|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH TRƯỜNG A
HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá &
Trúc Phật Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
- PHẦN III
- 23. KINH
CỨU-LA-ĐÀN-ĐẨU
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời,
Phật ở tại nước Câu-tát-la, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một
ngàn hai trăm năm mươi người du hành trong nhân gian, đến
phía Bắc xóm Bà-la-môn Khư-nậu-bà-đề ở Câu-tát-la, nghỉ đêm
trong rừng Thi-xá-bà.
- Bấy giờ,
có Bà-la-môn tên Cứu-la-đàn-đầu đang nghỉ tại thôn
Khư-nậu-bà-đề. Xóm ấy sung túc, nhân dân đông đúc, vườn
quán, ao tắm, cây cối, trong xanh, tươi mát. Vua Ba-tư-nặc
phong thôn ấy cho Bà-la-môn Cứu-la-đàn-đầu làm phạm phần.
Bà-la-môn này từ bảy đời trở lại cha mẹ đều chân chánh không
bị người khinh nhờn, đọc tụng thông suốt ba bộ dị học, có
khả năng phân tích các loại kinh thư. Thế điển u vi, không
thứ nào không tổng luyện; lại giỏi phép xem tướng đại nhân,
dự đoán cát hung, tế tự nghi lễ. Ông có năm trăm đệ tử, dạy
dỗ không hề bỏ phế. Khi ấy, Bà-la-môn muốn thiết lễ đại tế,
chuẩn bị năm trăm con bò đực, năm trăm con bò cái, năm trăm
con bê đực, năm trăm con bê cái, năm trăm con dê và năm trăm
con cừu để dâng cúng.
- Lúc bấy
giờ, các Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ trong thôn
Khư-nậu-bà-đề nghe tin Sa-môn Cù-đàm, con trai dòng họ
Thích, đã xuất gia và thành đạo, từ nước Câu-tát-la, du hành
trong nhân gian, đến nghỉ ở rừng Thi-xá-bà. Ngài có tiếng
tăm lớn, lan truyền khắp thiên hạ, là Như Lai, Chí Chân,
Đẳng Chánh Giác, mười hiệu đầy đủ, ở giữa chư Thiên, Người
đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-môn, Bà-la-môn. Mà tự thân chứng
ngộ, rồi giảng pháp cho người, lời nói khoảng đầu, khoảng
giữa và khoảng cuối đều chân chánh, đầy đủ nghĩa và vị, phạm
hạnh thanh tịnh. “Bậc Chân nhân như vậy, nên đến thăm viếng.
Nay chúng ta hãy cùng đi thăm viếng Ngài”. Nói như vậy rồi,
họ kéo nhau ra khỏi thôn Khư-nậu-bà-đề, từng đoàn nối tiếp
nhau, cùng đến chỗ Phật.
- Khi ấy
Bà-la-môn Cứu-la-đàn-đầu đang ở trên lầu cao, từ xa trông
thấy từng đoàn người nối tiếp nhau, bèn quay lại hỏi người
hầu:
- “Những
người kia do nhân duyên gì mà từng đoàn nối tiếp nhau, muốn
đi đâu vậy?”
- Người hầu
thưa:
- “Tôi nghe
đồn, Sa-môn Cù-đàm, con trai dòng họ Thích, đã xuất gia và
thành đạo, từ nước Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, đến
nghỉ ở rừng Thi-xá-bà. Ngài có tiếng tăm lớn, lan truyền
khắp thiên hạ, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười
hiệu đầy đủ, ở giữa chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên,
Sa-môn, Bà-la-môn. Mà tự thân chứng ngộ, rồi giảng thuyết
pháp cho người, lời nói khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng
cuối đều chân chánh, đầy đủ nghĩa và vị, phạm hạnh thanh
tịnh. Những người Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ trong thôn
này, từng đoàn nối tiếp nhau, muốn đến thăm viếng Sa-môn
Cù-đàm vậy.”
- Rồi
Bà-la-môn Cưu-la-đàn-đầu liền ra lệnh cho người hầu rằng:
- “Ngươi
hãy nhanh chóng mang lời ta đến với các người ấy rằng: Các
khanh hãy dừng lại một lát, hãy đợi ta đến, rồi cùng đi đến
chỗ Cù-đàm kia.”
- Người hầu
tức thì mang lời của Cứu-la-đàn-đầu đến nói với các người ấy
rằng: “Các người hãy dừng lại một lát, hãy đợi ta đến, rồi
cùng đi đến chỗ Cù-đàm kia”.
- Lúc ấy,
mọi người trả lời rằng:
- “Ngươi
hãy nhanh chóng trở về thưa với Bà-la-môn rằng, nay thật là
phải thời, nên cùng nhau đi.”
- Người hầu
trở về thưa:
- “Những
người ấy đã dừng rồi. Họ nói: nay thật là phải thời, nên
cùng nhau đi.”
- Bà-la-môn
liền xuống đài, đến đứng cửa giữa.
- Bấy giờ
có năm trăm Bà-la-môn khác đang ngồi bên ngoài cửa giữa,
giúp Cứu-la-đàn-đầu thiết lễ đại tự. Thấy Bà-la-môn
Cứu-la-đàn-đầu đến, thảy đều đứng dậy nghinh đón, hỏi rằng:
- “Đại
Bà-la-môn, ngài muốn đi đâu đây?”
