|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH TRƯỜNG A
HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá &
Trúc Phật Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
- PHẦN III
- 26. KINH
TAM MINH
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời,
Phật ở tại nước Câu-tát-la, du hành nhân gian, cùng với
chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người, đến
Y-xa-năng-già-la, thôn Bà-la-môn ở Câu-tát-la. Ngài nghỉ đêm
trong rừng Y-xa.
- Bấy giờ,
có Bà-la-môn tên Phất-già-la-sa-la, Bà-la-môn tên Đa-lê-xa,
có duyên sự nên cùng đến thôn Y-xa-năng-già-la. Bà-la-môn
Phất-già-la-sa-la này, từ bảy đời nay cha mẹ chân chánh
không bị người khinh chê, tụng đọc thông suốt ba bộ dị điển,
có khả năng phân tích các loại kinh thư, lại giỏi phép xem
tướng đại nhân, quán sát cát hung, tế tự nghi lễ. Ông có năm
trăm đệ tử, dạy dỗ không bỏ phế. Trong số đó có một đệ tử
tên Bà-tất-tra, từ bảy đời nay cha mẹ chân chánh không bị
người khinh chê, tụng đọc thông suốt ba bộ dị điển, có khả
năng phân tích các loại kinh thư, lại giỏi phép xem tướng
đại nhân, quán sát cát hung, tế tự nghi lễ; cũng có năm trăm
đệ tử, dạy dỗ không bỏ phế.
- Bà-la-môn
Đa-lê-xa cũng từ bảy đời nay cha mẹ chân chánh không bị
người khinh chê, tụng đọc thông suốt ba bộ dị điển, có khả
năng phân tích các loại kinh thư, cũng giỏi phép xem tướng
đại nhân, quán sát cát hung, tế tự nghi lễ. Ông cũng có năm
trăm đệ tử, dạy dỗ không bỏ phế. Trong số đó có một đệ tử
tên Phả-la-đọa từ bảy đời nay cha mẹ chân chánh không bị
người khinh chê, tụng đọc thông suốt ba bộ dị điển, có khả
năng phân tích các loại kinh thư, lại giỏi phép xem tướng
đại nhân, quán sát cát hung, tế tự nghi lễ; cũng có năm trăm
đệ tử, dạy dỗ không bỏ phế.
- Lúc bấy
giờ, Bà-tất-tra và Phả-la-đọa, hai người vào lúc tảng sáng
đi đến khu vườn cùng nhau bàn luận. Bà-tất-tra nói với
Phả-la-đọa:
- “Con
đường của ta chân chánh, có khả năng xuất yếu, dẫn đến Phạm
thiên. Đó là điều mà Đại sư Phất-già-la-sa-la Bà-la-môn
dạy.”
-
Phả-la-đọa lại nói:
- “Con
đường của ta chân chánh, có khả năng xuất yếu, dẫn đến Phạm
thiên. Đó là điều mà Đại sư Đa-lê-xa Bà-la-môn dạy.”
- Như vậy,
Bà-tất-tra ba lần tự khen đạo mình chân chánh. Phả-la-đọa
cũng ba lần tự khen đạo mình chân chánh. Hai người cùng bàn
luận mà không thể quyết định.
- Rồi
Bà-tất-tra nói với Phả-la-đọa rằng:
- “Ta nghe
nói Sa-môn Cù-đàm, con nhà dòng họ Thích, xuất gia và đã
thành đạo, ở Câu-tát-la, du hành nhân gian, nay đang nghỉ
tại rừng Y-xa-năng-già-la. Ngài có tiếng tăm lớn, lưu truyền
khắp thiên hạ, rằng, Ngài là Bậc Như Lai, Chí Chân, Đẳng
Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ở giữa chư Thiên, người đời,
Sa-môn, Bà-la-môn, tự mình chứng ngộ, rồi thuyết pháp cho
người khác; lời nói khoảng đầu, khoảng giữa, khoảng cuối
thảy đều chân chánh, nghĩa vị đầy đủ, phạm hạnh thanh tịnh.
Bậc Chân Nhân như vậy, ta nên đến thăm viếng. Ta nghe nói
Sa-môn Cù-đàm kia biết con đường Phạm thiên, có thể giảng
thuyết cho người. Ngài thường nói chuyện, trao đổi với Phạm
thiên. Chúng ta hãy cùng nhau đi đến Cù-đàm để giải quyết ý
nghĩa này. Nếu Sa-môn có nói điều gì, chúng ta sẽ vâng nhớ.”
