|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH TRƯỜNG A
HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá &
Trúc Phật Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
- PHẦN III
- 28. KINH
BỐ-TRA-BÀ-LẤU
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời,
Phật ở tại nước Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp cô độc, cùng
với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người .
- Bấy giờ,
vào lúc sáng sớm, Thế Tôn khoác y cầm bát vào thành Xá-vệ
khất thực. Khi ấy, Thế Tôn nghĩ rằng:
- “Ngày hôm
nay khất thực, thời gian còn sớm, Ta hãy đến thăm khu rừng
của Phạm chí Bố-tra-bà-lâu ; đợi đến giờ rồi hãy đi khất
thực”. Rồi Ngài đi đến rừng của Phạm chí. Phạm chí
Bố-tra-bà-lâu từ xa trông thấy Phật đi đến, liền đứng dậy
nghinh đón rằng:
- “Hoan
nghinh, Sa-môn Cù-đàm! Lâu nay không đến. Nay vì duyên cớ gì
lại khuất mình chiếu cố? Xin mời ngồi phía trước đây.”
- Thế Tôn
ngồi xuống chỗ ấy, nói với Bố-tra-bà-lâu rằng:
- “Các ông
tập họp tại đây, để làm gì? Để bàn chuyện gì?”
- Phạm chí
bạch Phật:
- “Thế Tôn,
ngày hôm qua có nhiều Sa-môn, Bà-la-môn tập họp tại giảng
đường, bàn luận sự việc như vậy. Những vấn đề chống trái
nhau.
- “Cù-đàm,
hoặc có Phạm chí nói như vầy: Con người phát sanh tưởng
không do nhân gì duyên gì. Tưởng có đến, có đi. Đến thì
tưởng sanh. Đi thì tưởng diệt.
- “Cù-đàm,
hoặc có Phạm chí nói như vầy: Do mạng, có tưởng sanh; do
mạng, có tưởng diệt. Tưởng kia đi, đến. Đến thì tưởng sanh.
Đi thì tưởng diệt.
- “Cù-đàm,
hoặc có Phạm chí nói như vầy: Các thuyết nói trước đó không
đúng sự thật. Có vị đại quỷ thần, có uy lực lớn, mang tưởng
đi; mang tưởng đến. Khi vị ấy mang tưởng đi thì tưởng diệt.
Khi vị ấy mang tưởng đến thì tưởng sanh.
- “Tôi nhân
đó có suy nghĩ, nghĩ rằng Sa-môn Cù-đàm tất biết rõ ý nghĩa
này, tất có thể biết rõ tưởng tri diệt định.”
- Bấy giờ
Thế Tôn nói với Phạm chí rằng:
- “Các luận
thuyết ấy đều có chỗ sai lầm. Tức là nói không do nhân,
không do duyên mà có tưởng sanh; không do nhân, không do
duyên mà có tưởng diệt; tưởng có đến, đi; đến thì tưởng
sanh, đi thì tưởng diệt. Hoặc nói nhân bởi mạng mà tưởng
sanh, nhân bởi mạng mà tưởng diệt; tưởng có đến, đi; đến thì
tưởng sanh, đi thì tưởng diệt. Hoặc nói, không hề có chuyện
đó, mà là có một vị đại quỷ thần mang tưởng đến và mang
tưởng đi; khi vị ấy mang đến thì tưởng sanh; khi mang đi thì
tưởng diệt. Những lời như vậy thảy đều sai lầm. Vì sao? Này
Phạm chí, có nhân, có duyên để tưởng sanh. Có nhân, có duyên
để tưởng diệt.
- “Nếu Như
Lai xuất hiện ở đời; là Bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười
hiệu đầy đủ. Có người ở trong Phật pháp mà xuất gia tu đạo,
cho đến, diệt năm triền cái che lấp tâm, trừ khử dục, ác bất
thiện pháp, có giác có quán, hỷ lạc do định sanh, nhập Sơ
thiền. Trước diệt tưởng về dục, rồi phát sanh tưởng về hỷ và
lạc. Phạm chí, vì vậy biết có nhân duyên cho tưởng sanh, có
nhân duyên cho tưởng diệt.
