|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
-
KINH TRƯỜNG
A HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật
Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
- PHẦN II
-
-
12. KINH TAM TỤ
-
-
Tôi
nghe như vầy.
-
Một thời, Phật ở tại nước
Xá-vệ, rừng Kỳ thọ, vườn Cấp cô độc, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một
ngàn hai trăm năm mươi người.
-
Bấy giờ, Thế Tôn nói với
các Tỳ-kheo:
-
“Này các Tỳ-kheo, Ta sẽ nói
cho các ngươi nghe pháp vi diệu, có nghĩa, có vị, thanh tịnh, đầy đủ
phạm hạnh. Đó là pháp ba tụ. Các ngươi hãy lắng nghe, hãy suy nghĩ kỹ.
Ta sẽ nói”.”
-
Các Tỳ-kheo vâng lời Phật
dạy, chú ý lắng nghe.
-
Phật nói:
-
“Tỳ-kheo, pháp ba tụ ấy là:
một pháp dẫn đến ác thú; một pháp dẫn đến thiện thú; một pháp dẫn đến
Niết-bàn.
-
“Thế nào là một pháp dẫn
đến ác thú? Không có nhân từ, ôm lòng độc hại. Đó là một pháp dẫn đến
ác thú.
-
“Thế nào là một pháp dẫn
đến thiện thú? Không đem ác tâm gia hại chúng sanh. Đó là một pháp dẫn
đến thiện thú.
-
“Thế nào là một pháp dẫn
đến Niết-bàn? Thường tinh cần tu niệm xứ về thân. Đó là một pháp dẫn
đến Niết-bàn.
-
“Lại có hai pháp thú hướng
ác thú. Lại có hai pháp thú hướng thiện thú. Lại có hai pháp thú hướng
Niết-bàn.
-
“Thế nào là hai pháp dẫn
đến ác thú? Hủy giới và phá kiến.
-
“Thế nào là hai pháp dẫn
đến thiện thú? Có đủ giới và có đủ kiến.
-
“Thế nào là hai pháp dẫn
đến Niết-bàn? Là chỉ và quán.
-
“Lại có ba pháp thú hướng
ác thú; ba pháp thú hướng thiện thú; ba pháp thú hướng Niết-bàn.,
-
“Thế nào là ba pháp hướng
đến ác thú? Ba bất thiện căn: tham bất thiện căn, nhuế bất thiện căn,
si bất thiện căn.
-
“Thế nào là ba pháp dẫn đến
thiện thú? Ba thiện căn: vô tham thiện căn, vô nhuế thiện căn,. vVô si
thiện căn.
-
“Thế nào là ba pháp dẫn đến
Niết-bàn? Ba tam muộitam-muội: Không tam muội tam-muội, Vô tướng tam
muộitam-muội, Vô tác tam muộitam-muội.
-
“Lại có bốn pháp dẫn đến ác
thú; bốn pháp dẫn đến thiện thú; bốn pháp thú hướng Niết-bàn.
-
“Thế nào là bốn pháp thú
hướng ác thú? Lời nói thiên vị, lời nói thù hận, lời nói sợ hãi, lời
nói ngu si.
-
“Thế nào là bốn pháp dẫn
đến thiện thú? Lời nói không thiên vị, lời nói không thù hận, lờòi nói
không sợ hãi, lời nói không ngu si.
-
“Thế nào là bốn pháp dẫn
đến Niết-bàn? Bốn niệm xứ: thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ,
pháp niệm xứ.
-
“Lại có năm pháp dẫn đến ác
thú; năm pháp dẫn đến thiện thú; năm pháp dẫn đến Niết-bàn.
-
“Thế nào là năm pháp dẫn
đến ác thú? Phá năm giới: giết, trộm, dâm dật, nói dối, uống rượu.
-
“Thế nào là năm pháp dẫn
đến thiện thú? Thọ trì năm giới: không giết, không trộm, không dâm
dật, không dối, không uống rượu.
-
“Thế nào là năm pháp dẫn
đến Niết-bàn? Năm căn: tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ
căn.
-
“Lại có sáu pháp dẫn đến ác
thú; sáu pháp dẫn đến thiện thú; sáu pháp thú hướng Niết-bàn.?
-
“Thế nào là sáu pháp dẫn
đến ác thú? Sáu bất kính: không kính Phật, không kính Pháp, không kính
Tăng, không kính giới, không kính định, không kính cha mẹ.
