|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH TRƯỜNG A
HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá &
Trúc Phật Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
- PHẦN IV
- 30. KINH
THẾ KÝ
-
- Phật bảo Tỳ-kheo:
- “Cõi Uất-đan-viết
có nhiều núi. Bên cạnh các núi ấy, có các vườn cảnh, ao tắm,
mọc nhiều loài hoa, cây cối mát mẻ, hoa quả dồi dào, vô số
các loài chim cùng nhau hót. Lại trong các núi ấy có nhiều
dòng nước; nước ấy xuôi dòng ra biển, không chảy xiết; các
loại hoa phủ trên mặt nước, chảy bình lặng êm ả. Sát hai bên
bờ, có nhiều cây cối, cành nhánh mềm mại, hoa quả sum suê.
Ðất mọc cỏ mềm xoay về bên phải, màu như đuôi công, mùi thơm
như bà-sư , mềm như áo trời. Ðất ở đó mềm; dùng chân đạp
đất, đất lún bốn tấc, dở chân lên, trở lại như cũ, mặt đất
bằng như bàn tay, không có cao thấp.
- “Này Tỳ-kheo! Cõi
Uất-đan-viết kia bốn phía có bốn ao A-nậu-đạt; mỗi ao ngang
dọc một trăm do-tuần. Nước ao lắng trong, không có cáu bẩn.
Có hào cùng bậc thềm bằng bảy báu chung quanh... cho đến, vô
số các loài chim cùng nhau cất tiếng hót buồn bã, giống như
sự trang trí của ao Ma-đà-diên không khác. Bốn ao lớn ấy,
rộng mười do-tuần, nước sông xuôi dòng ra biển, không có
xiết; các loại hoa phủ trên mặt nước, chảy từ từ êm ả. Sát
hai bên bờ sông có nhiều cây cối, cành nhánh mềm mại, hoa
quả dồi dào. Ðất mọc cỏ mềm, xoay về phía phải, màu như đuôi
công, hương như bà-sư, mềm mại như áo trời. Ðất đó mềm mại,
dùng chân đạp đất, đất lún bốn tấc, giở chân lên, trở lại
như cũ. Ðất bằng như bàn tay, không có cao thấp. Lại đất đai
kia không có ngòi rãnh, khe suối, hầm hố, gai góc, gốc cây,
cũng không có muỗi mòng, rắn, rết, ong, bò cạp, cọp, beo,
thú dữ. Ðất thuần châu báu, không có đất cát; âm dương điều
độ, bốn mùa thuận hòa, chẳng lạnh chẳng nóng, không có các
sự não hoạn. Ðất đai thấm ướt, bụi dơ không dậy, như dầu bôi
trên đất, không có bụi bay. Trăm thứ cây cỏ thường mọc,
không có mùa Ðông rét mướt, mùa Hạ nóng bức. Cây cối tốt
tươi; hoa trái xum xuê. Ðất mọc cỏ mềm, xoay về phía phải,
màu như lông công, hương như bà-sư, mềm như áo trời. Ðất ở
đó mềm mại; dùng chân đạp đất, đất lún bốn tấc, dở chân lên
lại, trở lại như cũ. Ðất bằng như bàn tay, không có chỗ cao,
chỗ thấp.
- “Cõi ấy thường có
lúa thơm tự nhiên, chẳng gieo trồng mà tự mọc, không có vỏ
trấu, như đóa hoa trắng, giống như thức ăn trời Ðao-lợi, đầy
đủ các vị. Cõi ấy luôn có nồi, vạc tự nhiên; có ngọc ma-ni
tên là Diệm quang được đặt dưới nồi nấu. Khi cơm chín thì
ánh sáng tắt, chẳng cần lửa củi, không nhọc sức người. Cõi
ấy có cây tên là Khúc cung, lá cây dày đặc chồng lên nhau
theo thứ lớp, trời mưa không dột. Ðàn ông, đàn bà cư ngụ
dưới cây đó. Lại có cây hương cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy
cành. Khi quả ấy chín, vỏ nó tự nứt, tự nhiên xuất ra các
loại hương. Hoặc có cây cao sáu mươi dặm, hoặc năm mươi dặm,
bốn mươi dặm; cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả đầy cành.
