|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
-
KINH TRƯỜNG
A HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật
Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
- PHẦN II
-
-
13. ĐẠI DUYÊN PHƯƠNG TIỆN
-
-
Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời gian Phật ở tại
nước Câu-lưu-sa, trú xứ Kiếp-ma-sa, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một
ngàn hai trăm năm mươi 1. 250 người.
-
Bấy giờ, A-nan ở tại chỗ
thanh vắng suy nghĩ: “Kỳ diệu thay! Hy hữu thay! Ánh sáng của mười hai
nhân duyên mà ĐÐức Thế Tôn đã dạy thật là sâu xa, khó hiểu! Nhưng theo
ý ta quán xét thì như thấy ở trước mắt, có gì mà gọi là sâu xa?”
-
Rồi thì, A-nan liền rời
khỏi tịnh thất đi đến chỗ Phật; đầu mặt lễ chân Phật, rồi ngồi sang
một bên, bạch Thế Tôn rằng:
-
“Vừa rồi, ở nơi tịnh thất,
con tự thầm nghĩ: Kỳ diệu thay! Hy hữu thay! Ánh sáng của mười hai
nhân duyên mà Ðức Thế Tôn đã dạy thật là sâu xa, khó hiểu! Nhưng theo
ý con quán xét thì như thấy ở trước mắt, có gì mà gọi là sâu xa?”
-
Bấy giờ, Phật bảo A-nan:
-
“Thôi, thôi, A-nan! Chớ nói
như vậy. Ánh sáng của mười hai nhân duyên rất sâu xa, khó hiểu. Mười
hai nhân duyên này khó thấy, khó biết. Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn,
Bà-la-môn, những người chưa thấy duyên, nếu muốn tư lương, quán sát,
phân biệt nghĩa lý của nó, đều bị hoang mê không thể thấy nổi.
-
“Này A-nan, nay Ta nói với
ngươi: Già chết có duyên. Nếu có người hỏi: Cái gì là duyên của già
chết? Hãy trả lời người ấy: Sanh là duyên của già chết. Nếu lại hỏi:
Cái gì là duyên của sanh. Hãy trả lời: Hữu là duyên của sanh. Nếu lại
hỏi: Cái gì là duyên của hữu? Hãy trả lời: Thủ là duyên của hữu. Nếu
lại hỏi: Cái gì là duyên của thủ? Hãy trả lời: Ái là duyên của thủ.
Nếu lại hỏi: Cái gì là duyên của ái? Hãy trả lời: “Thọ là duyên của
ái. Nếu lại hỏi: “Cái gì là duyên của thọ? Hãy trả lời: Xúc là duyên
của thọ. “Nếu lại hỏi: “Cái gì là duyên của xúc? Hãy trả lời: Lục nhập
là duyên của xúc. Nếu lại hỏi: “Cái gì là duyên của lục nhập? Hãy trả
lời: “Danh sắc là duyên của lục nhập. Nếu lại hỏi: Cái gì là duyên của
danh sắc? Hãy trả lời: “Thức là duyên của danh sắc.. “Nếu lại hỏi:
“Cái gì là duyên của thức? Hãy trả lời: “Hành là duyên của thức.. Nếu
lại hỏi: “Cái gì là duyên của hành? Hãy trả lời: Vô minh là duyên của
hành.
-
“Này A-nan, như vậy duyên
vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên
danh sắc có lục nhập, duyên lục nhập có xúc, duyên xúc có thọ, duyên
thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên
sanh có già chết, lo, rầu, khổ não, tập thành một khối đại hoạn. Đó là
duyên của cái đại khổ ấm vậy.
-
“Này A-nan, duyên sanh có
già chết: điều này có ý nghĩa gì? Giả sử hết thảy chúng sanh không có
sanh, thì có già chết không?”
-
“A-nan đáp: “Không”.
-
“Vậy nên, A-nan, Ta do lẽ
đó, biết già chết do sanh, duyên sanh có già chết, nghĩa của Ta nói
thế đó.
