|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH TRƯỜNG A
HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá &
Trúc Phật Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
- PHẦN III
- 22. KINH
CHỦNG ĐỨC
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời
Phật ở tại Ương-già, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai
trăm năm mươi người, du hành trong nhân gian, nghỉ đêm tại
thành Chiêm-bà bên bờ hồ Già-già.
- Lúc ấy có
Bà-la-môn tên Chủng Đức sống ở Chiêm-bà. Thành ấy nhân dân
đông đúc, sầm uất, sung túc. Vua Ba-tư-nặc phong thành này
cho Bà-la-môn ấy làm phạm phần.
- Người
Bà-la-môn này, bảy đời cha mẹ trở lại đều chân chánh không
bị người khác khi dễ, đọc tụng thông suốt ba bộ sách của dị
học , có thể phân tích các thứ kinh thư; chỗ sâu xa của thế
điển không thứ nào không nghiền ngẫm; lại giỏi xem tướng đại
nhân, xem thời tiết tốt xấu, nghi lễ tế tự. Ông có năm trăm
đệ tử, dạy dỗ không bỏ phế.
- Bấy giờ,
trong thành Chiêm-bà các Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ, nghe
tin Sa-môn Cù-đàm, con nhà họ Thích, xuất gia và thành đạo,
từ Ương-già, du hành trong nhân gian, đến thành Chiêm-bà, ở
bên bờ hồ Già-già. Ngài có tiếng tăm lớn, đồn khắp thiên hạ,
là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ở
giữa chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-môn,
Bà-la-môn, tự thân chứng ngộ, rồi thuyết pháp cho người ,
lời nói khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối đều chân
chánh, đầy đủ nghĩa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. Bậc chân
nhân như vậy nên đến viếng thăm. Nay ta cũng nên đến thăm
Ngài. Nói như vậy xong, bèn rủ nhau ra khỏi thành Chiêm-bà,
từng đoàn lũ lượt nối nhau, muốn đến chỗ Phật.
- Lúc ấy,
Bà-la-môn Chủng Đức đang ngồi trên đài cao, từ xa trông thấy
đoàn người lũ lượt nối nhau, bèn quay hỏi người hầu:
- “Những
người ấy vì nhân duyên gì mà lũ lượt nối nhau, muốn đi đâu
vậy?”
- Người hầu
thưa:
- “Tôi nghe
nói Sa-môn Cù-đàm, con nhà họ Thích, xuất gia và thành đạo,
từ Ương-già, du hành trong nhân gian, đến thành Chiêm-bà, ở
bên bờ hồ Già-già. Ngài có tiếng tăm lớn, đồn khắp thiên hạ,
là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ở
giữa chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-môn,
Bà-la-môn, tự thân chứng ngộ, rồi thuyết pháp cho người, lời
nói khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối thảy đều chân
chánh, đầy đủ nghĩa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. Các
Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ trong thành Chiêm-bà này tụ
họp, nối nhau để đến thăm viếng Sa-môn Cù-đàm vậy.”
- Rồi
Bà-la-môn Chủng Đức liền ra lệnh cho người hầu rằng:
- “Ngươi
hãy nhanh chóng mang lời ta đến với các người ấy rằng: Các
ngươi hãy dừng lại một lát, hãy đợi ta đến, rồi cùng đi đến
chỗ Cù-đàm kia.”
- Người hầu
tức thì mang lời của Chủng Đức đến nói với các người ấy
rằng: “Các người hãy dừng lại một lát, hãy đợi ta đến, rồi
cùng đi đến chỗ Cù-đàm kia.”
- Lúc ấy,
mọi người trả lời rằng:
- “Ngươi
hãy nhanh chóng trở về thưa với Bà-la-môn rằng, nay thật là
phải thời, nên cùng nhau đi.”
- Người hầu
trở về thưa:
- “Những
người ấy đã dừng rồi. Họ nói: nay thật là phải thời, nên
cùng nhau đi.”
- Bà-la-môn
liền xuống đài, đến đứng cửa giữa.