- “Diệt
giác, quán, nội tâm hoan hỷ, nhất tâm, không giác, không
quán, hỷ và lạc do định sanh, nhập đệ Nhị thiền. Phạm chí,
kia tưởng của Sơ thiền diệt, tưởng của Nhị thiền sanh, vì
vậy nên biết có nhân duyên để tưởng diệt; có nhân duyên để
tưởng sanh.
- “Dứt hỷ,
an trú xả, chuyên niệm nhất tâm, tự biết thân lạc, điều mà
Hiền thánh mong cầu, hộ niệm thanh tịnh, nhập đệ Tam thiền.
Phạm chí, kia tưởng của Nhị thiền diệt, tưởng của Tam thiền
sanh. Vì vậy nên biết có nhân duyên để tưởng diệt, có nhân
duyên để tưởng sanh.
- “Dứt khổ,
dứt lạc, ưu và hỷ từ trước đã diệt, xả niệm thanh tịnh, nhập
đệ Tứ thiền. Phạm chí, kia tưởng Tam thiền diệt, tưởng Tứ
thiền sanh. Vì vậy biết rằng có nhân duyên để tưởng diệt; có
nhân duyên để tưởng sanh.
- “Xả hết
thảy tưởng về sắc, diệt nhuế, không niệm dị tưởng , nhập
không xứ. Này Phạm chí, tưởng về hết thảy sắc diệt, tưởng về
không xứ sanh. Vì vậy biết rằng có nhân duyên để tưởng sanh,
có nhân duyên để tưởng diệt.
- “Vượt hết
thảy không xứ, nhập thức xứ. Này Phạm chí, tưởng về không xứ
diệt, tưởng về thức xứ sanh. Vì vậy biết rằng có nhân duyên
để tưởng sanh, có nhân duyên để tưởng diệt.
- “Vượt hết
thảy thức xứ, nhập bất dụng xứ. Này Phạm chí, tưởng về thức
xứ diệt, tưởng về bất dụng xứ sanh. Vì vậy biết rằng có nhân
duyên để tưởng sanh, có nhân duyên để tưởng diệt.
- “Xả bất
dụng xứ, nhập hữu tưởng vô tưởng xứ. Này Phạm chí, tưởng về
bất dụng xứ diệt, tưởng về hữu tưởng vô tưởng xứ sanh. Vì
vậy biết rằng có nhân duyên để tưởng sanh, có nhân duyên để
tưởng diệt.
- “Kia xả
hữu tưởng vô tưởng xứ, nhập tưởng tri diệt định. Này Phạm
chí, tưởng về hữu tưởng vô tưởng xứ diệt; nhập tưởng tri
diệt định. Vì vậy biết rằng có nhân duyên để tưởng sanh, có
nhân duyên để tưởng diệt.
- “Vị ấy
khi đạt đến tưởng này rồi, suy nghĩ như vầy: có niệm là ác,
không niệm là thiện. Vị ấy khi suy nghĩ như vậy, tưởng vi
diệu của vị ấy không diệt, mà tưởng thô lại sanh. Vị ấy lại
suy nghĩ: Nay ta không nên niệm hành, không khởi tư duy. Vị
ấy khi không niệm hành, không khởi tư duy, tưởng vi diệu
diệt, tưởng thô không sanh. Khi vị ấy không niệm hành, tưởng
vi diệu diệt, tưởng thô không sanh, liền nhập định tưởng tri
diệt.
- “Thế nào,
Phạm chí, từ trước đến nay ông đã bao giờ nghe nhân duyên
của thứ tự diệt tưởng này chưa?”
- Phạm chí bạch Phật:
- “Tôi tin
là từ trước đến nay chưa bao giờ nghe đến nhân duyên của thứ
tự diệt tưởng này.”
- Phạm chí
lại bạch Phật:
- “Nay tôi
có ý nghĩ như vầy, tức là, đây là có tưởng; đây là không có
tưởng. Hoặc lại có tưởng. Sau khi có tưởng như vậy rồi, vị
ấy suy nghĩ như vầy: có niệm là ác, không niệm là thiện. Vị
ấy khi suy nghĩ như vậy, tưởng vi diệu của vị ấy không diệt,
mà tưởng thô lại sanh. Vị ấy lại suy nghĩ: Nay ta không nên
niệm hành, không khởi tư duy. Vị ấy khi không niệm hành,
không khởi tư duy, tưởng vi diệu diệt, tưởng thô không sanh.