- Bấy giờ, Bà-tất-tra và
Phả-la-đọa, hai người theo nhau đi vào rừng
Y-xa-năng-già-la, đến chỗ Thế Tôn, chào hỏi xong, ngồi xuống
một bên.
- Thế Tôn
biết ý nghĩ trong lòng hai người, bèn hỏi Bà-tất-tra:
- “Các
ngươi hai người vào lúc tảng sáng đi vào khu vườn, cùng nhau
thảo luận như vậy, cùng bài bác lẫn nhau. Một người nói: Con
đường của ta chân chánh, có khả năng xuất yếu, dẫn đến Phạm
thiên. Đó là điều mà Đại sư Phất-già-la-sa-la Bà-la-môn dạy.
Người kia nói: Con đường của ta chân chánh, có khả năng xuất
yếu, dẫn đến Phạm thiên. Đó là điều mà Đại sư Đa-lê-xa
Bà-la-môn dạy. Như vậy ba lần, các ngươi bài bác nhau. Có sự
việc như vậy không?”
-
Bà-tất-tra và Phả-la-đọa khi nghe lời này của Phật thảy đều
kinh ngạc, lông tóc dựng đứng, trong lòng nghĩ thầm: Sa-môn
Cù-đàm có đại thần đức, biết trong tâm người. Những điều mà
chúng ta muốn thảo luận, Sa-môn Cù-đàm đã nói trước rồi. Rồi
Bà-tất-tra bạch Phật:
- “Con
đường này và con đường kia, đều tự xưng là chân chánh, đều
có khả năng xuất yếu, dẫn đến Phạm thiên. Điều mà Bà-la-môn
Phất-già-la-sa-la nói đúng hay điều mà Đa-lê-xa nói đúng?”
- Phật nói:
- “Giả sử,
Bà-tất-tra, con đường này, con đường kia đều chân chánh,
xuất yếu, dẫn đến Phạm thiên, các ngươi sao lại đi vào khu
vườn lúc tảng sáng mà bài bác lẫn nhau, cho đến ba lần?”
-
Bà-tất-tra bạch Phật:
- “Có những
Bà-la-môn thông ba minh giảng thuyết các con đường khác
nhau, con đường tự tại dục, con đường tự tác, con đường Phạm
thiên. Cả ba con đường ấy đều dẫn đến Phạm thiên. Cũng như
những con đường trong xóm, tất cả đều dẫn về thành, các
Bà-la-môn tuy nói những con đường khác nhau, nhưng đều hướng
đến Phạm thiên.”
- Phật hỏi
Bà-tất-tra:
- “Có phải
các con đường kia thảy đều thú hướng Phạm thiên?”
- Đáp:
“Thảy đều thú hướng”.
- Phật lặp
lại câu hỏi ba lần:
- “Có phải
các con đường kia thảy đều thú hướng Phạm thiên?”
- Đáp:
“Thảy đều thú hướng”.
- Thế Tôn
sau khi đã xác định lời ấy rồi, bèn hỏi Bà-tất-tra:
- “Thế nào,
trong số các Bà-la-môn thông tam minh có ai đã từng thấy
Phạm thiên chưa?”
- Đáp:
“Không có ai thấy”.
- “Thế nào,
Bà-tất-tra, tiên sư của Bà-la-môn thông tam minh có từng
thấy Phạm thiên chưa?”
- Đáp:
“Không ai thấy”.
- “Thế nào,
Bà-tất-tra, các Bà-la-môn kỳ cựu, các tiên nhân thông tam
minh thời cổ, đọc tụng thông suốt, có thể thuyết cho người
khác nghe các tán tụng cổ, các ca vịnh, thi thư, những vị có
tên là A-tra-ma Bà-la-môn, Bà-ma-đề-bà Bà-la-môn,
Tỳ-bà-thẩm-tra Bà-la-môn, Y-ni-la-tư Bà-la-môn, Xà-bà-đề-già
Bà-la-môn, Bà-bà-tất Bà-la-môn, Ca-diệp Bà-la-môn, A-lâu-na
Bà-la-môn, Cù-đàm-ma Bà-la-môn, Thủ-chỉ Bà-la-môn,
Bà-la-tổn-đà Bà-la-môn ; những vị này có được thấy Phạm
thiên không?”
