ hạnh thanh tịnh vô cấu”.”
-
Rồi Phạm chí hỏi Phật:
-
“Khổ hạnh đến chừng mực như
vậy đã được gọi là bậc nhất kiên cố chưa?”
-
Phật nói:
-
“Chưa! Đó mới là khổ hạnh
vỏ ngoài”..”
-
Ni-câu-đà thưa:
-
“Xin Phật cho biết cốt
lõi."?”
-
Phật nói:
-
“Ngươi hãy lắng nghe. Ta sẽ
nói cho”.”
-
Phạm chí thưa:
-
“Vâng. Bạch Thế Tôn, tôi
mong muốn được nghe”.”
-
Phật nói:
-
“Này Phạm chí! Người tu khổ
hạnh mà tự mình không giết, không dạy người giết, tự mình không trộm
cắp, không dạy người trộm cắp, tự mình không tà dâm, không dạy người
tà dâm, tự mình không nói dối, không dạy người nói dối. Người ấy đem
tâm Từ rải khắp một phương, rồi các phương khác cũng vậy, Từ tâm quảng
đại, bình đẳng vô lượng, khắp cả thế gian, không chút oán kết. Bi tâm,
Hỷ tâm, Xả tâm cũng như thế. Chính đó mới là pháp khổ hạnh thuộc cốt
lõi”.”
-
Phạm chí bạch Phật:
-
“Xin Ngài dạy cho cái nghĩa
khổ hạnh kiên cố”.”
-
Phật nói:
-
“Này Phạm chí, hãy lắng
nghe, hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho”.”
-
Phạm chí đáp:
-
“Thưa vâng. Bạch Thế Tôn,
tôi mong muốn được nghe”.”
-
Phật nói:
-
“Này Phạm chí, người tu khổ
hạnh mà tự mình không giết còn dạy người không giết, tự mình không
trộm cắp còn dạy người không trộm cắp, tự mình không tà dâm còn dạy
người không tà dâm, tự mình không nói dối còn dạy người không nói dối.
Người ấy đem Từ tâm rải khắp một phương, rồi các phương khác cũng vậy,
Từ tâm quảng đại, bình đẳng vô lượng, khắp cả thế gian, không chút oán
kiết. Bi tâm, Hỷ tâm, Xả tâm cũng như thế. Người khổ hạnh kia lại có
thể biết được việc xảy ra vô số kiếp trước, hoặc một đời, hai đời cho
đến vô số đời, quốc độ thành hoại hay kiếp số trước sau, đều thấy đều
biết cả. Lại còn thấy biết mình từng sanh vào chủng tộc đó, tên tuổi
như thế, ăn uống như thế, sống lâu như thế, chịu khổ chịu vui như thế,
từ kia sanh đây, từ đây sanh kia như thế. Những việc từ vô số kiếp như
thế đều nhớ cả. Ầấy gọi là khổ hạnh kiên cố không hoại của Phạm chí”.”
-
Phạm chí bạch Phật:
-
“Còn thế nào gọi là khổ
hạnh bậc nhất?”.
-
Phật nói:
-
“Này Phạm chí, hãy lắng
nghe, hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho”.”
-
Phạm chí đáp:
-
“Thưa vâng. Bạch Thế Tôn,
tôi mong muốn được nghe”.”
-
Phật nói:
-
“Này Phạm chí, những người
tu khổ hạnh mà tự mình không giết còn dạy người không giết, tự mình
không trộm cắp còn dạy người không trộm cắp, tự mình không tà dâm còn
dạy người không tà dâm, tự mình không nói dối còn dạy người không nói
dối. Người ấy đem Từ tâm rải khắp một phương, các phương khác cũng
vậy, Từ tâm rộng lớn, trùm khắp, vô nhị vô lượng, không có kết hận,
cùng khắp thế gian. Bi, Hỷ và Xả tâm cũng như vậy.
-
“Người khổ hạnh ấy tự biết
sự việc vô số kiếp quá khứ về trước, một đời, hai đời, cho đến vô số
đời, quốc độ, thành hobại, kiếp số chung thủy, thảy đều thấy hết biết
hết. Lại tự mình thấy biết: Ta đã từng sanh vào chủng tánh kia, tên họ
như vậy, ăn uống, thọ mạng như vậy, cảm nghiệm khổ lạc như vậy, từ đây
sanh kia, từ kia sanh đây. Như thế, nhớ hết sự việc vô số kiếp. Vị ấy
bằng thiên nhãn thanh tịnh xem xét các loài chúng sanh chết đây sanh
kia, nhan sắc đẹp xấu, chỗ hướng đến tốt hay xấu, tùy theo hành vi mà
bị đọa lạc; thảy đều thấy hết biết hết.
-
“Lại biết chúng sanh với
thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện, ý hành bất thiện, phỉ báng
Hiền thánh, tà tín điên đảo, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đọa vào
ba đường dữ. Hoặc có chúng sanh với thân hành thiện, khẩu hành thiện,
ý hành thiện, không phỉ báng Hiền thánh, tu hạnh chánh tín, khi thân
hoại mệnh chung được sinh vào cõi trời cõi người. Bằng thiên nhãn
thanh tịnh xem thấy các chúng sanh có hành vi nào sinh tới chỗ nào,
đều thấy biết hết. Đó gọi là khổ hạnh thù thắng bậc nhất”.”
-
Phật lại nói với Phạm chí:
-
“Này Phạm chí, ở trong pháp
này lại có pháp thù thắng hơn nữa mà Ta thường đem dạy cho hàng Thanh
văn. Họ nhờ pháp đó tu được phạm hạnh”.”