Khi vị ấy không niệm hành, tưởng vi diệu diệt, tưởng thô
không sanh, liền nhập định tưởng tri diệt.”
- Phật nói
với Phạm chí:
- “Lành
thay, lành thay, đó là theo thứ tự đạt diệt tưởng định trong
pháp của Hiền thánh.”
- Phạm chí
lại bạch Phật:
- “Trong
các tưởng này, tưởng nào là tối thượng bậc nhất?”
- Phật nói
với Phạm chí:
- “Những gì
được nói là có tưởng và những gì được nói là không có tưởng,
ở khoảng trung gian đó mà có thể thứ tự đạt được tưởng tri
diệt định, đó là tưởng tối thượng bậc nhất.”
- Phạm chí
lại hỏi:
- “Là một
tưởng, hay nhiều tưởng?”
- Phật nói:
- “Có một
tưởng. Không có nhiều tưởng.”
- Phạm chí
lại hỏi:
- “Trước có
tưởng sanh sau đó mới trí, hay trước có trí sanh sau đó mới
tưởng?”
- Phật nói:
- “Trước có
tưởng sanh, sau đó mới trí. Do tưởng mà có trí.”
- Phạm chí
lại hỏi:
- “Tưởng
tức là ngã chăng?”
- Phật hỏi:
- “Ngươi
nói con người như thế nào là ngã?”
- Phạm chí
nói:
- “Tôi
không nói con người là ngã. Tôi tự nói, sắc thân với bốn
đại, sáu nhập, do cha mẹ sanh, được nuôi nấng mà lớn, trang
sức bằng y phục, nhưng là pháp vô thường, biến hoại. Tôi
nói, con người đó là ngã.”
- Phật nói
với Phạm chí:
- “Ngươi
nói, sắc thân với bốn đại, sáu nhập, do cha mẹ sanh, được
nuôi nấng mà lớn, trang sức bằng y phục, nhưng là pháp vô
thường, biến hoại. Nói con người đó là ngã. Này Phạm chí,
hãy gác qua tự ngã đó. Nhưng, tưởng của con người sanh,
tưởng của con người diệt “.”
- Phạm chí
nói:
- “Tôi
không nói con người là ngã. Tôi nói, Dục giới thiên là ngã.”
- Phật nói:
- “Này Phạm
chí, hãy gác qua Dục giới thiên là tự ngã đó. Nhưng, tưởng
của con người sanh, tưởng của con người diệt.”
- Phạm chí
nói:
- “Tôi
không nói con người là ngã. Tôi tự nói, Sắc giới thiên là
ngã" .”
- Phật nói:
- “Này Phạm
chí, hãy gác qua Sắc giới thiên là tự ngã đó. Nhưng, tưởng
của con người sanh, tưởng của con người diệt.”
- Phạm chí
nói:
- “Tôi
không nói con người là ngã. Tôi tự nói không xứ, thức xứ,
bất dụng xứ, hữu tưởng vô tưởng xứ, vô sắc thiên, là ngã.”
- Phật nói:
- “Hãy gác
qua không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, hữu tưởng vô tưởng xứ,
vô sắc thiên, là ngã. Nhưng, tưởng của con người sanh, tưởng
của con người diệt.”
- Phạm chí
bạch Phật:
- “Thế nào,
thưa Cù-đàm, tôi có thể biết được tưởng của con người sanh,
tưởng của con người diệt không?”
- Phật nói:
- “Ngươi
muốn biết tưởng của con người sanh, tưởng của con người
diệt. Thật quá khó! Thật quá khó! Vì sao vậy? Vì do ngươi, y
pháp khác mà có kiến giải khác, tập hành khác, nhẫn khác,
thọ khác.”
- Phạm chí
bạch Phật:
- “Thật
vậy, thưa Cù-đàm, tôi y theo pháp khác mà có kiến giải khác,
tập hành khác, nhẫn khác, thọ khác, cho nên, muốn biết tưởng
của con người sanh, tưởng của con người diệt, thật quá khó!