-
Cứu-la-đàn-đầu đáp:
- “Có
Sa-môn Cù-đàm, con nhà họ Thích, xuất gia và thành đạo, đang
ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, đến rừng Thi-xá-bà,
phía Bắc thôn Khư-nậu-bà-đề. Ngài có tiếng tăm lớn, đồn khắp
thiên hạ, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười
hiệu, ở giữa chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-môn,
Bà-la-môn, tự thân chứng ngộ, rồi thuyết pháp cho người ,
lời nói khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối thảy đều chân
chánh, đầy đủ nghĩa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. Bậc Chân
nhân như vậy nên đến viếng thăm. Này các ngài Bà-la-môn, ta
lại nghe nói Cù-đàm biết ba loại tế tự, mười sáu tư cụ tế
tự. Ta tuy là hàng tiên học cựu thức trong chúng, nhưng có
chỗ chưa biết rõ. Nay ta muốn cử hành đại tế tự, bò và dê đã
đủ. Ta muốn đến Cù-đàm để hỏi về ba pháp tế tự và mười sáu
tư cụ tế tự. Nếu chúng ta có được pháp tế tự rồi, công đức
đầy đủ, tiếng tăm sẽ đồn xa.”
- Năm trăm người Bà-la-môn
liền thưa với Cứu-la-đàn-đầu:
- “Đại sư
chớ đi. Vì sao? Kia nên đến đây chứ đây không nên đến kia.
Đại sư có bảy đời cha mẹ đều chân chánh không bị gièm pha.
Nếu đã có đủ yếu tố như vậy, thì kia nên đến đây, chớ đây
không nên đến kia. Lại nữa, Đại sư tụng đọc thông suốt ba bộ
sách dị học, có thể phân tích các loại kinh thư, thế điển u
vi, không thứ nào là không tổng luyện. Lại giỏi xem tướng
đại nhân, xem tướng tốt xấu, nghi lễ tế tự. Đã thành tựu
những pháp ấy, thì kia nên đến đây, chứ đây không nên đến
kia.
- “Lại nữa,
Đại sư dung mạo đoan chánh, có sắc tướng của Phạm thiên. Đã
thành tựu pháp ấy thì kia nên đến đây chớ đây không nên đến
kia.
- “Lại nữa,
Đại sư có giới đức tăng thượng, trí tuệ thành tựu. Đã thành
tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây không nên đến
kia.”
- “Lại nữa,
Đại sư có lời nói nhu hòa, biện tài đầy đủ, nghĩa và vị
thanh tịnh. Đã có đủ pháp ấy, thì kia nên đến đây chớ đây
không nên đến kia.
- “Lại nữa,
Đại sư là vị dẫn đầu đại chúng, có đông đệ tử. Đã có đủ pháp
ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây không nên đến kia.
- “Lại nữa,
Đại sư thường dạy dỗ năm trăm Bà-la-môn. Đã thành tựu pháp
ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây không nên đến kia.
- “Lại nữa,
Đại sư có học giả bốn phương đến xin thọ giáo; được hỏi các
kỹ thuật, các pháp tế tự, thảy đều trả lời được cả. Đã thành
tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây không nên đến kia.
- “Lại nữa,
Đại sư được vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa cung kính cúng
dường. Đã thành tựu pháp ấy thì kia nên đến đây chớ đây
không nên đến kia.
- “Lại nữa,
Đại sư giàu có nhiều tài bảo, kho tàng đầy ắp. Đã thành tựu
pháp ấy thì kia nên đến đây chớ đây không nên đến kia.
- “Lại nữa,
Đại sư có trí tuệ sáng suốt, nói năng thông lợi, không hề
khiếp nhược. Đã thành tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ
đây không nên đến kia.
- “Đại sư
nếu đã đủ mười pháp như vậy, thì kia nên đến đây, chớ đây
không nên đến kia.
-
Cứu-la-đàn-đầu nói với các Bà-la-môn:
- “Đúng
vậy, đúng vậy. Đúng như điều các ông nói. Tôi thật có đủ các
đức ấy, chớ không phải không có. Nhưng các ông hãy nghe tôi
nói. Sa-môn Cù-đàm có công đức để chúng ta nên đến kia chớ
kia không nên đến đây. Sa-môn Cù-đàm từ bảy đời trở lại cha
mẹ đều chân chánh không bị gièm pha. Kia đã thành tựu pháp
này, chúng ta nên đến kia, chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm có dung mạo đoan chánh, xuất thân từ giai cấp
Sát-lỵ. Đã thành tựu pháp này, chúng ta nên đến kia chớ kia
không nên đến đây.
- “Lại nữa, Sa-môn Cù-đàm sanh
chỗ tôn quý, nhưng đã xuất gia hành đạo . Thành tựu pháp
này, ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm sắc sáng đầy đủ, chủng tánh chân chánh, nhưng
đã xuất gia tu đạo. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến
kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm sanh vào gia đình giàu có, có uy lực lớn,
nhưng đã xuất gia hành đạo. Đã thành tựu pháp này, ta nên
đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm có đủ giới Hiền thánh, thành tựu trí tuệ. Đã
thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia không nên đến
đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm khéo léo nơi ngôn ngữ, dịu dàng hòa nhã. Đã
thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia không nên đến
đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm là Bậc Đạo Sư của đại chúng, có đông đệ tử. Đã
thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia không nên đến
đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm vĩnh viễn diệt trừ dục ái, không có sơ suất
thô tháo, ưu tư và sợ hãi đã trừ, lông tóc không dựng đứng,
hoan hỷ, hòa vui; được người khen thiện, khéo nói quả báo
của hành vi, không chê bai đạo khác. Đã thành tựu pháp này,
thì ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm thường được vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa lễ
kính cúng dường. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia,
chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm được Bà-la-môn Phất-già-la-sa-la lễ kính cúng
dường; cũng được Bà-la-môn Phạm, Bà-la-môn Đa-lỵ-giá,
Bà-la-môn Chủng Đức, Thủ-ca Ma-nạp Đô-da Tử thăm gặp cúng
dường. Đã thành tựu pháp ấy, thì ta nên đến kia chớ kia
không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm được Thanh văn đệ tử tôn thờ, lễ kính cúng
dường; cũng được chư Thiên và các chúng quỷ thần khác cung
kính. Các dòng họ Thích-ca, Câu-lỵ, Minh-ninh, Bạt-kỳ,
Mạt-la, Tô-ma, thảy đều tôn thờ. Đã thành tựu pháp này, ta
nên đến kia, chớ kia không nên đến ta.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm truyền trao cho vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa
ba quy y và năm giới. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia
chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm truyền trao ba quy năm giới cho Bà-la-môn
Phất-già-la-sa-la vân vân. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến
kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
đệ tử của Sa-môn Cù-đàm thọ ba quy năm giới; chư Thiên, dòng
họ Thích, Câu-lỵ., đều thọ ba quy năm giới. Đã thành tựu
pháp này, ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm khi du hành được hết thảy mọi người cung kính
cúng dường. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia
không nên đến đây.