Khi quả ấy chín, vỏ nó tự nứt, tự nhiên hương tỏa.
- “Lại có cây Y cao
bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín vỏ tự nứt
ra, tuôn ra các loại y phục; hoặc có cây cao sáu mươi dặm,
năm mươi, bốn mươi, nhỏ nhất là năm dặm, hoa quả đầy cành,
tuôn ra các loại y phục. Lại có cây trang nghiêm, cao bảy
mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín, vỏ tự nứt ra,
tuôn ra các thứ đồ trang nghiêm thân thể; hoặc có cây cao
sáu mươi dặm, năm mươi dặm, đều đầy cành hoa quả, tuôn ra đủ
các đồ trang nghiêm thân thể. Lại có cây hoa man cao bảy
mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín, vỏ tự nứt ra,
xuất ra các loại tràng hoa; hoặc có cây cao sáu mươi dặm,
năm mươi, bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả
cũng đầy cành, xuất ra các loại tràng hoa. Lại có cây khí,
cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành. Khi quả ấy chín vỏ tự
nứt ra. Xuất ra các khí cụ; hoặc có cây sáu mươi dặm, năm
mươi, bốn mươi, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả đều đầy
cành, xuất ra các loại khí cụ. Lại có cây quả cao bảy mươi
dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín, vỏ tự nứt ra, xuất
ra các loại quả; hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn
mươi, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả đều đầy cành, xuất
ra các loại quả. Lại có cây nhạc khí cao bảy mươi dặm, hoa
quả đầy cành; quả ấy khi chín, vỏ tự nứt ra, xuất ra các
loại nhạc khí, hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn
mươi, cây nhỏ nhất cao năm dặm, đều đầy cành hoa quả, xuất
ra các loại nhạc khí.
- “Cõi ấy có ao tên
là Thiện kiến, ngang dọc một trăm do-tuần, nước ao trong
vắt, không có cáu bẩn. Các bên ao được xây lát bằng hào bảy
báu. Bốn mặt quanh ao có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy
lớp hàng cây. cho đến, vô số các loài chim cùng nhau ca hót,
cũng giống như trước.
- “Phía Bắc ao Thiện
kiến có cây tên là Am-bà-la, vòng thân bảy dặm, cao một trăm
dặm, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi dặm. Phía Ðông của ao
Thiện kiến phát xuất sông Thiện đạo, rộng một do-tuần, nước
sông chảy chậm, không có dòng xoáy, có nhiều loại hoa phủ
trên mặt nước; sát hai bên bờ cây cối tốt tươi, cành nhánh
mềm mại, hoa quả đầy cành; đất mọc cỏ mềm, xoay về phía
phải, màu như lông công, hương như bà-sư, mềm như áo trời;
đất ở đó mềm mại, khi đạp chân xuống, đất lún bốn tấc, dở
chân lên, trở lại như cũ; đất bằng như bàn tay, không có cao
thấp.
- “Lại nữa, trong
sông ấy, có các thuyền báu. Nhân dân ở nơi ấy khi muốn vào
sông tắm rửa vui chơi, cởi y phục để trên bờ. Lên thuyền ra
giữa dòng; nô đùa vui vẻ xong, lên bờ gặp y phục thì mặc,
lên trước mặc trước, lên sau mặc sau, chẳng tìm lại y phục
cũ. Sau đó, đi đến cây hương. Cây cong mình xuống; những
người ấy lấy các loại tạp hương để xoa trên mình. Rồi đến
cây y phục. Cây cong mình xuống; những người ấy lấy các loại
y phục, tùy ý mặc vào. Tiếp đến, đi đến cây trang nghiêm,
cây cong mình xuống, những người ấy lấy các thứ trang nghiêm
để tự trang sức. Xong, đến cây hoa man; cây cong mình xuống,
những người ấy lấy các thứ tràng hoa, để đội trên đầu. Rồi
đến cây khí, cây cong mình xuống; những người ấy lấy các
loại khí vật báu; lấy khí vật báu xong, tiếp theo, đến cây
quả, cây cong mình xuống, những người ấy hái các quả đẹp,
hoặc có người ăn nuốt, có người ngậm, có người vắt nước
uống. Kế tiếp, đến cây nhạc khí; cây cong mình xuống, những
người ấy lấy các loại nhạc khí, chơi đàn, đánh trống và dùng
âm thanh vi diệu hòa với tiếng đàn mà đi đến khu vườn, tùy ý
vui chơi, hoặc một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, sau đó
lại đi, không có chỗ nhất định.