-
“Lại nữa, này A-nan, duyên
hữu mà có sanh là nghĩa thế nào? Giả sử hết thảy chúng sanh không có
dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu, thế thì có sanh không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan, Ta do lẽ đó,
biết sanh do hữu, duyên hữu có sanh. Điều mà Ta nói, ý nghĩa là ở đó.
-
“Lại nữa, này A-nan, duyên
thủ mà có hữu là nghĩa thế nào? Giả sử hết thảy chúng sanh không có
dục thủ, kiến thủ, giới thủ, ngã thủ, thế thì có hữu không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan, Ta do lẽ đó,
biết hữu do thủ, duyên thủ có hữu. Nghĩa của Ta nói tại đó.
-
“Lại nữa, này A-nan, duyên
ái mà có thủ là nghĩa thế nào? Giả sử hết thảy chúng sanh không có dục
ái, hữu ái, vô hữu ái, thế thì có thủ không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan, Ta do lẽ đó,
biết thủ do ái, duyên ái có thủ. Nghĩa của Ta nói tại đó.
-
“Lại nữa, này A-nan, duyên
thọ mà có ái, là nghĩa thế nào? Giả sử hết thảy chúng sanh không có
cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ không lạc không khổ, thế thì có ái
không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan, Ta do lẽ đó,
biết ái do thọ, duyên thọ có ái. Nghĩa của Ta nói tại đó.
-
“A-nan, nên biết, nhân tham
ái mà có tìm cầu, nhân tìm cầu mà đắc lợi, nhân đắc lợi mà thọ dụng,
nhân thọ dụng mà tham muốn, nhân tham muốn mà đắm trước, nhân đắm
trước mà tật đố, nhân tật đố mà quản thủ, nhân quản thủ mà bảo hộ. Này
A-nan! Do bảo hộ nên mới có dao gậy, tranh cãi, gây vô số điều ác.
Nghĩa của ta nói là ở đó. Này A-nan! Nghĩa đó thế nào? Giả sử hết thảy
chúng sanh không bảo hộ thế thì có dao gậy, tranh cãi, gây ra vô số ác
không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan, Ta do lẽ đó,
biết dao gậy, tranh cãi là do tâm bảo hộ, nhân tâm bảo hộ mà sinh ra.
Nghĩa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan, nhân quản thủ mà có bảo hộ là
nghĩa thế nào? Giả sử chúng sanh không tâm quản thủ thế thì có bảo hộ
không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan! Ta do lẽ đó,
biết có bảo hộ là do quản thủ; nhân quản thủ mà có sự bảo hộ. Nghĩa
của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân tật đố có quản thủ là nghĩa
thế nào? Giả sử chúng sanh không tâm tật đố thế thì có quản thủ
không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan! Ta do lẽ đó,
biết quản thủ do tật đố; nhân tật đố mà có quản thủ. Nghĩa của ta nói
là ở đó. Lại này A-nan! Nhân đắm trước mà có tật đố là nghĩa thế nào?
Giả sử chúng sanh không đắm trước thế thì có tật đố không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan! Ta do lẽ đó,
biết tật đố do đắm trước; nhân đắm trước mà có tật đố. Nghĩa của Ta
nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân ham muốn mà có đắm trước là nghĩa thế
nào? Giả sử chúng sanh không ham muốn thế thì có đắm trước không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan! Ta do lẽ đó,
biết đắm trước do ham muốn; nhân ham muốn mà có đắm trước. Nghĩa của
Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân thọ dụng mà có ham muốn là nghĩa
thế nào? Giả sử chúng sanh không thọ dụng thế thì có ham muốn không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan! Ta do lẽ đó,
biết ham muốn do thọ dụng; nhân thọ dụng mà có ham muốn. Nghĩa của Ta
nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân đắc lợi mà có thọ dụng là nghĩa thế
nào? Giả sử chúng sanh không đắc lợi thế thì có thọ dụng không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan! Ta do lẽ đó,
biết thọ dụng do đắc lợi; nhân đắc lợi mà có thọ dụng. Nghĩa của Ta
nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân tìm cầu mà có đắc lợi là nghĩa thế
nào? Giả sử chúng sanh không tìm cầu thế thì có đắc lợi không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan! Ta do lẽ đó,
biết đắc lợi do tìm cầu; nhân tìm cầu mà có đắc lợi. Nghĩa của Ta nói
là ở đó. Lại này A-nan! Nhân tham ái mà có tìm cầu là nghĩa thế nào?