- “Lại nữa,
những thành quách, thôn ấp mà Cù-đàm đã đến, không đâu là
không khuynh động, cung kính cúng dường . Đã thành tựu pháp
này, ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
những nơi Sa-môn Cù-đàm đi đến, các loài phi nhân, quỷ thần
không dám xúc nhiễu. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia
chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa, những nơi Sa-môn
Cù-đàm đi đến, nhân dân ở đó đều thấy ánh sáng, nghe âm nhạc
trời. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia
không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm khi muốn rời khỏi chỗ đã đến. Mọi người đều
luyến mộ, khóc lóc mà tiễn đưa. Đã thành tựu pháp này, thì
ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Sa-môn
Cù-đàm khi mới xuất gia, cha mẹ, tông thân, khóc lóc, thương
nhớ tiếc nuối. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ
kia không nên đến ta.
- “Sa-môn
Cù-đàm xuất gia khi còn trai trẻ, dẹp bỏ các thứ trang sức,
voi, ngựa, xe báu, ngũ dục, anh lạc. Đã thành tựu pháp này,
thì ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm khước từ ngôi vị Chuyển luân vương, xuất gia
hành đạo. Nếu Ngài tại gia, sẽ trị vì bốn thiên hạ, thống
lãnh dân vật, thì chúng ta đều là thần thuộc. Đã thành tựu
pháp ấy, thì ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm hiểu rõ Phạm pháp, có thể nói cho người khác
và cũng nói chuyện trao đổi với Phạm thiên. Đã thành tựu
pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm đầy đủ cả ba mươi hai tướng. Đã thành tựu pháp
này, thì ta nên đến kia chớ kia không nên đến đây.
- “Lại nữa,
Sa-môn Cù-đàm có trí tuệ thông suốt, không có khiếp nhược.
Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia không nên
đến đây.
- “Cù-đàm
kia nay đến thôn Khư-nậu-bà-đề này, đối với ta là tôn quý,
vả lại là khách. Ta nên thân hành đến thăm viếng.”
- Năm trăm
Bà-la-môn khi ấy thưa với Cứu-la-đàn-đầu rằng:
- “Kỳ diệu
thay, hy hữu thay, công đức của vị kia đến như vậy chăng?
Trong các đức, giả sử Cù-đàm chỉ cần có một đức là đã không
nên đến đây rồi, huống hồ nay gồm đủ cả. Vậy ta hãy kéo hết
đi thăm hỏi.”
-
Cứu-la-đàn-đầu đáp:
- “Các
ngươi muốn đi thì nên biết thời.”
- Rồi Bà-la-môn liền thắng cỗ
xe báu, cùng với năm trăm Bà-la-môn và các Bà-la-môn, trưởng
giả, cư sĩ ở Khư-nậu-bà-đề, trước sau vây quanh, đi đến rừng
Thi-xá-bà. Đến nơi, xuống xe, đi bộ, tiến đến chỗ Thế Tôn,
chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Trong lúc ấy, trong số
các Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ, có người lễ Phật rồi ngồi
xuống; có người chào hỏi xong rồi ngồi xuống; có người chỉ
xưng tên rồi ngồi xuống; có người chắp tay hướng về Phật rồi
ngồi xuống; có người im lặng ngồi xuống. Khi mọi người ngồi
yên chỗ, Cứu-la-đàn-đầu bạch Phật rằng:
- “Tôi có
điều muốn hỏi. Nếu Ngài có rỗi, cho phép, tôi mới dám hỏi.
- Phật nói:
- “Xin cứ
hỏi tùy ý.”
- Bà-la-môn
bạch Phật:
- “Tôi nghe
nói Cù-đàm thông hiểu ba loại tế tự và mười sáu tư cụ tế tự,
là những điều mà chúng tôi, tiên túc kỳ cựu, không hiểu
biết. Nay chúng tôi muốn cử hành đại tế tự; đã chuẩn bị đủ
năm trăm bò đực, năm trăm bò cái, năm trăm bê đực, năm trăm
bê cái, năm trăm con dê, năm trăm con cừu. Hôm nay cố ý đến
đây, tôi muốn hỏi ba pháp tế tự và mười sáu tế cụ. Nếu tế tự
này mà được thành tựu, sẽ được quả báo lớn, tiếng tăm đồn
xa, được trời và người kính trọng.”
- Bấy giờ,
Thế Tôn nói với Cứu-la-đàn-đầu rằng:
- “Nay ông
hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ, tôi sẽ giảng
thuyết cho.”
- Bà-la-môn
nói:
- “Xin
vâng, thưa Cù-đàm, tôi rất muốn nghe.”
- Rồi Phật
nói với Cứu-la-đàn-đầu:
- “Vào một
thời quá khứ xa xưa, có vị vua Quán đảnh thuộc dòng Sát-lỵ,
muốn thiết lễ đại tự, tập họp đại thần Bà-la-môn đến bảo
rằng:
- Ta nay
rất giàu có, tài bảo dồi dào, ngũ dục thỏa mãn. Tuổi ta đã
già yếu. Dân chúng cường thịnh, không có sự khiếp nhược. Kho
tàng đầy ắp. Nay ta muốn thiết lễ đại tự. Theo các ngươi,
pháp tế tự cần những gì?”