Thật quá khó! Vì sao vậy? Ngã, thế gian là thường hằng: đây
là thật, ngoài ra là dối. Ngã, thế gian là vô thường: đây là
thật, ngoài ra là dối. Ngã, thế gian vừa thường vừa vô
thường: đây là thật, ngoài ra là dối. Ngã, thế gian không
phải thường không phải vô thường: đây là thật, ngoài ra là
dối. Ngã, thế gian là hữu biên: đây là thật, ngoài ra là
dối. Ngã, thế gian là vô biên: đây là thật, ngoài ra là dối.
Ngã, thế gian vừa hữu biên vừa vô biên: đây là thật, ngoài
ra là dối. Ngã, thế gian không phải hữu biên không phải vô
biên: đây là thật, ngoài ra là dối. Thân tức là mạng: đây là
thật, ngoài ra là dối. Mạng khác thân khác: đây là thật,
ngoài ra là dối. Thân, mạng không phải khác không phải không
khác: đây là thật, ngoài ra là dối. Không mạng, không thân:
đây là thật, ngoài ra là dối. Như Lai có tận cùng: đây là
thật, ngoài ra là dối. Như Lai không có tận cùng: đây là
thật, ngoài ra là dối. Như Lai không phải có tận cùng không
phải không có tận cùng: đây là thật, ngoài ra là dối.”
- Phật nói
với Phạm chí:
- “Thế gian
là thường hằng, cho đến, Như Lai không phải có tận cùng
không phải không có tận cùng: là những câu hỏi Ta không trả
lời.”
- Phạm chí
bạch Phật:
- “Cù-đàm,
vì sao không trả lời, ngã và thế gian là thường hằng, cho
đến, Như Lai không phải có tận cùng không phải không có tận
cùng?”
- Phật nói:
- “Vì chúng
không phù hợp ý nghĩa, không phù hợp pháp, không phải phạm
hạnh, không phải vô dục, không phải vô vi, không phải tịch
diệt, không phải chỉ tức, không phải Chánh giác, không phải
Sa-môn, không phải Nê-hoàn. Vì vậy Ta không trả lời.”
- Phạm chí
lại hỏi:
- “Thế nào
là phù hợp nghĩa, phù hợp pháp? Thế nào là phạm hạnh sơ? Thế
nào là vô vi? Thế nào là vô dục? Thế nào là tịch diệt? Thế
nào là chỉ tức? Thế nào là Chánh giác? Thế nào là Sa-môn?
Thế nào là Nê-hoàn? Thế nào là vô ký?”
- Phật nói:
- “Ta trả
lời về Khổ đế, về Khổ tập, Khổ diệt, Khổ xuất yếu đế. Vì sao
vậy? Vì phù hợp nghĩa, phù hợp pháp, là phạm hạnh sơ thủ, là
vô dục, vô vi, tịch diệt, chỉ tức, Chánh giác, Sa-môn,
Nê-hoàn. Vì vậy Ta trả lời.”
- Bấy giờ,
Thế Tôn thuyết pháp cho Phạm chí nghe xong, chỉ bày, khuyến
khích, làm cho ích lợi, hoan hỷ, Ngài đứng dậy mà đi.
- Phật đi chưa bao lâu, sau đó
các Phạm chí khác nói với Phạm chí Bố-tra-bà-lâu rằng:
- “Tại sao
ngươi nghe theo những lời của Sa-môn Cù-đàm? Chấp nhận những
lời của Cù-đàm rằng: Ngã và thế gian là thường hằng, cho
đến, Như Lai không phải có tận cùng không phải không có tận
cùng, là những vấn đề không phù hợp nghĩa nên Ta không trả
lời. Tại sao ngươi ấn khả những lời như vậy? Chúng ta không
chấp nhận sở thuyết như vậy của Sa-môn Cù-đàm.”
-
Bố-tra-bà-lâu trả lời các Phạm chí:
- “Sa-môn
Cù-đàm nói rằng: Ngã và thế gian là thường hằng, cho đến,
Như Lai không phải có tận cùng không phải không có tận cùng,
là những vấn đề không phù hợp nghĩa nên Ta không trả lời.
Tôi cũng không ấn khả lời ấy. Nhưng Sa-môn Cù-đàm kia y trên
Pháp, trụ trên Pháp, đúng Pháp mà nói, đúng theo Pháp mà
xuất ly; làm sao tôi có thể chống lại lời nói có trí tuệ ấy?