Giả sử chúng sanh không tham ái thế thì có tìm cầu không?
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan! Ta do lẽ đó,
biết tìm cầu do tham ái; nhân tham ái mà có tìm cầu. Điều mà Ta nói, ý
nghĩa là ở đó”.”
-
Lại bảo A-nan:
-
“Nhân tham ái mà có tìm
cầu, cho đến có thủ hộ. Thọ cũng vậy. Nhân thọ có tìm cầu, cho đến thủ
hộ”.”
-
Phật lại bảo A-nan:
-
“Duyên xúc mà có thọ, là
nghĩa thế nào? Giả sử không có con mắt, không có sắc, không có thức
con mắt, thế thì có xúc không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Nếu không có tai, không có
tiếng, không có thức của tai; không có mũi, không có hương, không có
thức của mũi; không có lưỡi, không có vị, không có thức của lưỡi;
không có thân, xúc, thức của thân; không có ý, pháp, ý thức, thế thì
có xúc không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan! Giả sử chúng
sanh không có xúc, thế thì có thọ không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“A-nan, Ta do nghĩa đó,
biết thọ do xúc; duyên xúc mà có thọ. Điều mà Ta nói, ý nghĩa là ở đó.
-
“Này A-nan! Duyên danh sắc
mà có xúc, là nghĩa thế nào? Giả sử chúng sanh không có danh sắc, thế
thì có tâm xúc không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Nếu chúng sanh không có
hình sắc, tướng mạo, thế thì có thân xúc không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Nếu không có danh sắc, thế
thì có xúc không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“A-nan, Ta do lẽ đó, biết
xúc do danh sắc; duyên danh sắc mà có xúc. Điều mà Ta nói, ý nghĩa là
ở đó.
-
“Này A-nan, duyên thức mà
có danh sắc, là nghĩa thế nào? Nếu thức không nhập thai mẹ thì có danh
sắc không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Nếu thức nhập thai mẹ rồi
không sinh ra, thế thì có danh sắc không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Nếu thức ra khỏi thai mẹ
mà đứa hài nhi bị hỏng thì danh sắc có được tăng trưởng không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“A-nan, nếu không có thức,
thế thì có danh sắc không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“A-nan, Ta do lẽ đó, biết
danh sắc do thức; duyên thức mà có danh sắc. Nghĩa của ta nói là ở đó.
-
“A-nan, duyên danh sắc có
thức là nghĩa thế nào? Nếu thức không trụ nơi danh sắc thời thức không
có trú xứ. Nếu thức không có trú xứ, thế thì có sanh, già, bệnh, chết,
ưu bi khổ não không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“Này A-nan, nếu không danh
sắc thì có thức không?”
-
Đáp: “Không”.
-
“A-nan, Ta do lẽ đó, biết
thức do danh sắc; duyên danh sắc mà có thức. Nghĩa của Ta nói là ở đó.
Vậy nên, danh sắc duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục
nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ,
thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già chết, ưu bi khổ não, tập
thành một đại khổ ấm.
-
“Này A-nan, trong giới hạn
ấy là ngôn ngữ, trong giới hạn ấy là sự thích ứng, trong giới hạn ấy
là hạn lượng, trong giới hạn ấy là sự phô diễn, trong giới hạn ấy là
trí quán, trong giới hạn ấy là chúng sanh.