- Khi ấy,
có vị đại thần kia tâu vua rằng:
- “Tâu Đại
vương, quả như lời Đại vương, nước giàu, binh mạnh, kho tàng
đầy ắp. Nhưng dân chúng phần nhiều ôm ác tâm, tập các phi
pháp. Nếu tế tự vào lúc này thì không thành phép tế tự. Như
sai ăn cướp đuổi ăn cướp, thì sự sai khiến chẳng thành.
- “Tâu Đại
vương, chớ nghĩ rằng, đây là dân của ta; ta có thể đánh, có
thể giết, có thể khiển trách, có thể ngăn cấm. Những kẻ gần
gũi vua, nên cung cấp chúng những thứ cần yếu. Những người
buôn bán, nên cung cấp chúng tài bảo. Những người chuyên tu
điền sản, hãy cung cấp chúng bò, bê, hạt giống. Chúng mỗi
người tự mình kinh doanh. Vương không bức bách dân, thì dân
được an ổn, nuôi nấng con cháu, cùng nhau vui đùa.”
- Phật lại
nói với Cứu-la-đàn-đầu:
- “Rồi thì,
sau khi nghe lời của các đại thần, vua liền cung cấp y phục
ẩm thực cho những người thân cận, tài bảo cho những người
buôn bán, trâu bò, thóc giống cho những người làm ruộng. Bấy
giờ nhân dân mỗi người tự lo công việc của mình, không xâm
hại nhau, nuôi nấng con cháu, cùng nhau vui đùa.”
- Phật lại
nói:
- “Sau đó,
vua lại triệu quần thần đến bảo rằng: Ta nước giàu, binh
mạnh, kho tàng đầy ắp. Ta cung cấp cho nhân dân không thiếu
thốn cái gì. Chúng nuôi dưỡng con cháu, cùng nhau vui đùa.
Nay ta muốn thiết lễ đại tự. Theo các ngươi, phép tế tự cần
có những gì?
- “Các đại
thần tâu:
- “Đúng
vậy, đúng vậy, như lời Đại vương nói, Nước giàu, binh mạnh,
kho tàng đầy ắp. Ta cung cấp cho nhân dân không thiếu thốn
cái gì. Chúng nuôi dưỡng con cháu, cùng nhau vui đùa. Nếu
Đại vương muốn tế tự, có thể truyền lệnh cho cung nội biết.
- “Vua làm
như lời các đại thần; vào truyền lệnh cung nội: Ta nước
giàu, binh mạnh, kho tàng đầy ắp. Ta cung cấp cho nhân dân
không thiếu thốn cái gì. Chúng nuôi dưỡng con cháu, cùng
nhau vui đùa. Nay ta muốn thiết lễ đại tự.
- “Các phu
nhân liền tâu vua:
- “Đúng
vậy, đúng vậy, như lời Đại vương, nước giàu binh mạnh, kho
tàng đầy ắp, tài bảo dồi dào. Nếu muốn tế tự, nay thật đúng
lúc.
- Vua trở
ra, báo cho quần thần biết:
- “Ta nước
giàu, binh mạnh, kho tàng đầy ắp. Ta cung cấp cho nhân dân
không thiếu thốn cái gì. Chúng nuôi dưỡng con cháu, cùng
nhau vui đùa. Nay ta muốn thiết lễ đại tự. Ta đã truyền lệnh
cung nội. Các ngươi hãy nói hết cho ta, cần có những thứ gì?
- “Bấy giờ,
các đại thần liền tâu vua rằng:
- “Đúng
vậy, đúng vậy, như lời Đại vương nói. Đại vương muốn tế tự.
Đã truyền cho nội cung biết, nhưng chưa nói cho thái tử,
hoàng tử, đại thần, tướng sĩ biết. Đại vương nên lệnh truyền
cho biết.
- “Vua nghe
lời các đại thần, bèn truyền lệnh cho thái tử, hoàng tử, đại
thần, tướng sĩ rằng:
- “Ta nước
giàu binh mạnh, kho tàng đầy ắp. Nay ta muốn thiết lễ đại
tự.
- “Khi ấy,
thái tử, hoàng tử, quần thần và các tướng sĩ, tâu vua rằng:
- “Đúng
vậy, đúng vậy, như lời Đại vương, nước giàu binh mạnh, kho
tàng đầy ắp, tài bảo dồi dào. Nếu muốn tế tự, nay thật đúng
lúc.
- “Vua lại
báo cho quần thần biết:
- “Ta nước
giàu, binh mạnh, kho tàng đầy ắp. Tài bảo dồi dào. Nay ta
muốn thiết lễ đại tự. Ta đã truyền lệnh cung nội, thái tử,
hoàng tử, cho đến tướng sĩ. Nay muốn thiết lễ đại tự, cần có
những thứ gì?
- Các đại
thần liền tâu:
- “Như lời
Đại vương. Muốn thiết lễ đại tự, nay chính là lúc.
- “Vua nghe
lời, cho dựng những ngôi nhà mới ở thành Đông. Vua đi vào
nhà mới. Mình khoác áo da hươu, thoa mình bằng dầu bơ thơm,
lại đội sừng hươu lên đầu. Sai trét phân bò lên đất, rồi
ngồi nằm trên đó. Rồi đệ nhất phu nhân, đại thần Bà-la-môn,
chọn một con bò cái màu vàng. Một phần sữa để vua ăn; một
phần sữa để cho phu nhân ăn; một phần sữa để cho đại thần
ăn; một phần sữa cúng dường đại chúng, còn lại cho bê. Bấy
giờ, nhà vua thành tựu tám pháp, đại thần thành tựu bốn
pháp.
- “Những gì
là tám pháp nhà vua thành tựu?
- “Nhà vua
thuộc dòng Sát-lỵ, từ bảy đời trở lại cha mẹ đều chân chánh,
không bị người khinh chê. Đó là thành tựu pháp thứ nhất. Nhà
vua thuộc dòng tộc Sát-lỵ, có dung mạo đoan chánh. Đó là
pháp thứ hai.