-
“Thế nào là sáu pháp dẫn
đến thiện thú? Kính Phật, kính Pháp, kính Tăng, kính giới, kính định,
kính cha mẹ.
-
“Thế nào là sáu pháp dẫn
đến Niết-bàn? Sáu tư niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí,
niệm giới, niệm thiên.
-
“Lại có bảy pháp dẫn đến ác
thú; bảy pháp dẫn đến thiện thú; bảy pháp dẫn đến Niết-bàn.
-
“Thế nào là bảy pháp dẫn
đến ác thú? Giết, trộm, dâm dật, nói dối, nói hai lưỡi, ác khẩu, nói
thêu dệt.
-
“Thế nào là bảy pháp dẫn
đến thiện thú? Không giết, không trộm, không dâm dật, không nói dối,
không nói hai lưỡi, không ác khẩu, không nói thêu dệt.
-
“Thế nào là bảy pháp dẫn
đến Niết-bàn? Bảy giác ý: niệm giác ý, trạch pháp giác ý, tinh tấn
giác ý, khinh an giác ý, định giác ý, hỷ giác ý, xả giác ý.
-
“Lại có tám pháp dẫn đến ác
thú; tám pháp dẫn đến thiện thú; tám pháp dẫn đến Niết-bàn.
-
“Thế nào là tám pháp dẫn
đến ác thú? Tám tà hạnh: tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà
mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.
-
“Thế nào là tám pháp dẫn
đến thiện thú? Thế gian chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
-
“Thế nào là tám pháp dẫn
đến Niết-bàn? Tám hiền thánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
-
“Lại có chín pháp dẫn đến
ác thú; chín pháp dẫn đến thiện thú; chín pháp dẫn đến Niết-bàn.
-
“Thế nào là chín pháp dẫn
đến ác thú? Chín ưu não: Có người xâm não ta; nó đã xâm não, đang xâm
não, sẽ xâm não. Có người xâm não cái ta yêu; nó đã xâm não, đang xâm
não, sẽ xâm não. Có người yêu kính cái ta ghét; nó đã yêu kính, đang
yêu kính, sẽ yêu kính.
-
“Thế nào là chín pháp dẫn
đến thiện thú? Có người xâm não ta, ích gì mà ta sanh não; đã không
sanh não, đang không sanh não, sẽ không sanh não. Có người xâm não cái
ta yêu, ích gì ta sanh não; đã không sanh não, đang không sanh não, sẽ
không sanh não. Có người yêu kính cái ta ghét, ích gì ta sanh não; đã
không sanh não, đang không sanh não, sẽ không sanh não.
-
“Thế nào là chín pháp dẫn
đến Niết-bàn? Chín thiện pháp: Hỷ, Ái, Duyệt, Lạc, Định, Thật tri, Trừ
xả, Vô dục, Giải thoát.
-
“Lại có mười pháp dẫn đến
ác thú; mười pháp dẫn đến thiện thú; mười pháp dẫn đến Niết-bàn.
-
“Thế nào là mười pháp dẫn
đến ác thú? Mười bất thiện: thân với giết, trộm, tà dâm; khẩu với nói
dối, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt; ý với tham lam, tật đố, tà kiến.
-
“Thế nào là mười pháp dẫn
đến thiện thú? Mười thiện hành: thân với không giết, không trộm, không
tà dâm; khẩu với không nói dối, không hai lưỡi, không ác khẩu, không
thêu dệt; ý với không tham lam, không tật đố, không tà kiến.
-
“Thế nào là mười pháp dẫn
đến Niết-bàn? Mười trực đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định,
chánh giải thoát, chánh trí.
-
“Này các Tỳ-kheo, mười pháp
như vậy đưa đến Niết-bàn. Đó là chánh pháp vi diệu gồm ba tụ. Ta, Như
Lai, đã làm đầy đủ những điều cần làm cho đệ tử, vì nghĩ đến các ngươi
nên chi bày lối đi. Các ngươi cũng phải tự lo cho thân mình, hãy ở nơi
thanh vắng, dưới gốc cây mà tư duy, chớ lười biếng. Nay không gắng
sức, sau hối không ích gì”.”
-
Các Tỳ-kheo sau khi nghe
những lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
|
|