Pháp ngôn vi diệu như thế của Sa-môn Cù-đàm, không thể chống
trái được.”
- Rồi, một
lúc khác, Phạm chí Bố-tra-bà-lâu cùng với Tượng Thủ
Xá-lợi-phất đến chỗ Thế Tôn, chào hỏi xong, ngồi xuống một
bên. Tượng Thủ lễ Phật xong rồi ngồi xuống. Phạm chí bạch
Phật:
- “Trước
đây Phật tại chỗ tôi. Khi Ngài đi chưa lâu, sau đó các Phạm
chí khác nói với tôi rằng: Tại sao ngươi nghe theo những lời
của Sa-môn Cù-đàm? Chấp nhận những lời của Cù-đàm rằng: Ngã
và thế gian là thường hằng, cho đến, Như Lai không phải có
tận cùng không phải không có tận cùng, là những vấn đề không
phù hợp nghĩa nên Ta không trả lời. Tại sao ngươi ấn khả
những lời như vậy? Chúng ta không chấp nhận sở thuyết như
vậy của Sa-môn Cù-đàm.Tôi trả lời các Phạm chí: Sa-môn
Cù-đàm nói rằng: Ngã và thế gian là thường hằng, cho đến,
Như Lai không phải có tận cùng không phải không có tận cùng,
là những vấn đề không phù hợp nghĩa nên Ta không trả lời.
Tôi cũng không ấn khả lời ấy. Nhưng Sa-môn Cù-đàm kia y trên
Pháp, trụ trên Pháp, đúng Pháp mà nói, đúng theo Pháp mà
xuất ly; làm sao chúng ta có thể chống lại lời nói có trí
tuệ ấy? Pháp ngôn vi diệu như thế của Sa-môn Cù-đàm, không
thể chống trái được.”
- Phật nói
với Phạm chí:
- “Các Phạm
chí nói: Ngươi tại sao nghe những điều Sa-môn Cù-đàm nói mà
ấn khả? Lời ấy sai lầm. Vì sao vậy? Pháp mà Ta nói, có
trường hợp được ghi nhận xác quyết, có trường hợp không được
ghi nhận xác quyết. Thế nào gọi là không ghi nhận xác quyết?
Ngã, thế gian thường hằng, cho đến, Như Lai không phải có
tận cùng không phải không có tận cùng. Ta cũng nói lời ấy,
nhưng không ghi nhận xác ký. Sở dĩ như vậy, vì những lời ấy
không phù hợp nghĩa, không phù hợp pháp, không phải là phạm
hạnh sơ, không phải vô dục, không phải vô vi, không phải
tịch diệt, không phải chỉ tức, không phải Chánh giác, không
phải Sa-môn, không phải Nê-hoàn. Vì vậy, này Phạm chí, Ta
tuy nói những lời ấy nhưng không ghi nhận xác quyết. Thế nào
gọi là ghi nhận xác quyết? Ta ghi nhận Khổ đế, Khổ tập, Khổ
diệt, Khổ xuất yếu đế. Vì sao vậy? Điều đó phù hợp nghĩa,
phù hợp pháp, là phạm hạnh sơ thủ, vô dục, vô vi, tịch diệt,
chỉ tức, Chánh giác, Sa-môn, Nê-hoàn. Vì vậy, Ta nói được
ghi nhận xác quyết.