- “Nhà vua
có giới đức tăng thạnh, trí tuệ đầy đủ. Đó là pháp thứ ba.
Nhà vua tập đủ các loại kỹ thuật: cưỡi voi, xe ngựa, đao
mâu, cung tên, phương pháp chiến đấu; không thứ nào là không
biết. Đó là pháp thứ tư. Nhà vua có uy lực lớn, thâu nhiếp
các tiểu vương; không ai không thần phục. Đó là pháp thứ
năm. Nhà vua khéo léo về ngôn ngữ, lời nói dịu dàng, đầy đủ
nghĩa và vị. Đó là pháp thứ sáu. Nhà vua có tài bảo dồi dào,
kho tàng đầy ắp. Đó là pháp thứ bảy. Nhà vua có trí mưu,
dũng mãnh, quả cảm, không hề run sợ. Đó là pháp thứ tám. Nhà
vua thuộc dòng Sát-lỵ kia thành tựu tám pháp này.
- “Thế nào
là đại thần thành tựu bốn pháp? Đại thần Bà-la-môn kia từ
bảy đời nay cha mẹ đều chân chánh không bị người khinh chê;
đó là pháp thứ nhất. Đại thần đọc tụng thông suốt ba bộ dị
học, có khả năng phân tích các loại kinh thư; thế điển u vi,
không thứ nào không tổng luyện; lại giỏi phép xem tướng đại
nhân, dự đoán tốt xấu, tế tự nghi lễ; đó là pháp thứ hai.
Lại nữa, đại thần giỏi về ngôn ngữ, lời nói dịu dàng, nghĩa
vị đầy đủ; đó là pháp thứ ba. Lại nữa, đại thần có trí mưu,
dũng cảm, quả quyết, không hề run sợ; thấu hiểu tất cả mọi
pháp tế tự; đó là pháp thứ tư.
- “Bấy giờ,
vua thành tựu tám pháp; đại thần Bà-la-môn thành tựu bốn
pháp; và vua có đủ bốn viện trợ. Đó là, ba pháp tế tự, với
mười sáu tư cụ tế tự.
- “Bấy giờ,
đại thần Bà-la-môn ở nơi ngôi nhà mới mở bày tâm ý của vua
bằng mười sáu việc, dứt trừ ý tưởng nghi ngờ của vua. Mười
sáu việc ấy là gì? Đại thần tâu vua:
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng từ bảy
đời trở lại cha mẹ vua không chân chánh, thường bị người
khinh chê. Giả sử có lời ấy, Đại vương vẫn không bị ô uế. Vì
sao? Đại vương từ bảy đời nay cha mẹ đều chân chánh.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng dung
mạo xấu xí, không thuộc dòng dõi Sát-lỵ. Giả sử có lời ấy,
Đại vương vẫn không bị ô uế. Vì sao? Đại vương có dung mạo
đoan chánh, thuộc dòng dõi Sát-lỵ.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng không
có giới tăng thượng, trí tuệ không đầy đủ. Giả sử có lời như
vậy, Đại vương vẫn không bị ô uế. Vì sao? Đại vương giới đức
tăng thượng, trí tuệ đầy đủ.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng không
giỏi các thuật: cưỡi voi, xe ngựa, các thứ binh pháp cũng
không biết. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn không bị ô
uế. Vì sao? Đại vương giỏi các kỹ thuật, binh pháp chiến
trận, không thứ nào không biết.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng không
có uy lực lớn để thống nhiếp các tiểu vương. Giả sử có lời
như vậy, Đại vương vẫn không bị ô uế. Vì sao? Đại vương có
uy lực lớn, thống nhiếp các tiểu vương.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng không
giỏi ngôn ngữ; lời nói thô lỗ, không đủ nghĩa vị. Giả sử có
lời như vậy, Đại vương vẫn không bị ô uế. Vì sao? Đại vương
giỏi ngôn ngữ, lời nói dịu dàng, đầy đủ nghĩa và vị.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng không
có nhiều tài bảo. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn không
bị ô uế. Vì sao? Đại vương có nhiều tài bảo, kho lẫm tràn
đầy.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng không
có trí mưu, ý chí khiếp nhược. Giả sử có lời như vậy, Đại
vương vẫn không bị ô uế. Vì sao? Đại vương có trí mưu, dũng
mãnh và quả cảm, không hề khiếp nhược.
- “Hoặc có người nói, nay vua
Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng không nói với nội cung.
Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn không bị ô uế. Vì sao?
Đại vương muốn tế tự, trước đã nói cho nội cung.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng không
nói với thái tử và các hoàng tử. Giả sử có lời như vậy, Đại
vương vẫn không bị ô uế. Vì sao? Đại vương muốn tế tự, trước
đã nói với thái tử và các hoàng tử.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng không
nói với quần thần. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn
không bị ô uế. Vì sao? Đại vương muốn tế tự, trước đã nói
với quần thần.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng không
nói với tướng sĩ. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn không
bị ô uế. Vì sao? Đại vương muốn tế tự, trước đã nói với
tướng sĩ.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng
Bà-la-môn đại thần từ bảy đời trở lại cha mẹ không chân
chánh, bị người khinh chê. Giả sử có lời như vậy, Đại vương
vẫn không bị ô uế. Vì sao? Tôi bảy đời trở lại cha mẹ chân
chánh, không bị người khinh chê.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng
Bà-la-môn đại thần không đọc tụng thông suốt ba bộ dị học,
không có khả năng phân tích các thứ kinh thư, thế điển u vi
không hề lão luyện, không giỏi phép xem tướng đại nhân, dự
đoán cát hung, tế tự nghi lễ. Giả sử có lời như vậy, Đại
vương vẫn không bị ô uế. Vì sao? Tôi đọc tụng thông suốt ba
bộ dị học, có khả năng phân tích các thứ kinh thư, thế điển
u vi không thứ nào không lão luyện, lại giỏi phép xem tướng
đại nhân, dự đoán cát hung, tế tự nghi lễ.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng
Bà-la-môn đại thần không giỏi ngôn ngữ; nói năng thô lỗ,
nghĩa vị không đủ. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn
không bị ô uế. Vì sao? Tôi khéo léo nơi ngôn ngữ; nói năng
dịu dàng, đầy đủ nghĩa và vị.