- Đáp:
“Không có ai thấy”.
- Phật nói:
- “Nếu
Bà-la-môn thông tam minh kia không thấy Phạm thiên, tiên sư
của Bà-la-môn thông tam minh cũng không thấy Phạm thiên, các
Bà-la-môn thông tam minh, những cựu tiên nhân, như A-tra-ma
v.v..., cũng không một ai thấy Phạm thiên, thế thì biết rằng
những điều mà Bà-la-môn thông tam minh nói không phải là sự
thật.”
- Phật lại
nói với Bà-tất-tra:
- “Như có
một người dâm, nói rằng: Tôi cùng với người nữ đẹp đẽ kia
thông giao, ca ngợi dâm pháp. Những người khác liền hỏi: Ông
có biết người nữ ấy không? Cô ấy ở đâu? Phương Đông, phương
Tây, phương Nam, hay phương Bắc? Đáp: Không biết. Lại hỏi:
Ông có biết đất, đai, thành ấp, chòm xóm mà người nữ ấy ở
không? Đáp: Không biết.Lại hỏi: Ông có biết cha mẹ cô ấy tên
gì không? Đáp: Không biết. Lại hỏi: Ông có biết người nữ ấy
là Sát-lỵ, hay Bà-la-môn, hay Cư sĩ, hay Thủ-đà-la không?
Đáp: Không. Lại hỏi: Ông có biết người nữ ấy cao hay thấp,
mập hay gầy, đen hay trắng, đẹp hay xấu không? Đáp: Không.
Thế nào, Bà-tất-tra, sự ca ngợi của người kia có phải sự
thật không?”
- Đáp:
“Không thật”.
- “Như vậy,
Bà-tất-tra, những điều mà Bà-la-môn thông tam minh nói cũng
như vậy, không có sự thật. Thế nào, Bà-tất-tra, Bà-la-môn
thông tam minh của ngươi thấy nơi chốn mà mặt trời, mặt
trăng mọc, lặn, du hành, chắp tay cúng dường và có thể nói
như vầy: Con đường này chân chánh, có thể dẫn đến xuất yếu,
đến chỗ mặt trời, mặt trăng được chăng?”
- Đáp:
“Thật vậy, Bà-la-môn thông tam minh thấy nơi chốn mà mặt
trời, mặt trăng mọc, lặn, du hành, chắp tay cúng dường,
nhưng không thể nói như vầy: Con đường này chân chánh, có
thể dẫn đến xuất yếu, đến chỗ mặt trời, mặt trăng.”
- Phật nói:
- “Như vậy,
Bà-tất-tra, Bà-la-môn thông tam minh thấy nơi chốn mà mặt
trời, mặt trăng mọc, lặn, du hành, chắp tay cúng dường,
nhưng không thể nói như vầy: Con đường này chân chánh, có
thể dẫn đến xuất yếu, đến chỗ mặt trời, mặt trăng. Nhưng lại
thường chắp tay cúng dường cung kính, há không phải là hư
dối sao?”
- Đáp: “Thật vậy, thưa Cù-đàm,
kia thật sự hư dối”.
- Phật nói:
- “Ví như
có người dựng thang nơi khoảng đất trống; những người khác
hỏi: Ngươi bắc thang làm gì? Đáp: Tôi muốn lên nhà trên.
Hỏi: Nhà ở chỗ nào? Đông, hay Tây, hay Nam, hay Bắc? Đáp
rằng: Không biết.
- Thế nào, Bà-tất-tra, người
ấy dựng thang để lên nhà, há không phải là hư dối sao?
- Đáp: Thật vậy, kia thật sự
hư dối.
- Phật nói:
-
“Bà-la-môn thông tam minh cũng vậy, hư dối không thật.