- “Hoặc có Sa-môn,
Bà-la-môn, chủ trương ở một nơi thế gian chỉ có hoàn toàn
lạc. Ta nói với vị ấy rằng: Các ông có thật chủ trương ở một
nơi thế gian chỉ có hoàn toàn lạc chăng? Những vị ấy trả lời
Ta rằng: Thật vậy. Ta lại nói với họ rằng: Các ông có thấy,
biết một nơi thế gian chỉ có hoàn toàn lạc không? Họ trả
lời: Không thấy, không biết. Ta lại nói với họ: Chư Thiên ở
một nơi thế gian chỉ có hoàn toàn lạc ; các ông đã từng thấy
chưa? Kia đáp: Không biết, không thấy. Ta lại hỏi: Chư Thiên
ở một nơi thế gian kia, có bao giờ các ông từng cùng đứng
ngồi trò chuyện, tinh tấn tu định chưa? Đáp rằng: Chưa. Ta
lại hỏi: Chư Thiên ở một nơi thế gian hoàn toàn sung sướng
kia, có bao giờ đến nói với các ông chưa, rằng: Việc làm của
ngươi chất trực, ngươi sẽ sanh lên cõi trời hoàn toàn sung
sướng kia. Ta do việc làm chất trực, nên được sanh lên kia
cùng hưởng thọ dục lạc?? “Kia đáp rằng: Chưa. Ta lại hỏi:
Các ông có thể ở nơi thân của mình, khởi tâm biến hóa thành
thân tứ đại khác, thân thể đầy đủ, các căn không khuyết, hay
không? Kia đáp: Không thể. Thế nào, Phạm chí, những điều mà
Sa-môn, Bà-la-môn kia nói có thành thật chăng? Có thích ứng
với pháp chăng?”
- Phạm chí
bạch Phật:
- “Đấy
không phải là thành thật; không phải là lời nói đúng pháp.”
- Phật bảo
Phạm chí:
- “Như có
người nói: Tôi đã giao thông với người nữ xinh đẹp kia, khen
ngợi dâm nữ kia. Người khác hỏi: Ngươi có biết người nữ ấy
không? Ở tại địa phương nào: Đđông, tTây, Nnam, Bbắc? Đáp:
Không biết. Lại hỏi: Ngươi có biết đất đai, thành ấp, chòm
xóm mà người nữ ấy cư ngụ không? Đáp: Không biết. Lại hỏi:
Ngươi có biết người kia là Sát-lỵ, hay Bà-la-môn, hay Cư sĩ,
hay Thủ-đà-la không? Đáp: Không. Lại hỏi: Ngươi có biết
người kia cao hay thấp, thô kệch hay thanh lịch. Đen hay
trắng, xấu hay đẹp không? Đáp: Không. Thế nào, Phạm chí,
những điều mà người này nói có thành thật chăng?
- Đáp:
Không.
- “Phạm
chí, Sa-môn, Bà-la-môn kia cũng vậy, không có sự chân thật.
Phạm chí, cũng như có người dựng thang nơi khoảng đất trống.
Những người khác hỏi: Dựng thang để làm gì? Đáp: Tôi muốn
leo lên nhà trên. Thế nào, Phạm chí, người dựng thang kia há
không phải là dối sao?”
- Đáp: “Kia
thật sự hư dối”.
- Phật nói:
- “Các
Sa-môn, Bà-la-môn kia cũng vậy, hư dối, không thật.”
- Phật bảo
Bố-tra-bà-lâu:
- “Thân ta,
sắc gồm bốn đại, sáu nhập, do cha mẹ sanh, được nuôi lớn
bằng bú mớm, trang sức bằng y phục, vô thường hoại diệt;
thân đó được cho là ngã. Ta nói đó là ô nhiễm, là thanh
tịnh, là được giải thoát. Ý của ngươi hoặc giả cho rằng pháp
nhiễm ô không thể diệt, pháp thanh tịnh không thể sanh, luôn
luôn tồn tại trong đau khổ. Chớ nghĩ như vậy. Vì sao? Vì,
pháp nhiễm ô có thể bị diệt tận, pháp thanh tịnh có thể xuất
sanh, an trú nơi lạc địa, hoan hỷ, ái lạc, chuyên niệm, nhất
tâm, trí tuệ rộng lớn. Phạm chí, Ta đối với Dục giới thiên,
Sắc giới thiên, Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vô
tưởng thiên, nói là ô nhiễm và cũng nói là thanh tịnh, cũng
nói là được giải thoát. Ý ngươi có thể cho rằng pháp nhiễm ô
không thể diệt, pháp thanh tịnh không thể sanh, luôn luôn
tồn tại trong đau khổ. Chớ nghĩ như vậy. Vì sao? Vì, pháp
nhiễm ô có thể bị diệt tận, pháp thanh tịnh có thể xuất
sanh, an trú nơi lạc địa, hoan hỷ, ái lạc, chuyên niệm, nhất
tâm, trí tuệ rộng lớn. ”
- Bấy giờ
Tượng Thủ Xá-lợi-phất bạch Phật rằng:
- “Thế Tôn,
khi đang hiện hữu thân người thuộc Dục giới, với bốn đại và
các căn, khi ấy thân thuộc Dục giới thiên, thân thuộc Sắc
giới thiên, thân thuộc Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu
tưởng vô tưởng xứ thiên, lúc ấy có đồng thời cùng hiện hữu
không?