- “Hoặc có
người nói, nay vua Sát-lỵ muốn cử hành đại tự, nhưng
Bà-la-môn đại thần không đủ mưu trí, ý chí khiếp nhược,
không hiểu rõ phép tế tự. Giả sử có lời như vậy, Đại vương
vẫn không bị ô uế. Vì sao? Tôi đủ mưu trí, ý chí không khiếp
nhược, không phép tế tự nào mà không hiểu rõ.”
- Phật bảo
Cứu-la-đàn-đầu:
- “Nhà vua
có mười sáu chỗ ngờ vực, mà đại thần kia cởi mở ý vua bằng
mười sáu việc như thế.”
- Rồi Phật
nói tiếp:
- “Bấy giờ,
vị đại thần ở nơi ngôi nhà mới, bằng mười sự hành, chỉ bày,
khuyến khích, khiến cho được ích lợi, hoan hỷ cho nhà vua.
Những gì là mười?
- “Vị đại
thần nói: Khi Đại vương tế tự, những kẻ sát sanh hay những
kẻ không sát sanh cùng tụ hội đến. Hãy bố thí cho họ một
cách bình đẳng. Nếu có những kẻ sát sanh đến, cũng bố thí
cho và kia sẽ tự biết lấy. Kẻ không sát sanh đến, cũng bố
thí cho, vì lý do ấy mà bố thí; bố thí với tâm như vậy . Nếu
có những kẻ trộm cắp, tà dâm, hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, ỷ
ngữ, tham lam, tật đố, tà kiến, cùng tụ hội đến, hãy bố thí
cho họ. Kia sẽ tự biết lấy. Nếu những kẻ không trộm cắp, cho
đến, có chánh kiến, cùng đến, cũng hãy bố thí cho họ, vì sự
ấy mà bố thí, bố thí với tâm như vậy.
- Phật lại
nói với Bà-la-môn:
- “Vị đại
thần kia, bằng mười sự hành này, chỉ bày, khuyến khích,
khiến cho được lợi ích, hoan hỷ.”
- “Rồi thì,
vua Sát-lỵ kia ở nơi ngôi nhà mới sanh ba tâm hối tiếc. Vị
đại thần khiến cho được dứt trừ. Ba tâm hối là gì?
- “Nhà vua
sanh tâm hối tiếc rằng: Ta nay tổ chức đại tự, đã làm đại
tự, sẽ làm đại tự, đang làm đại tự. Tốn nhiều tài bảo. Đại
thần tâu vua: Đại vương đã tổ chức đại tự, đã bố thí, sẽ bố
thí, đang bố thí. Không nên sanh hối tiếc đối với tế tự có
phước này.
- “Như thế,
nhà vua khi ở ngôi nhà mới có ba sự hối tiếc, đã được đại
thần dứt trừ.”
- Phật lại
nói với Bà-la-môn:
- “Bấy giờ,
vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ, vào ngày rằm, khi trăng tròn, ra
khỏi ngôi nhà mới, tại khoảng đất trống trước nhà, đốt lên
một đống lửa lớn. Tay vua cầm bình dầu rót lên ngọn lửa,
xướng lên rằng: Hãy cho! Hãy cho!
- “Khi ấy phu nhân của vua hay
tin nhà vua, vào ngày rằm trăng tròn, ra khỏi nhà mới, tại
khoảng đất trống trước nhà, đốt lên một đống lửa lớn, tay
cầm bình dầu rót lên ngọn lửa, xướng lên rằng: Hãy cho! Hãy
cho! Bà cùng với thể nữ cầm nhiều tài bảo, đi đến chỗ vua,
tâu vua rằng:
- “Các tạp
bảo này, giúp Đại vương làm tế tự.
- “Này
Bà-la-môn, nhà vua liền nói với phu nhân và thể nữ rằng:
- “Thôi, đủ
rồi. Các ngươi như thế là đã cúng dường rồi. Ta có sẵn tài
bảo riêng mình, đủ để tế tự.
- “Phu nhân
và các thể nữ suy nghĩ: Chúng ta không nên mang các bảo vật
này trở về nội cung. Nếu khi đức vua thiết lễ đại tự ở
phương Đông, chúng ta sẽ dùng để hỗ trợ.
- “Này
Bà-la-môn, sau đó nhà vua ở phương Đông thiết lễ đại tự, khi
ấy phu nhân và các thể nữ liền đem các bảo vật ấy trợ giúp
thiết lễ đại tự.
- “Bấy
giờớ, thái tử, hoàng tử, hay tin nhà vua, vào ngày rằm trăng
tròn, ra khỏi nhà mới, tại khoảng đất trống trước nhà, đốt
lên một đống lửa lớn, tay cầm bình dầu rót lên ngọn lửa,
xướng lên rằng: Hãy cho! Hãy cho! Thái tử, hoàng tử cầm
nhiều tài bảo, đi đến chỗ vua, tâu vua rằng:
- “Các tạp
bảo này, giúp Đại vương làm tế tự.
- “Này
Bà-la-môn, nhà vua liền nói với thái tử và hoàng tử.
- “Thôi, đủ rồi. Các ngươi như
thế là đã cúng dường rồi. Ta có sẵn tài bảo riêng mình, đủ
để tế tự.
- “Thái tử,
hoàng tử suy nghĩ: Chúng ta không nên mang các bảo vật này
trở về. Nếu khi đức vua thiết lễ đại tự ở phương Nam, chúng
ta sẽ dùng để hỗ trợ.