- Bấy giờ có năm trăm
Bà-la-môn khác, có chút duyên sự, trước đó đã tụ tập dưới
cửa. Thấy Bà-la-môn Chủng Đức đến, thảy đều đứng dậy nghinh
đón, hỏi rằng:
- “Đại
Bà-la-môn, ngài muốn đi đâu đây?”
- Chủng Đức
đáp:
- “Có
Sa-môn Cù-đàm, con nhà họ Thích, xuất gia và thành đạo, từ
Ương-già, du hành trong nhân gian, đến thành Chiêm-bà, ở bên
bờ hồ Già-già. Ngài có tiếng tăm lớn, đồn khắp thiên hạ, là
Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ở giữa
chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-môn, Bà-la-môn,
tự thân chứng ngộ, rồi thuyết pháp cho người, lời nói khoảng
đầu, khoảng giữa và khoảng cuối thảy đều chân chánh, đầy đủ
nghĩa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. Bậc Chân nhân như vậy nên
đến viếng thăm. Nay ta muốn đến thăm Ngài.”
- Năm trăm
người Bà-la-môn liền thưa với Chủng Đức:
- “Ngài chớ
đi thăm. Vì sao? Kia nên đến đây chứ đây không nên đến kia.
Nay Đại Bà-la-môn, bảy đời cha mẹ đều chân chánh không bị
gièm pha. Nếu đã có đủ điều kiện như vậy. Thì kia nên đến
đây, chớ đây không nên đến kia. Lại nữa, Đại Bà-la-môn tụng
đọc thông suốt ba bộ sách dị học, có thể phân tích các loại
kinh thư, những chỗ sâu xa của thế điển, không chỗ nào không
nghiền ngẫm. Lại giỏi xem tướng đại nhân, xem tướng tốt xấu,
nghi lễ tế tự. Đã thành tựu những pháp ấy, thì kia nên đến
đây, chứ đây không nên đến kia.
- “Lại nữa,
Đại Bà-la-môn dung mạo đoan chánh, có sắc tướng của Phạm
thiên. Đã thành tựu pháp ấy thì kia nên đến đây chớ đây
không nên đến kia.
- “Lại nữa,
Đại Bà-la-môn có giới đức tăng thượng, trí tuệ thành tựu. Đã
thành tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây không nên
đến kia”.
- “Lại nữa,
Đại Bà-la-môn có lời nói nhu hòa, biện tài đầy đủ, nghĩa và
vị thanh tịnh. Đã có đủ pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ
đây không nên đến kia.
- “Lại nữa,
Đại Bà-la-môn là đại tôn sư, có đông đệ tử. Đã có đủ pháp
ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây không nên đến kia.
- “Lại nữa,
Đại Bàba-la-môn thường dạy dỗ năm trăm Bà-la-môn. Đã thành
tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây không nên đến kia.
- “Lại nữa, Đại Bà-la-môn có
học giả bốn phương đến xin thọ giáo, được hỏi các kỹ thuật,
các pháp tế tự, thảy đều trả lời được cả. Đã thành tựu pháp
ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây không nên đến kia.
- “Lại nữa,
Đại Bàa-la-môn được vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa cung kính
cúng dường. Đã thành tựu pháp thì kia nên đến đây, chớ đây
không nên đến kia.
- “Lại nữa,
Đại Bà-la-môn trí tuệ sáng suốt, nói năng thông lợi, không
hề khiếp nhược. Đã thành tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây,
chớ đây không nên đến kia.”
- Chủng Đức
nói với các Bà-la-môn:
- “Đúng
vậy, đúng vậy. Đúng như đdiều các ông nói. Tôi có đủ các đức
ấy, chớ không phải không có. Nhưng các ông hãy nghe tôi nói.
Sa-môn Cù-đàm có công đức mà chúng ta nên đến kia chớ kia
không nên đến đây. Sa-môn Cù-đàm từ bảy đời trở lại cha mẹ
đều chân chánh không bị gièm pha. Kia đã thành tựu pháp này,
chúng ta nên đến kia, chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm có dung mạo đoan chánh, xuất thân từ giai cấp
Sát-lỵ. Đã thành tựu pháp này, chúng ta nên đến kia chớó kia
không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm sanh chỗ tôn quý, nhưng đã xuất gia hành đạo .
Thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia không nên đến
đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm sắc sáng đầy đủ, chủng tánh chân chánh, nhưng
đã xuất gia tu đạo. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến
kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm sanh vào gia đình giàu có, có uy lực lớn,
nhưng đã xuất gia hành đạo. Đãnh thành tựu pháp này, ta nên
đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm có đủ giới Hiền thánh, thành tựu trí tuệ. Đã
thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia không nên đến
đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm khéo léo nơi ngôn ngữ, dịu dàng hòa nhã. Đã
thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia không nên đến
đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm là Bậc Đạo Sư của đại chúng, có đông đệ tử. Đã
thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia không nên đến
đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm vĩnh viễn diệt trừ dục ái, không có sơ suất
thô tháo, ưu tư và sợ hãi đã trừ, lông tóc không dựng đứng,
hoan hỷ, hòa vui; được mọi người thì khen ngợi, khéo nói quả
báo của hành vi, không chê bai đạo khác. Đã thành tựu pháp
này, thì ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm thường được vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa lễ
kính cúng dường. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia,
chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm được Bà-la-môn Phất-già-la-sa-la lễ kính cúng
dường; cũng được Bà-la-môn Phạm, Bà-la-môn Đa-lợi-già,
Bà-la-môn Cứ Xỉ, Thủ-ca-ma-nạp Đô-da Tử thăm gặp cúng dường.
Đã thành tựu pháp ấy, thì ta nên đến kia chớ kia không nên
đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm được Thanh văn đệ tử sùng phụng, lễ kính cúng
dường; cũng được chư Thiên và các chúng quỷ thần khác cung
kính. Các dòng họ Thích-ca, Câu-lỵ, Minh-ninh, Bạt-kỳ,
Mạt-la, Tô-ma, thảy đều phụng thừa. Đã thành tựu pháp này,
ta nên đến kia chớ kia không nên đến ta.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm truyền trao cho vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa
ba quy và năm giới. Đãà thành tựu pháp này, ta nên đến kia
chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm truyền trao ba quy năm giới cho Bà-la-môn
Phất-già-la-sa-la v.v... Đã thành tựu pháp này, ta nên đến
kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
đệ tử của Sa-môn Cù-đàm thọ ba quy năm giới; chư Thiên, dòng
họ Thích, Câu-lỵ v.v..., thảày đều thọ ba quy năm giới. Đã
thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia không nên đến
đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm khi du hành được hết thảy mọi người cung kính
cúng dường. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia
không nên đến đây.
- “Lại nữa,
những thành quách, tụ lạc mà Sa-môn Cù-đàm đã đến, đều được
mọi người cúng dường. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia
chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
những nơi Sa-môn Cù-đàm đi đến, các loài phi nhân, quỷ thần
không dám xúc nhiễểu. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia
chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
những nơi Sa-môn Cù-đàm đi đến, nhân dân ở đó đều thấy ánh
sáng, nghe âm nhạc trời. Đã thành tựu pháp này thì ta nên
đến kia chớ kia không nên đến ta.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm khi muốn rời khỏi chỗ đã đến. Mọi người đều
luyến mộ, khóc lóc mà tiễn đưa. Đã thành tựu pháp này thì ta
nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Sa-môn
Cù-đàm khi mới xuất gia, cha mẹ khóc lóc, thương nhớ tiếc
nuối. Đã thành tựu pháp này thì ta nên đến kia chớ kia không
nên đến ta.
- “Sa-môn
Cù-đàm xuất gia khi còn trai trẻ, dẹp bỏ các thứ trang sức,
voi, ngựa, xe báu, ngũ dục, anh lạc. Đã thành tựu pháp này,
thì ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm khước từ ngôi vị Chuyển luân vương, xuất gia
hành đạo. Nếu Ngài tại gia, sẽ trị vì bốn thiên hạ, thống
lãnh dân vật, thì chúng ta đều là thần thuộc. Đã thành tựu
pháp ấy, thì ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm hiểu rõ Phạm pháp, có thể nói cho người khác
và cũng nói chuyện trao đổi với Phạm thiên. Đã thành tựu
pháp ấy, thì ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm đầy đủ cả ba hai32 tướng. Đã thành tựu pháp
này, thì ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm có trí tuệ thông suốt, không có khiếp nhược.
Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia không nên
đến đây.
- “Cù-đàm
kia nay đến thành Chiêm-bà này, ở bên bờ hồ Già-già, đối với
ta là tôn quý, vả lại là khách. Ta nên thân hành đến thăm
viếng.”
- Năm trăm Bà-la-môn khi ấy
thưa với Chủng Đức rằng:
- “Kỳ diệu
thay, hy hữu thay, công đức của vị kia đến như vậy chăng?
Trong các đức, vị kia chỉ cần có một đức là đã không nên đến
đây rồi, huống hồ nay gồm đủ cả. Vậy ta hãy kéo hết đi thăm
hỏi”..”
- Chủng Đức
đáp:
- “Ngươi
muốn đi thì nên biết thời.”
- Rồi Chủng
Đức cho thắng cỗ xe báu, cùng với năm trăm Bà-la-môn và các
trưởng giả trong thành Chiêm-bà trước sau vây quanh, đi đến
hồ Già-già. Cách hồ không xa, ông thầm nghĩ rằng: Giả sử ta
hỏi Cù-đàm, mà hoặc giả không vừa ý Ngài, thì vị Sa-môn ấy
sẽ chê trách ta, bảo rằng: Nên hỏi như vầy. Không nên hỏi
như vầy. Mọi người mà nghe được, cho rằng ta vô trí, sẽ tổn
hại cho thanh danh của ta. Giả sử Sa-môn Cù-đàm hỏi ta về
nghĩa, mà ta đáp hoặc không vừa ý Ngài, vị Sa-môn ấy sẽ
khiển trách ta, bảo rằng: Nên trả lời như vầy. Không nên trả
lời như vầy. Mọi người mà nghe được, cho rằng ta vô trí, sẽ
tổn hại cho thanh danh của ta. Giả sử ở đây ta im lặng rồi
trở về, mọi người sẽ nói: Ông này chẳng biết gì. Cuối cùng,
không thể đến chỗ Sa-môn Cù-đàm. Thế thì cũng tổn hại thanh
danh của ta. Nếu Sa-môn Cù-đàm hỏi ta về pháp của Bà-la-môn,
ta sẽ trả lời Cù-đàm đầy đủ, hợp ý Ngài.”
- Khi ấy,
Chủng Đức ở bên bờ hồ suy nghĩ như vậy rồi, liền xuống xe đi
bộ dẫn đầu đến chỗ Thế Tôn, chào hỏi xong, ngồi sang một
bên. Bấy giờ các Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ thành
Chiêm-bà, có người lễ Phật xong rồi ngồi; có người chào hỏi
xong rồi ngồi; hoặc có người xưng tên rồi ngồi; hoặc có
người chắp tay hướng về Phật rồi ngồi; hoặc có người im lặng
mà ngồi xuống. Khi mọi người đã ngồi yên, Phật biết ý nghĩ
trong lòng của Chủng Đức, bèn bảo rằng:
- “Điều mà
ông suy nghĩ, hãy theo ước nguyện của ông.”
- Rồi Phật
hỏi Chủng Đức:
-
“Bà-la-môn của ông có mấy pháp để thành tựu?”
- Bấy giờ
Chủng Đức nghĩ thầm rằng:
- “Kỳ diệu
thay, hy hữu thay, Sa-môn Cù-đàm có đại thần lực mới thấy
được tâm của người, đúng theo ý nghĩ của ta mà hỏi.”
- Bà-la-môn
Chủng Đức bèn ngồi thẳng người lên, nhìn bốn phía đại chúng,
tươi cười hớn hở, rồi mới trả lời Phật rằng:
-
“Bà-la-môn của tôi có năm pháp để thành tựu, lời nói mới chí
thành, không có hư dối. Những gì là năm?
- “1.
Bà-la-môn có bảy đời cha mẹ chân chánh không bị người gièm
pha.
- “2. Đọc
tụng thông lợi ba bộ dị học, có thể phân tích các thứ kinh
thư, những chỗ u vi của thế điển, không chỗ nào không tổng
luyện, lại có thể giỏi phép xem tướng đại nhân, xét rõ cát
hung, nghi lễ tế tự.