- “Bạch Thế
Tôn, khi đang hiện hữu thân thuộc Dục giới thiên, khi ấy
thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, thân thuộc
Sắc giới thiên, thân thuộc Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ,
Hữu tưởng vô tưởng xứ thiên, lúc ấy có đồng thời cùng hiện
hữu không?
- “Bạch Thế
Tôn, khi đang hiện hữu thân thuộc Sắc giới thiên, khi ấy
thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, thân thuộc
Dục giới thiên, thân thuộc Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ,
Hữu tưởng vô tưởng xứ có đồng thời cùng hiện hữu không?
- “Cũng
vậy, cho đến, khi đang hiện hữu thân thuộc Hữu tưởng vô
tưởng xứ, khi ấy thân người thuộc Dục giới với bốn đại và
các căn, thân thuộc Dục giới thiên, thân thuộc Sắc giới
thiên, thân thuộc Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ thiên có
đồng thời cùng hiện hữu không?”
- Phật nói
với Tượng Thủ Xá-lợi-phất:
- “Khi đang
hiện hữu thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn,
thì ngay khi ấy là thân người thuộc Dục giới với bốn đại và
các căn, chứ không phải là thân thuộc Dục giới thiên, thân
Sắc giới thiên, thân Không xứ thiên, thân Thức xứ thiên,
thân Vô sở hữu xứ thiên, thân Hữu tưởng vô tưởng thiên. Cũng
vậy, cho đến, nếu khi đang hiện hữu thân Hữu tưởng vô tưởng
thiên, thì ngay khi ấy là thân Hữu tưởng vô tưởng thiên, chứ
không phải là thân người Dục giới với bốn đại và các căn,
không phải là thân Dục giới thiên, thân Sắc giới thiên, thân
Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ thiên.
- “Này
Tượng Thủ, ví như sữa bò. Sữa biến thành tô. Tô biến thành
lạc. Lạc biến thành sanh tô. Sanh tô biến thành thục tô.
Thục tô biến thành đề hồ. Đề hồ là bậc nhất. Khi là sữa, thì
chỉ được gọi là sữa mà không gọi là lạc, tô, đề hồ. Cũng
vậy, lần lượt cho đến khi là đề hồ, thì khi ấy chỉ được gọi
là đề hồ mà không gọi là lạc, tô.
- “Tượng
Thủ, ở đây cũng vậy, khi đang hiện hữu thân người thuộc Dục
giới với bốn đại và các căn, thì ngay khi ấy là thân người
thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, chứ không phải là
thân thuộc Dục giới thiên, cho đến, không phải là thân Hữu
tưởng vô tưởng thiên. Cũng vậy, lần lượt cho đến, khi đang
hiện hữu thân Hữu tưởng vô tưởng thiên, thì ngay khi ấy chỉ
có thân Hữu tưởng vô tưởng thiên, chứ không phải là thân
người Dục giới với bốn đại và các căn, cho đến, thân Vô sở
hữu xứ thiên.
- “Tượng
Thủ, ý ngươi nghĩ sao? Nếu có người hỏi ngươi: Khi đang hiện
hữu thân quá khứ; khi ấy thân vị lai và thân hiện tại có
cùng nhất thời hiện hữu không? Khi đang hiện hữu thân vị
lai, khi ấy thân quá khứ và thân hiện tại có đồng thời hiện
hữu không? Khi đang hiện hữu thân hiện tại, khi ấy thân quá
khứ và thân vị lai có đồng thời hiện hữu không? Giả sử được
hỏi như vậy, ngươi sẽ trả lời như thế nào?”
- Tượng Thủ
đáp:
- “Giả sử
có người hỏi như vậy, con sẽ trả lời người ấy rằng: Khi đang
hiện hữu thân quá khứ, khi ấy duy chỉ là thân quá khứ, mà
không phải là thân hiện tại và vị lai. Khi đang hiện hữu
thân vị lai, khi ấy duy chỉ là thân vị lai. Chứ không phải
là thân quá khứ và hiện tại. Khi đang hiện hữu thân hiện
tại, khi ấy chỉ là thân hiện tại, chứ không phải là thân quá
khứ và thân vị lai.”