-
“Bà-tất-tra, năm dục khiết tịnh, rất đáng yêu thích. Những
gì là năm? Mắt thấy sắc, rất đáng yêu thích. Tai nghe tiếng,
mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, rất đáng yêu
thích, ở trong pháp Hiền thánh của Ta, được gọi là dính mắc,
là trói buộc, là xiềng xích. Bà-la-môn thông tam minh kia bị
nhiễm bởi năm dục, ái dục dính chặt, nhưng không thấy lỗi
lầm, không biết lối xuất yếu. Kia đã bị năm dục trói buộc,
giả sử có phụng sự nhật, nguyệt, thủy, hỏa và xướng lên
rằng: Xin tiếp đỡ tôi sanh lên Phạm thiên. Không có trường
hợp ấy. Ví như con sông A-di-la, có mức nước ngang bờ. Có
người ở bờ bên này, mình bị quấn chặt, kêu suông bờ bên kia
rằng: Lại đây, đưa tôi sang. Bờ kia có đến đưa người ấy sang
không?”
- Đáp:
“Không”.
-
“Bà-tất-tra, năm dục khiết tịnh, rất đáng yêu thích, ở trong
pháp Hiền thánh của Ta, được gọi là dính mắc, là trói buộc,
là xiềng xích. Bà-la-môn thông tam minh kia bị nhiễm bởi năm
dục, ái dục dính chặt, nhưng không thấy lỗi lầm, không biết
lối xuất yếu. Kia đã bị năm dục trói buộc, giả sử có phụng
sự nhật, nguyệt, thủy, hỏa và xướng lên rằng: Xin tiếp đỡ
tôi sanh lên Phạm thiên, thì cũng giống như vậy. Trọn không
thể xảy ra.
-
“Bà-tất-tra, ví như con sông A-di-la, nước tràn ngang bờ,
con quạ có thể uống được. Có người muốn sang, không bằng vào
sức của tay chân, thân mình, không nhân thuyền bè, mà có thể
sang được không?”
- Đáp:
“Không”.
-
“Bà-tất-tra, Bà-la-môn thông tam minh cũng vậy, không tu
hạnh thanh tịnh của Sa-môn, lại tu theo hạnh không thanh
tịnh của đạo khác, mà muốn cầu sanh Phạm thiên, không có
trường hợp đó.
-
“Bà-tất-tra, cũng như nước trong núi vọt mạnh ra, cuốn trôi
khá nhiều nhân dân, vả lại không có thuyền, bè, cũng không
có cầu bến. Người kia nghĩ thầm: Ta nên thâu lượm thật nhiều
cỏ và cây, buộc thành chiếc bè thật chắc chắn, rồi bằng sức
của thân mình mà sang bờ một cách an ổn. Bà-tất-tra, cũng
vậy, nếu Tỳ-kheo xả hạnh bất tịnh phi Sa-môn, tu hành phạm
hạnh thanh tịnh của Sa-môn, muốn sanh Phạm thiên; trường hợp
ấy có xảy ra.
- “Thế nào,
Bà-tất-tra, Phạm thiên có nhuế tâm hay không có nhuế tâm?”
- Đáp:
“Không có nhuế tâm”.
- Lại hỏi:
-
“Bà-la-môn thông tam minh có nhuế tâm hay không có nhuế
tâm?”
- Đáp: “Có
nhuế tâm”.
-
“Bà-tất-tra, Phạm thiên không có nhuế tâm. Bà-la-môn thông
tam minh có nhuế tâm. Nhuế tâm và không nhuế tâm không cùng
sống chung, không cùng giải thoát, không thú hướng đến nhau.
Vậy Phạm thiên và Bà-la-môn không sống chung.
- “Thế nào,
Bà-tất-tra, Phạm thiên có sân tâm, hay không có sân tâm.”
- Đáp:
“Không có sân tâm”.
- Lại hỏi:
-
“Bà-la-môn thông tam minh có sân tâm, hay không có sân tâm?”
- Đáp: “Có
sân tâm.”
-
“Bà-tất-tra, Phạm thiên không có sân tâm. Bà-la-môn thông
tam minh có sân tâm. Sân tâm và không sân tâm không cùng
sống chung, không cùng giải thoát, không thú hướng đến nhau.
Vậy Phạm thiên và Bà-la-môn không sống chung.
- “Thế nào,
Bà-tất-tra, Phạm thiên có hận tâm, hay không có hận tâm" ?”
- Đáp:
“Không có hận tâm.”
- Lại hỏi:
-
“Bà-la-môn thông tam minh có hận tâm, hay không có hận tâm?
- Đáp: “Có
hận tâm”.
- Phật nói:
- “Phạm
thiên không có sân tâm. Bà-la-môn thông tam minh có sân tâm.