- “Này
Bà-la-môn, sau đó nhà vua ở phương thiết lễ đại tự, khi ấy
thái tử, hoàng tử liền đem các bảo vật ấy trợ giúp thiết lễ
đại tự.
- “Cũng
vậy, đại thần cầm tài bảo đến, hỗ trợ vua tế tự ở phương
tTây. Tướng sĩ cầm tài bảo đến hỗ trợ vua tế tự ở phương
bBắc.”
- Phật lại
nói với Bà-la-môn:
- “Nhà vua
kia khi cử hành đại tự không giết bò, dê và các chúng sanh;
chỉ dùng bơ, sữa, dầu mè, mật, đường đen, đường thẻ để tế
tự.”
- Phật lại
nói với Bà-la-môn:
- “Vua
Sát-lỵ kia khi cử hành đại tự, khoảng đầu hoan hỷ, khoảng
giữa hoan hỷ, khoảng cuối hoan hỷ. Đó là phép tổ chức tế
tự.”
- Phật lại
nói với Bà-la-môn :
- “Vua
Sát-lỵ kia, sau khi cử hành đại tự, cạo bỏ râu tóc, mặc ba
pháp y, xuất gia hành đạo, tu Bốn vô lượng tâm. Khi thân
hoại mạng chung, sanh lên cõi Phạm thiên.
- “Phu nhân
của vua, sau khi cử hành đại tự, cũng cạo tóc, mặc ba pháp
y, xuất gia hành đạo, hành bốn phạm hạnh. Khi thân hoại mạng
chung, sanh lên cõi Phạm thiên.
- “Đại thần
Bà-la-môn sau khi chỉ dẫn vua tế tự bốn phương, cũng tổ chức
đại thí, sau đó cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia hành
đạo, hành bốn phạm hạnh. Khi thân hoại mạng chung, sanh lên
cõi Phạm thiên.”
- Phật lại
nói với Bà-la-môn:
- “Bấy giờ,
nhà vua bằng ba pháp tế tự, mười sáu tư cụ tế tự, đã tổ chức
thành công đại tự. Ý ông nghĩ sao?”
- Cứu-la-đàn-đầu nghe Phật
nói, im lặng không trả lời. Lúc ấy, năm trăm Bà-la-môn hỏi
Cứu-la-đàn-đầu:
- “Những
điều Sa-môn Cù-đàm nói thật vi diệu, sao Đại sư im lặng
không trả lời?”
-
Cứu-la-đàn-đầu đáp:
- “Những
điều Sa-môn Cù-đàm nói thật là vi diệu. Không phải tôi không
thừa nhận. Lý do mà tôi im lặng, là vì có điều suy nghĩ.
Sa-môn Cù-đàm nói sự việc này, không nói là nghe từ người
khác. Tôi thầm nghĩ: Há Sa-môn Cù-đàm không phải là vua
Sát-lỵ kia chăng? Hoặc giả là vị đại thần Bà-la-môn kia
chăng?”
- Bấy giờ
Thế Tôn nói với Cứu-la-đàn-đầu:
- “Lành
thay, lành thay. Ngươi quán sát Như Lai, thật sự là thích
hợp. Vua Sát-lỵ cử hành đại tự lúc ấy há phải là ai khác
chăng? Chớ nhận xét như thế. Người ấy chính bản thân Ta vậy.
Ta lúc bấy giờ đã huệ thí rất lớn.”
-
Cứu-la-đàn-đầu bạch Phật rằng:
- “Chừng ấy
thôi, ba loại tế tự và mười sáu tư cụ tế tự, là được quả báo
lớn, hay còn có cái gì hơn thế nữa không?”
- Phật nói:
“Có”.
- Hỏi: “Đó
là cái gì?”
- Phật nói:
- “So với
ba tế tự và mười sáu tế cụ, nếu thường cúng dường chúng
Tăng, không để gián đoạn, công đức còn hơn nhiều.”
- Lại hỏi:
- “So với
ba tế tự và mười sáu tế cụ, nếu thường cúng dường chúng
Tăng, không để gián đoạn, do thế công đức tối thắng. Nhưng
còn có cái tối thắng nữa không?”
- Phật nói:
“Có”.
- Lại hỏi:
“Đó là cái gì?”
- Phật nói:
- “Nếu bằng
ba tế tự và mười sáu tế cụ và thường cúng dường chúng Tăng
không để gián đoạn, chẳng bằng vì Chiêu-đề tăng mà dựng tăng
phòng, nhà cửa, lầu gác. Thí ấy tối thắng.”
- Lại hỏi:
- “Bằng ba
tế tự và mười sáu tế cụ và thường cúng dường chúng Tăng
không để gián đoạn và vì Chiêu-đề tăng mà dựng tăng phòng,
nhà cửa, lầu gác; phước ấy tối thắng. Những có cái gì hơn
thế chăng?”
- Phật nói:
“Có”.
- Lại hỏi:
- “Đó là
cái gì?”
- Phật nói:
- “Nếu bằng
ba tế tự và mười sáu tế cụ và thường cúng dường chúng Tăng
không để gián đoạn và vì Chiêu-đề tăng mà dựng tăng phòng,
nhà cửa, lầu gác; chẳng bằng khởi tâm hoan hỷ, miệng tự phát
thành lời rằng: Tôi quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
Phước này tối thắng.”
- Lại hỏi:
- “Chừng ấy
ba pháp quy y được quả báo lớn, hay còn có cái gì hơn nữa?”
- Phật nói:
“Có”.
- Hỏi: “Đó
là cái gì?”
- Phật nói:
- “Nếu với
tâm hoan hỷ thọ và hành năm giới, suốt đời không giết, không
trộm, không tà dâm, không dối, không uống rượu; phước này
tối thắng.”
- Lại hỏi:
“Chừng ấy ba pháp tế tự (...), cho đến năm giới, được quả
báo lớn hay còn có cái gì hơn nữa?”