-
“Này A-nan, các Tỳ-kheo nào
ở trong pháp này mà như thật chánh quán, với tâm giải thoát vô lậu,
Tỳ-kheo ấy được gọi là tuệ giải thoát. Đối với Tỳ-kheo giải thoát như
vậy, Như Lai chung tuyệt cũng được biết, Như Lai không chung tuyệt
cũng được biết, Như Lai vừa chung tuyệt vừa không chung tuyệt cũng
được biết, Như Lai chẳng phải chung tuyệt chẳng phải không chung tuyệt
cũng được biết. Vì sao? Này A-nan, trong giới hạn ấy là ngôn ngữ,
trong giới hạn ấy là sự thích ứng, trong giới hạn ấy là hạn lượng,
trong giới hạn ấy là sự phô diễn, trong giới hạn ấy là trí quán, trong
giới hạn ấy là chúng sanh. Sau khi đã hiểu biết tận cùng, Tỳ-kheo với
tâm giải thoát vô lậu không biết không thấy tri kiến như vậy.
-
“Này A-nan, đối với những
người chấp ngã, cho đến mức nào thì được gọi là ngã kiến? Danh sắc và
thọ đều được chấp là ngã.
-
“Có người nói, thọ không
phải ngã; ngã là thọ. Có người nói, thọ không phải ngã, ngã không phải
thọ; nhưng thọ pháp là ngã. Có người nói, thọ không phải ngã, ngã
không phải thọ, thọ pháp không phải ngã; nhưng thọ là ngã..
-
“Này A-nan, đối với người
thấy có ngã, nói rằng thọ là ngã”, hãy nói với người ấỵ: Như Lai nói
có ba thọ là cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ không lạc không khổ.
Trong lúc hiện hữu thọ lạc thì không có thọ khổ, thọ không lạc không
khổ. Trong khi hiện hữu thọ khổ thì không có thọ lạc, thọ không lạc
không khổ. Trong lúc hiện hữu thọ không lạc không khổ thì không có thọ
lạc, thọ khổ. Sở dĩ như vậy, A-nan, là vì do duyên là cảm xúc lạc mà
phát sanh thọ lạc. Nếu cảm xúc lạc diệt mất, thì cảm thọ lạc cũng diệt
mất. A-nan, do duyên là cảm xúc khổ mà phát sinh cảm thọ khổ. Nếu cảm
xúc khổ diệt mất thì cảm thọ khổ cũng diệt mất. Này A-nan, do duyên là
cảm xúc không lạc không khổ mà phát sanh thọ không lạc không khổ. Nếu
cảm xúc không lạc không khổ diệt mất thì cảm thọ không lạc không khổ
cũng diệt mất. A-nan, ví như hai khúc cây cọ lại với nhau thì lửa bật
ra, hai khúc cây rời nhau thì lửa không có. Ở đây cũng vậy, nhân bởi
duyên là cảm xúc lạc mà cảm thọ lạc phát sanh; nếu cảm xúc lạc diệt
thì cảm thọ cũng đồng thời diệt. Nhân bởi duyên là cảm xúc khổ mà cảm
thọ khổ phát sanh; nếu cảm xúc khổ diệt thì thọ cũng đồng thời diệt.
Nhân bởi duyên là cảm xúc không lạc không khổ mà cảm thọ không lạc
không khổ phát sanh; nếu cảm xúc không lạc không khổ diệt thì thọ cũng
đồng thời diệt. Này A-nan! Ba thọ đó là hữu vi, vô thường, do nhân
duyên sanh, là pháp phải tận, phải diệt, là pháp hủ hoại, nó chẳng
phải sở hữu của ngã; ngã không phải là sở hữu của nó. Hãy chánh quán
điều đó một cách như thật với chánh trí. A-nan, ai thấy có ngã, cho
rằng thọ là ngã, người ấy sai lầm.