Sân tâm và không sân tâm không cùng sống chung, không cùng
giải thoát, không thú hướng đến nhau. Vậy Phạm thiên và
Bà-la-môn không sống chung.
- “Thế nào,
Bà-tất-tra, Phạm thiên có gia thuộc, sản nghiệp không?”
- Đáp:
“Không”
- Lại hỏi:
-
“Bà-la-môn tam minh có gia thuộc, sản nghiệp không?”
- Đáp:
“Có”.
- Phật nói:
- “Phạm
thiên không có gia thuộc, sản nghiệp. Bà-la-môn thông tam
minh có gia thuộc, sản nghiệp. Người có gia thuộc, sản
nghiệp và người không gia thuộc, sản nghiệp không cùng sống
chung, không cùng giải thoát, không thú hướng đến nhau. Vậy
Phạm thiên và Bà-la-môn không sống chung.
- “Thế nào,
Bà-tất-tra, Phạm thiên có được tự tại hay không được tự
tại?”
- Đáp:
“Được tự tại”.
- Lại hỏi:
-
“Bà-la-môn tam minh có được tự tại, hay không được tự tại?
- Đáp:
“Không được tự tại”.
- Phật nói:
- “Phạm
thiên được tự tại. Bà-la-môn thông tam minh không được tự
tại. Người được tự tại và người không được tự tại cùng sống
chung, không cùng giải thoát, không thú hướng đến nhau. Vậy
Phạm thiên và Bà-la-môn không sống chung.”
- Phật lại
nói:
-
“Bà-la-môn tam minh kia, giả sử có người đến hỏi ý nghĩa sâu
xa, không thể trả lời đầy đủ, có thật như vậy không?”
- Đáp:
“Thật như vậy”.
- Bấy giờ,
Bà-tất-tra và Phả-la-đọa, hai người đều bạch Phật rằng:
- “Hãy gác qua một bên các đề
tài khác. Tôi nghe Sa-môn Cù-đàm biết rõ con đường Phạm
thiên, có thể giảng thuyết điều đó cho người khác; lại đã
cùng Phạm thiên gặp gỡ, qua lại chuyện trò. Cúi mong Sa-môn
Cù-đàm vì lòng từ mẫn, xin thuyết con đường Phạm thiên, xin
khai thị, phô diễn.”
- Phật nói
với Bà-tất-tra:
- “Ta nay
hỏi ngươi. Hãy tùy ý trả lời. Thế nào, Bà-tất-tra, nước Tâm
niệm kia cách đây gần xa?”
- Đáp:
“Gần”.
- “Giả sử
có người sanh trưởng ở nước này được người khác hỏi đường đi
đến nước này. Thế nào, Bà-tất-tra, người sanh trưởng ở nước
ấy trả lời đường đi cho người hỏi kia, há có đáng nghi ngờ
chăng?”
- Đáp:
“Không nghi. Vì sao? Vì y sanh trưởng ở nước này”.
- Phật nói:
- “Dù cho
người sanh trưởng ở nước này kia cũng có thể đáng nghi ngờ,
nhưng nếu có người hỏi Ta về con đường Phạm thiên, không có
điều gì nghi ngờ. Vì sao? Ta đã từng nhiều lần nói về con
đường Phạm thiên ấy.”
-
Bà-tất-tra và Phả-la-đọa, cả hai cùng bạch Phật:
- “Hãy gác
qua một bên các đề tài khác. Tôi nghe Sa-môn Cù-đàm biết rõ
con đường Phạm thiên, có thể giảng thuyết điều đó cho người
khác; lại đã cùng Phạm thiên gặp gỡ, qua lại chuyện trò. Cúi
mong Sa-môn Cù-đàm vì lòng từ mẫn, xin thuyết con đường Phạm
thiên, xin khai thị, phô diễn.”
- Phật nói:
- “Hãy lắng
nghe, hãy suy ngẫm kỹ. Ta sẽ nói cho ngươi nghe.”
- Đáp:
“Kính vâng. Xin vui lòng được nghe.”