- “3. Dung
mạo đoan chánh.
- “4. Trì
giới đầy đủ.
- “5. Trí
tuệ thông suốt. Đó là năm. Thưa Cù-đàm, Bà-la-môn thành tựu
năm pháp này, thì lời nói chí thành, không cóco hư hư dối.”
- Phật nói:
- “Lành
thay, Chủng Đức, có Bà-la-môn nào, trong năm pháp, bỏ một,
thành tựu bốn, mà lời nói chí thành, không có hư dối chăng?”
- Chủng Đức
bạch Phật:
- “Có. Vì
sao? Thưa Cù-đàm, cần gì dòng họ?? Nếu Bà-la-môn đọc tụng
thông suốt ba bộ dị học, phân tích các loại kinh thư, những
chỗ u vi của thế điển, không đâu là không tổng luyện, lại
giỏi phép xem tướng đại nhân, xét rõ cát hung, tế tự nghi
lễ, dung mạo đoan chánh, trì giới đầy đủ, trí tuệ thông
suốt; có bốn pháp thì lời nói thành thật, không có hư dối.”
- Phật nói
với Chủng Đức:
- “Lành
thay, lành thay, nếu trong bốn pháp này, bỏ một, thành tựu
ba, mà lời nói vẫn thành thật, không có hư dối, vẫn được gọi
là Bà-la-môn chăng?”
- Chủng Đức
trả lời:
- “Có. Cần
gì dòng dõi. Cần gì đọc tụng. Nếu Bà-la-môn có dung mạo đoan
chánh, trì giới đầy đủ, trí tuệ thông suốt; thành tựu ba
pháp này, thì lời nói chân thành, không có hư dối; được gọi
là Bà-la-môn.”
- Phật nói:
- “Lành
thay, lành thay. Thế nào, nếu trong ba pháp, bỏ một pháp,
thành hai, mà kia lời nói vẫn chí thành, không có hư dối;
được ggọi là Bà-la-môn chăng?”
- Đáp: “Có.
Cần gì dòng dõi, đọc tụng và đoan chánh?”
- Lúc bấy giờ năm trăm
Bà-la-môn ai nấy đều lớn tiếng, nói với Bà-la-môn Chủng Đức:
- “Sao lại
chê bỏ dòng dõi, đọc tụng và đoan chánh, cho là không cần?”
- Thế Tôn
nói với năm trăm Bà-la-môn rằng:
- “Nếu
Bà-la-môn Chủng Đức có dung mạo xấu xí, không có dòng dõi,
đọc tụng không thông suốt, không có biện tài, trí tuệ, khéo
trả lời, không đủ khả năng nói chuyện với Ta, thì các ngươi
nên nói. Nếu Bà-la-môn Chủng Đức có dung mạo đoan chánh,
chủng tánh đầy đủ, đọc tụng thông suốt, trí tuệ biện tài,
giỏi vấn đáp, đủ khả năng cùng Ta luận nghị, thì các ngươi
hãy im lặng, nghe người này nói.í”.
- Bấy giờ,
Bà-la-môn Chủng Đức bạch Phật:
- “Xin
Cù-đàm tạm ngừng giây lát. Tôi sẽ tự mình dùng pháp đi
khuyên bảo những người này.”
- Chủng Đức
ngay sau đó nói với năm trăm Bà-la-môn:
- “Ương-già
Ma-nạp nay đang ở trong chúng này. Đó là cháu của ta. Các
ngươi có thấy không? Nay các đại chúng cùng tụ hội hết ở
đây. Duy trừ Cù-đàm có dung mạo đoan chánh, kỳ dư có ai bằng
Ma-nạp này? Nhưng nếu Ma-nạp này sát sanh, trộm cướp, dâm
dật, vô lễ, dối trá, lừa gạt, lấy lửa đốt người, chận đường
làm chuyện ác. Này các Bà-la-môn, nếu Ương-già Ma-nạp này
làm đủ chuyện ác, thế thì đọc tụng, đoan chánh, để làm gì?”