-
“A-nan, với những ai thấy
có ngã, nói rằng, thọ không phải là ngã; ngã là thọ, hãy nói với người
ấy rằng: Như Lai nói có ba thọ: thọ khổ, thọ lạc, thọ không khổ không
lạc. Nếu thọ lạc là ngã; khi thọ lạc diệt mất, sẽ có hai ngã. Điều ấy
sai lầm. Nếu thọ khổ là ngã; khi thọ khổ diệt mất thì sẽ có hai ngã.
Điều ấy sai lầm. Nếu thọ không lạc không khổ là ngã; khi thọ không lạc
không khổ diệt, thì sẽ có hai ngã. Điều ấy sai lầm. A-nan, những ai
thấy có ngã, nói rằng thọ không phải là ngã; ngã là thọ, người ấy sai
lầm.
-
“A-nan, với những ai chủ
trương có ngã, nói rằng: Thọ không phải là ngã, ngã không phải là thọ;
thọ pháp là ngã, hãy nói với người ấy rằng: Hết thảy không thọ, làm
sao ông nói được có thọ pháp. Ông là thọ pháp chăng?? Đáp: Không phải.
-
“Vì vậy, A-nan, những ai
chủ trương có ngã, nói rằng: thọ không phải là ngã, ngã không phải là
thọ; thọ pháp là ngã, người ấy sai lầm.
-
“A-nan, với những ai chủ
trương có ngã, nói rằng: thọ không phải là ngã, thọ pháp không phải là
ngã; nhưng thọ là ngã “, nên nói với người ấy: Hết thảy không có thọ,
làm sao có thọ. Ông chính là thọ chăng? Đáp: Không phải. Vì vậy,
A-nan, những ai chủ trương có ngã, nói rằng: thọ không phải là ngã,
ngã không phải là thọ, thọ pháp không phải là ngã; thọ là ngã, người
ấy sai lầm.
-
“A-nan, trong giới hạn ấy
là ngôn ngữ; trong giới hạn ấy là sự thích ứng; trong giới hạn ấy là
hạn lượng; trong giới hạn ấy là sự phô diễn; trong giới hạn ấy là trí
quán; trong giới hạn ấy là chúng sanh.
-
“A-nan, các Tỳ-kheo ở trong
pháp này mà như thật chánh quán, với tâm giải thoát vô lậu, A-nan,
Tỳ-kheo ấy được gọi là tuệ giải thoát. Với Tỳ-kheo tâm giải thoát như
vậy, có ngã cũng được biết, không có ngã cũng được biết, vừa có ngã
vừa không có ngã cũng được biết, không phải có ngã không phải không có
ngã cũng được biết. Vì sao? Này A-nan, trong giới hạn ấy là ngôn ngữ;
trong giới hạn ấy là sự thích ứng; trong giớói hạn ấy là hạn lượng;
trong giới hạn ấy là sự phô diễn; trong giới hạn ấy là trí quán; trong
giới hạn ấy là chúng sanh. Sau khi biết rõ thấu suốt như vậy, Tỳ-kheo
với tâm giải thoát vô lậu không biết không thấy tri kiến như vậy”.”
-
Phật nói A-nan:
-
“Với những người chủ trương
có ngã, cho đến giới hạn nào thì được xác định?”
-
“Với những người chủ trương
có ngã, hoặc nói: Một ít sắc là ngã ; hoặc nói: Phần lớn sắc là ngã;
hoặc nói: Một ít vô sắc là ngã; hoặc nói: Phần lớn vô sắc là ngã.
-
“A-nan, những người nói một
ít sắc là ngã, xác định chỉ một ít sắc là ngã; sở kiến của ta là đúng,
ngoài ra đều sai. Những người nói phần lớn sắc là ngã, xác định phần
lớn sắc là ngã; sở kiến của ta là đúng, ngoài ra đều sai. Những người
nói một ít vô sắc là ngã, xác định chỉ một ít vô sắc là ngã; sở kiến
của ta là đúng, ngoài ra đều sai. Những người nói phần lớn vô sắc là
ngã, xác định phần lớn vô sắc là ngã; sở kiến của ta là đúng, ngoài ra
đều sai”.”