- Phật nói:
- “Nếu Như
Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, đầy đủ mười
hiệu, cho đến, Tứ thiền, ở ngay trong đời này mà hưởng thọ
an lạc. Vì sao? Ầy do tinh cần, chuyên niệm không quên, ưa
sống một mình nơi thanh vắng, không buông lung vậy. Vị ấy
với Từ tâm tràn khắp một phương; các phương khác cũng vậy,
rộng khắp không biên tế, không hai, vô lượng, không hận, vô
hại, du hí với tâm ấy và hưởng thọ an lạc. Bi, Hỷ, Xả tâm
biến mãn một phương, phương khác cũng vậy, rộng khắp không
biên tế, không hai, vô lượng, không kết hận, không có ý não
hại, du hí với tâm ấy và hưởng thọ an lạc.
- “Thế nào,
Bà-tất-tra, Phạm thiên có nhuế tâm không?”
- Đáp:
“Không”.
- Lại hỏi:
- “Tỳ-kheo
hành Từ tâm có nhuế tâm, hay không có nhuế tâm?”
- Đáp:
“Không có nhuế tâm”.
- Phật nói:
- “Phạm
thiên không có nhuế tâm. Tỳ-kheo hành Từ tâm không có nhuế
tâm. Không nhuế tâm và không nhuế tâm cùng hướng đến nhau,
đồng giải thoát. Vì vậy, Phạm thiên và Tỳ-kheo cùng sống
chung.
- “Thế nào,
Bà-tất-tra, Phạm thiên có sân tâm, hay không có sân tâm?”
- Đáp:
“Không”.
- Lại hỏi:
- “Tỳ-kheo
hành Từ tâm có sân tâm, hay không có sân tâm?”
- Đáp:
“Không có sân tâm”.
- Phật nói:
- “Phạm
thiên không có sân tâm. Tỳ-kheo hành Từ tâm không có sân
tâm. Không sân tâm và không sân tâm cùng hướng đến nhau,
đồng giải thoát. Vì vậy, Phạm thiên và Tỳ-kheo cùng sống
chung.
- “Thế nào,
Bà-tất-tra, Phạm thiên có hận tâm, hay không có hận tâm?”
- Đáp:
“Không”.
- Lại hỏi:
- “Tỳ-kheo
hành Từ tâm có hận tâm, hay không có hận tâm?”
- Đáp:
“Không có hận tâm”.
- Phật nói:
- “Phạm
thiên không có hận tâm. Tỳ-kheo hành Từ tâm không có hận
tâm. Không hận tâm và không hận tâm cùng hướng đến nhau,
đồng giải thoát. Vì vậy, Phạm thiên và Tỳ-kheo cùng sống
chung.
- “Thế nào,
Bà-tất-tra, Phạm thiên có gia thuộc sản nghiệp hay không?”
- Đáp:
“Không”.
- Lại hỏi:
- “Tỳ-kheo
hành Từ tâm có gia thuộc, sản nghiệp hay không?”
- Đáp:
“Không có gia thuộc, sản nghiệp”.
- Phật nói:
- “Phạm
thiên không có gia thuộc, sản nghiệp. Tỳ-kheo hành Từ tâm
không có gia thuộc, sản nghiệp. Không gia thuộc, sản nghiệp
và không gia thuộc sản nghiệp cùng hướng đến nhau, đồng giải
thoát. Vì vậy, Phạm thiên và Tỳ-kheo cùng sống chung.
- “Thế nào,
Bà-tất-tra, Phạm thiên có được tự tại không?”
- Đáp:
“Được tự tại”.
- Lại hỏi:
- “Tỳ-kheo
hành Từ tâm có được tự tại không?”
- Đáp:
“Được tự tại”.
- Phật nói:
- “Phạm
thiên được tự tại. Tỳ-kheo hành Từ tâm được tự tại. Được tự
tại và được tự tại cùng hướng đến nhau, đồng giải thoát. Vì
vậy, Phạm thiên và Tỳ-kheo cùng sống chung.”
- Phật lại
nói với Bà-tất-tra:
- “Nên
biết, Tỳ-kheo hành Từ tâm, khi thân hoại mạng chung, trong
khoảnh khắc như mũi tên được bắn đi, sanh lên Phạm thiên.”
- Khi Phật
nói kinh này, Bà-tất-tra và Phả-la-đọa ngay trên chỗ ngồi mà
xa lìa trần cấu, ở trong các pháp phát sanh con mắt thấy
pháp.
- Bấy giờ,
Bà-tất-tra và Phả-la-đọa sau khi nghe những điều Phật dạy,
hoan hỷ phụng hành.
- --o0o--
|
|