- Phật nói:
“Có”.
- Lại hỏi:
“Đó là cái gì?”
- Phật nói:
- “Nếu có
thể bằng Từ tâm nhớ nghĩ chúng sanh bằng khoảnh khắc vắt sữa
bò; phước ấy tối thắng.”
- Lại hỏi:
“Chừng ấy ba pháp tế tự, cho đến Từ tâm, được quả báo lớn,
hay còn có cái gì hơn nữa?”
- Phật nói:
“Có”.
- Lại hỏi:
“Đó là cái gì?”
- Phật nói:
- “Nếu Như
Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, có người
theo Phật pháp xuất gia tu đạo, mọi đức đều hoàn bị, cho
đến, đầy đủ ba minh, diệt các sự tối tăm, đầy đủ tuệ minh.
Vì sao? Vì không buông lung, ưa sống nơi thanh vắng; phước
này tối thắng.”
-
Cứu-la-đàn-đầu bạch Phật:
- “Thưa
Cù-đàm! Tôi vì tế tự mà chuẩn bị bò, dê mỗi thứ năm trăm
con. Nay sẽ thả hết, mặc chúng tùy ý đi tìm cỏ, nước. Tôi
nay quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, xin nhận tôi làm
Ưu-bà-tắc trong chánh pháp. Từ nay về sau, cho đến hết đời,
không giết, không trộm, không tà dâm, không dối, không uống
rượu. Cúi mong Thế Tôn cùng đại chúng nhận lời mời sáng mai
của tôi.”
- Bấy giờ,
Thế Tôn im lặng nhận lời.
- Bà-la-môn
thấy Phật im lặng nhận lời, liền đứng dậy lễ Phật, đi quanh
ba vòng, rồi lui ra.
- Trở về
nhà, ông sửa soạn đủ các loại hào soạn. Sáng hôm sau, khi
đến thời, Thế Tôn khoác y, cầm bát, cùng với chúng Đại
Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người, đi đến nhà
Bà-la-môn, ngồi trên chỗ dọn sẵn. Khi ấy Bà-la-môn tự tay
châm chước, cúng Phật và Tăng. Ắn xong, thâu y bát, dùng
nước rửa xong, Phật đọc cho Bà-la-môn nghe một bài tụng:
- Tế tự,
lửa là nhất.
- Đọc tụng,
thơ là nhất.
- Loài
người, vua là nhất.
- Các sông,
biển là nhất.
- Các sao,
trăng là nhất.
- Ánh sáng,
mặt trời nhất.
- Trên,
dưới và bốn phương,
- Phàm sanh
vật hiện hữu,
- Chư Thiên
và Người đời,
- Duy chỉ
Phật tối thượng.
- Ai muốn
cầu đại phúc,
- Hãy cúng
dường Tam bảo.
- Bấy giờ
Cứu-la-đàn-đầu lấy một cái ghế nhỏ ngồi trước Phật. Thế Tôn
thuyết pháp cho ông theo thứ tự, chỉ bày, khuyến khích,
khiến được lợi ích, hoan hỷ. Ngài nói về thí, về giới, về
sanh thiên; nói dục là tai họa, phiền não là chướng ngại,
xuất ly là tối thượng, phân bố, hiển thị các hạnh thanh
tịnh.
- Rồi Thế
Tôn quán sát Bà-la-môn, ý chí đã mềm dịu, ấm cái đã vơi nhẹ,
dễ được điều phục. Như thường pháp của chư Phật, Ngài giảng
thuyết cho ông về Khổ thánh đế, phân biệt hiển thị, thuyết
Tập thánh đế, Tập diệt thánh đế. Cứu-la-đàn-đầu ngay trên
chỗ ngồi mà xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh. Cũng như
tấm lụa trắng rất dễ nhuộm màu. Bà-la-môn Cứu-la-đàn-đầu
cũng vậy, thấy pháp, đắc pháp, thành tựu đạo quả, quyết định
an trú, tự tín không do ai, đắc vô sở úy, bèn bạch Phật
rằng:
- “Nay con
ba lần xin quy y Phật, Pháp, Thánh chúng. Nguyện Phật chấp
thuận con là một Ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp. Từ nay về
sau, cho đến trọn đời, không giết, không trộm, không tà dâm,
không dối, không uống rượu.”
- Rồi lại bạch Phật tiếp rằng:
- “Cúi mong
Thế Tôn nhận lời mời của con trong bảy ngày.”
- Thế Tôn
khi ấy im lặng nhận lời.
- Trong bảy
ngày ấy, Bà-la-môn tự tay châm chước, cúng Phật và Tăng. Qua
bảy ngày, Thế Tôn du hành trong nhân gian.
- Phật đi
chưa bao lâu, Cứu-la-đàn-đầu mắc bệnh mà mạng chung. Khi ấy,
số đông Tỳ-kheo nghe tin Cứu-la-đàn-đầu sau khi cúng dường
Phật bảy ngày và khi Phật đi chưa lâu, ông lâm bệnh mà mạng
chung. Các Tỳ-kheo này bèn nghĩ thầm rằng: “Người kia nay
mạng chung, sẽ sanh về đâu?" Rồi các Tỳ-kheo đi đến chỗ
Phật, lễ dưới chân Phật xong, ngồi xuống một bên, bạch Phật
rằng:
-
“Cứu-la-đàn-đầu nay mạng chung, sẽ sanh về đâu?”
- Phật nói
với các Tỳ-kheo:
- “Người ấy
tịnh tu phạm hạnh, thành tựu pháp và tùy pháp và cũng không
bị xúc nhiễu bởi pháp, do đã đoạn trừ năm hạ phần kết, hiện
Bát-niết-bàn ở nơi kia, không trở lại cõi này nữa.”
- Bấy giờ,
các Tỳ-kheo sau khi nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ phụng
hành.
- --o0o--
|
|