-
Phật nói với A-nan:
-
“Có bảy trú xứ của thức và
hai nhập xứ, mà các Sa-môn, Bà-la-môn nói: Chỗ này là nơi an ổn, nơi
cứu vớt, nơi hộ trì; là cái nhà, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi qui
tựa, là không hư dối, là không phiền não.
-
“Những gì là bảy? Hoặc có
hạng chúng sanh, với nhiều thân khác nhau và nhiều tưởng khác nhau,
tức chư Thiên và loài Người. Đó là trú xứ thứ nhất của thức, mà các
Sa-môn, Bà-la-môn nói: Chỗ này là nơi an ổn, nơi cứu vớt, nơi hộ trì;
là cái nhà, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi qui tựa, là không hư dối,
là không phiền não. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo biết trú xứ thứ nhất của
thức, biết sự tập khởi, biết sự diệt trừ, biết vị ngọt, biết sự tai
hại, biết sự xuất ly, biết một cách như thật; A-nan, Tỳ-kheo ấy nói:
Cái ấy không phải là ta. Ta không phải là cái ấy với tri kiến như
thật.
-
“Hoặc có hạng chúng sanh
với thân đồng nhất nhưng với nhiều tưởng khác nhau, như trời Quang âm.
Hoặc có hạng chúng sanh với thân đồng nhất, tưởng đồng nhất, tức trời
Biến tịnh. Hoặc có hạng chúng sanh trú nơi Không xứ. Hoặc có hạng
chúng sanh trú nơi Thức xứ. Hoặc có hạng chúng sanh trú nơi Vô sở hữu
xứ. Đó là bảy trú xứ của thức mà các Sa-môn, Bà-la-môn nói: Chỗ này là
nơi an ổn, nơi cứu vớt, nơi hộ trì; là cái nhà, là ngọn đèn, là ánh
sáng, là nơi qui tựa, là không hư dối, là không phiền não. Này A-nan,
nếu Tỳ-kheo biết bảy trú xứ của thức, biết sự tập khởi, biết sự diệt
trừ, biết vị ngọt, biết sự tai hại, biết sự xuất ly, biết một cách như
thật; A-nan, Tỳ-kheo ấy nói: Cái ấy không phải là ta. Ta không phải là
cái ấy với tri kiến như thật.
-
“Thế nào là hai nhập xứ? Vô
tưởng nhập và phi tưởng phi vô tưởng nhập. A-nan, đó là hai nhập xứ mà
các Sa-môn, Bà-la-môn nói: Chỗ này là nơi an ổn, nơi cứu vớt, nơi hộ
trì; là cái nhà, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi qui tựa, là không hư
dối, là không phiền não. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo biết hai nhập xứ, biết
sự tập khởi, biết sự diệt trừ, biết vị ngọt, biết sự tai hại, biết sự
xuất ly, biết một cách như thật; A-nan, Tỳ-kheo ấy nói: Cái ấy không
phải là ta. Ta không phải là cái ấy với tri kiến như thật”.
-
“A-nan, lại có tám giải
thoát. Những gì là tám? Có sắc, quán sắc là giải thoát thứ nhất. Bên
trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc là giải thoát thứ hai. Tịnh giải
thoát: là giải thoát thứ ba. Vượt sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không
niệm tạp tưởng, an trú Không xứ là giải thoát thứ tư. Vượt Không xứ,
an trú Thức xứ là giải thoát thứ năm. Vượt thức xứ, an trú Vô sở hữu
xứ là giải thoát thứ sáu. Vượt Vô sở hữu xứ, an trú Phi tưởng phi phi
tưởng xứ là giải thoát thứ bảy. Diệt tận định là giải thoát thứ tám.
A-nan, các Tỳ-kheo đối với tám giải thoát này du hành theo chiều thuận
và nghịch, xuất nhập tự tại, Tỳ-kheo như vậy chứng đắc Câu giải
thoát."”
-
Bấy giờ, A-nan sau khi nghe
những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
|
|