-
Bấy giờ năm trăm đệ tử Phạm
chí lớn tiếng bảo nhau:
-
“Nay chúng ta mới thấy Ðức
Thế Tôn là Bậc Tối Thượng, thầy ta không bằng”.”
-
Rồi cư sĩ Tán-đà-na nói với
Phạm chí:
-
“Lúc nãy ông nói nếu gặp
Cù-đàm đến thì chúng ta gọi là trâu đui. Nay Ðức Thế Tôn đến sao ông
không gọi. Lúc nãy ông nói chỉ cần một câu là đủ làm cho Cù-đàm cùng
bí phải làm thinh. Như con rùa thu cả vào vỏ cho thế là yên ổn, ta chỉ
cần một mũi tên là không chỗ trốn, sao nay ông không đem một câu làm
cùng bí Như Lai?”
-
Phật hỏi Phạm chí:
-
“Thật ngươi có nói lời đó
chăng?”
-
Đáp: “Thưa có”.
-
Phật nói với Phạm chí:
-
“Ngươi há không nghe các vị
tiên túc Phạm chí nói: chư Phật Như Lai ưa ở chỗ núi rừng nhàn tịnh,
như Ta ngày nay ưa chỗ nhàn tĩnh, chẳng phải như pháp của các ông chỉ
ưa chỗ huyên náo, nói chuyện vô ích suốt ngày ư?”
-
Phạm chí nói:
-
“Tôi có nghe chư Phật quá
khứ ưa chỗ nhàn tĩnh, một mình sống ở núi rừng, như Thế Tôn ngày nay.
Không như pháp chúng tôi ưa chỗ huyên náo, nói những chuyện vô ích để
cho hết ngày”.”
-
Phật nói:
-
“Ngươi há không suy nghĩ
rằng, Sa-môn Cù-đàm có thể thuyết Bồ-đề, có thể tự điều phục mình và
cũng có thể điều phục người khác; có thể tự tịch tịnh và có thể khiến
người khác tịch tịnh; có thể tự mình qua bờ bên kia và đưa người khác
sang bờ bên kia; tự mình giải thoát và có thể khiến người khác giải
thoát; có thể tự mình diệt độ và có thể khiến người khác được diệt
độ?”
-
Lúc bấy giờ, Phạm chí bèn
rời chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt làm lễ, hai tay sờ bàn chân Phật, tự
xưng tên mình, nói rằng:
-
“Con là Phạm chí Ni-câu-đà.
Con là Phạm chí Ni-câu-đà. Nay tự mình quy y, làm lễ dưới chân Thế
Tôn”.”
-
Phật nói với Phạm chí:
-
“Thôi đủ rồi, hãy dừng lại.
Miễn sao tâm ngươi tỏ rõ, đó là kính lễ”.”
-
Phạm chí lại lễ dưới chân
Phật một lần nữa, rồi ngồi xuống một bên. Phật bảo Phạm chí:
-
“Ngươi sẽ chẳng nói rằng
Phật vì lợi dưỡng mà thuyết pháp chăng? Chớ móng tâm như thế. Nếu có
sự lợi dưỡng nào, Ta cũng cho ngươi hết. Pháp được Ta nói, là vi diệu
đệ nhất, để diệt trừ bất thiện, tăng trưởng thiện pháp”.”
-
Rồi Phật lại bảo Phạm chí:
-
“Ngươi sẽ chẳng nói rằng
Phật vì tiếng tăm mà thuyết pháp chăng? Vì để được tôn trọng, vì để
đứng đầu, vì để có những người tùy thuộc, ví để có chúng đông, mà
thuyết pháp chăng? Chớ móng khởi tâm ấy. Nay những người tùyuỳ thuộc
ngươi vẫn là tùyuỳ thuộc của ngươi. Pháp mà Ta nói là để diệt trừ bất
thiện, tăng trưởng thiện pháp.”
-
Rồi Phật lại bảo Phạm chí:
-
“Ngươi sẽ không nói rằng
Phật đặt ngươi vào trong tụ bất thiện, tụ tối tăm chăng? Chớ nghĩ như
vậy. Các tụ bất thiện và các tụ tối tăm, ngươi hãy loại bỏ đi. Ta vì
ngươi mà nói pháp thiện tịnh”.”
-
Lại bảo Phạm chí:
-
“Ngươi sẽ không nghĩ rằng
Phật truất ngươi ra khỏi tụ thiện pháp, tụ thanh bạch chăng? Chớ nghĩ
như vậy. Ngươi cứ ở trong tụ thiện pháp, tụ thanh bạch mà tinh cần tu
hành. Ta vì ngươi mà nói tụ thiện tịnh, tụ thanh bạch, diệt trừ hành
vi bất thiện, tăng thêm thiện pháp”.”
-
Bấy giờ năm trăm đệ tử Phạm
chí đều đoan tâm chánh ý nghe Phật thuyết pháp.
-
Thấy vậy, Ma Ba-tuần nghĩ
rằng: “Năm trăm đệ tử Phạm chí đang đem tâm ý đoan chính nghe theo
Phật pháp có lẽ ta phải đến phá tâm ý đó đi”. Rồi ác ma liền đem sức
phá hoại thiện ý của năm trăm đệ tử ấy.
-
Phật bảo với cư sĩ
Tán-đà-na:
-
“Năm trăm đệ tử Phạm chí
này đoan tâm chánh ý nghe Ta nói pháp. Thiên ma Ba-tuần đã phá hoại ý
ấy. Ta muốn trở về, ngươi hãy cùng đi với Ta”.”
-
Phật liền lấy tay mặt dẫn
cư sĩ Tán-đà-na đặt trong bàn tay, rồi nương hư không mà trở về.
-
Cư sĩ Tán-đà-na, Phạm chí
Ni-câu-đà và năm trăm đệ tử, sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ
phụng hành.
|
|