- Phật nói:
- “Tượng
Thủ, ở đây cũng vậy, khi đang hiện hữu thân người thuộc Dục
giới với bốn đại và các căn, thì ngay khi ấy là thân người
thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, chứ không phải là
thân thuộc Dục giới thiên, cho đến, không phải là thân Hữu
tưởng vô tưởng thiên. Cũng vậy, lần lượt cho đến, khi đang
hiện hữu thân Hữu tưởng vô tưởng thiên, thì ngay khi ấy chỉ
có thân Hữu tưởng vô tưởng thiên, chứ không phải là thân
người Dục giới với bốn đại và các căn, cho đến, thân Bất
dụng xứ thiên.
- “Lại nữa,
Tượng Thủ, giả sử có người hỏi ngươi: Có phải ngươi trong
quá khứ đã từng hiện hữu và đã diệt; vị lai sẽ sanh và hiện
tại đang tồn tại chăng? Nếu được hỏi như vậy, ngươi sẽ trả
lời như thế nào?”
- Tượng Thủ bạch Phật:
- “Giả sử
có người hỏi như vậy, con sẽ trả lời người ấy rằng: Trong
quá khứ tôi đã từng hiện hữu; không phải không hiện hữu.
Trong vị lai, tôi sẽ sanh, chứ không phải không có; trong
hiện tại, tôi đang tồn tại. Chứ không phải không có.”
- Phật nói:
- “Tượng
Thủ, ở đây cũng vậy, khi đang hiện hữu thân người thuộc Dục
giới với bốn đại và các căn, thì ngay khi ấy là thân người
thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, chứ không phải là
thân thuộc Dục giới thiên, cho đến, không phải là thân Hữu
tưởng vô tưởng thiên. Cũng vậy, lần lượt cho đến, khi đang
hiện hữu thân Hữu tưởng vô tưởng thiên, thì ngay khi ấy chỉ
có thân Hữu tưởng vô tưởng thiên, chứ không phải là thân
người Dục giới với bốn đại và các căn, cho đến, thân Vô sở
hữu xứ thiên.”
- Bấy giờ,
Tượng Thủ bạch Phật:
- “Con nay
quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin nhận con là
Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay đến trọn đời, nguyện
không giết, không trộm, không tà dâm, không dối, không uống
rượu.”
- Khi ấy
Phạm chí Bố-tra-bà-lâu bạch Phật:
- “Con có
thể ở trong Phật pháp xuất gia, thọ giới Cụ túc được không?”
- Phật nói
với Phạm chí:
- “Nếu có
người dị học muốn được xuất gia thọ giới trong Pháp của Ta,
trước hết phải cần bốn tháng quán sát, làm hài lòng đại
chúng, sau đó mới được xuất gia thọ giới. Tuy có quy định
như vậy, nhưng cũng còn nhận xét tùy người.”
- Phạm chí
bạch Phật:
- “Nếu có
các người dị học muốn được xuất gia thọ giới trong Phật
Pháp, trước hết phải cần bốn tháng quán sát, làm hài lòng
đại chúng, sau đó mới được xuất gia thọ giới. Như con nay,
có thể ở trong Phật pháp qua bốn tháng quan sát, khi đại
chúng hài lòng, con mới xin xuất gia thọ giới Cụ túc.”
- Phật nói
với Phạm chí:
- “Ta đã có
nói với ngươi trước rồi. Tuy có quy định như vậy, nhưng cũng
còn nhận xét tùy người.”
- Bấy giờ
Phạm chí liền được xuất gia thọ giới Cụ túc ở trong Chánh
pháp. Như vậy không bao lâu, do tín tâm kiên cố, tịnh tu
phạm hạnh, ở ngay trong đời này mà tự thân tác chứng, sanh
tử đã dứt, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa;
tức thành A-la-hán.
- Bấy giờ,
Bố-tra-bà-lâu sau khi nghe những điều Phật dạy hoan hỷ phụng
hành.
- --o0o--
|
|