- Năm trăm
Bà-la-môn lúc ấy im lặng không trả lời. Chủng Đức bạch Phật:
- “Nếu trì
giới đầy đủ, trí tuệ thông suốt, thế thì lời nói chí thành,
không hư dối, được gọi là Bà-la-môn.”
- Phật nói:
- “Lành
thay, lành thay, thế nào, Chủng Đức, trong hai pháp nếu bỏ
một mà thành tựu một, thì lời nói vẫn thành thật, không có
hư dối, được gọi là Bà-la-môn chăng?”
- Đáp:
- “Không
thể được. Vì sao? Giới tức trí tuệ. Trí tuệ tức giới. Có
giới, có trí, sau đó lời nói mới thành thật, không có hư
dối, tôi gọi là Bà-la-môn.”
- Phật nói:
- “Lành
thay, lành thay, đúng như ông nói. Có giới thì có tuệ. Có
tuệ thì có giới. Giới làm thanh tịnh tuệ. Tuệ làm thanh tịnh
giới. Chủng Đức, như người rửa tay, tay trái và tay phải cần
cho nhau. Tay trái rửa sạch tay phải, tay phải rửa sạch tay
trái. Cũng vậy, có tuệ thì có giới. Có giới thì có tuệ. Giới
làm sạch tuệ. Tuệ làm sạch giới. Bà-la-môn, ai đầy đủ giới
và tuệ, ta gọi người đó là Tỳ-kheo. “”
- Bấy giờ,
Chủng Đức bạch Phật:
- “Thế nào
là giới?”
- Phật nói:
- “Hãy lắng
nghe, hãy lắng nghe. Hãy suy ngẫm kỹ. Ta sẽ phân biệt từng
điều một cho ông nghe.”
- Đáp rằng:
“Kính vâng. Vui lòng muốn nghe”.
- Bấy giờ,
Phật nói với Chủng Đức:
- “Nếu Như
Lai xuất hiện ở đời, là vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, ở giữa chư Thiên,
Người đời, Sa-môn, Bà-la-môn, mà tự thân chứng ngộ, rồi
giảng thuyết cho người; lơlòi nói khoảng đầu, khoảng giữa và
khoảng cuối thảy đều chân chánh, đầy đủ nghĩa và vị, phạm
hạnh thanh tịnh. Nếu có trưởng giả, hay con trai trưởng giả,
sau khi nghe pháp này, tín tâm thanh tịnh. Do tín tâm thanh
tịnh, người ấy suy xét như vầy: Tại gia thật khó, ví như
gông cùm; muốn tu hành phạm hạnh mà không thể tự tại. Ta nay
hãy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Người
ấy, sau đó, từ bỏ gia đình, bỏ sản nghiệp, từ giã thân tộc,
mặc ba pháp y, dẹp các trang sức, đọc tụng tỳ-ni, đầy đủ
giới luật, từ bỏ không sát sanh,..., cho đến, tâm pháp Tứ
thiền, đạt được an lạc ngay trong hiện tại. Vì sao? Ầy là do
tinh tấn, chuyên niệm không quên, ưa sống một mình chỗ thanh
vắng mà được vậy. Bà-la-môn, đó gọi là giới.”
- Lại hỏi:
- “Sao gọi
là tuệ?”
- “Phật
nói:
- “Nếu
Tỳ-kheo, bằng tam-muội tâm, thanh tịnh không cấu uế, mềm
mại, dễ điều phục, an trú trạng thái bất động,...., cho đến,
chứng đắc ba minh, trừ khử vô minh, phát sanh trí tuệ, diệt
trừ tối tăm, sanh ánh sáng đại pháp, xuất trí tuệ lậu tận.
Vì sao? Ầy là do tinh cần, chuyên niệm không quên, ưa sống
một mình nơi thanh vắng mà được vậy. Bà-la-môn, đó là đầy đủ
trí tuệ.”
- Khi ấy,
Chủng Đức liền bạch Phật rằng:
- “Nay con
quy y Phật, Pháp, Thánh chúng. Cúi mong Thế Tôn nhận con làm
Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay về sau, suốt đời không
giết, không trộm, không tà dâm, không dối, không uống rượu.”
- Bấy giờ,
Chủng Đức Bà-la-môn sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan
hỷ phụng hành.
- --o0o--
|
|