- “Phía Nam ao Thiện
kiến, phát xuất sông Diệu thể. Phía Tây ao Thiện kiến, phát
xuất sông Diệu vị. Phía Bắc ao Thiện kiến, phát xuất sông
Quang ảnh, cũng giống như trên. Phía Ðông ao Thiện kiến có
khu vườn tên là Thiện kiến, ngang dọc một trăm do-tuần; vòng
quanh bốn bên khu vườn có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy
lớp hàng cây, nhiều màu đan xen bảy báu tạo thành. Bốn phía
vườn ấy có bốn cửa lớn, lan can bao quanh, đều do bảy báu
tạo thành; trong vườn sạch sẽ, không có gai góc, đất đai
bằng phẳng, không có ngòi rãnh khe suối, hầm hố, đồi gò,
cũng không có muỗi mòng, ruồi, rệp, rận, rắn rết, ong, bò
cạp, hổ báo, ác thú; đất toàn các báu, không có cát, âm
dương điều độ, bốn mùa thuận hòa, chẳng lạnh chẳng nóng,
không có các hoạn nạn; đất đai nhuận thấm, không có bụi bặm,
như có dầu xoa đất, đi bụi không bốc lên, hằng trăm loài cỏ
thường mọc, không có Ðông rét Hạ bức; cây cối tươi tốt, hoa
quả đầy cành; đất mọc cỏ mềm, xoay về phía phải, màu như
lông công, hương như bà-sư, mềm như áo trời; đất đai mềm
mại, khi đạp chân xuống, đất lún bốn tấc, dở chân lên, đất
lại như cũ.
- “Vườn ấy thường
mọc lúa thơm tự nhiên, không có vỏ trấu, trắng như đóa hoa,
đầy đủ các vị, như cơm trời Ðao-lợi. Vườn ấy thường có nồi
chõ tự nhiên; có ngọc ma-ni, tên là Diệm quang đặt dưới nồi
chõ; khi cơm chín, ánh sáng tắt, chẳng cần lửa củi, chẳng
nhọc công người. Vườn ấy có cây tên là khúc cung, lá chồng
lên nhau theo thứ lớp, trời mưa không dột. Các nam nữ ấy cư
ngụ ở đó. Lại có cây hương, cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy
cành; khi quả ấy chín, vỏ tự nứt ra, xuất ra các loại hương,
có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươi, cho đến cao năm
dặm, hoa quả đầy cành, xuất ra các loài hương... cho đến cây
khí, cũng giống như trên.
- “Nhân dân ở cõi ấy
đến vườn ấy vui chơi giải trí, một ngày, hai ngày... cho đến
bảy ngày. Vườn Thiện kiến ấy không người bảo vệ, tùy ý dạo
chơi, sau đó lại đi.
- “Phía Nam ao Thiện
kiến có khu vườn tên là Ðại thiện kiến, phía Tây ao Thiện
kiến có khu vườn tên là Ngu lạc ; phía Bắc ao Thiện kiến có
khu vườn tên là Ðẳng hoa, cũng giống như thế.
- “Ở cõi ấy, vào nửa
đêm, cuối đêm, Long vương A-nậu-đạt thường thường vào lúc
thích hợp khởi mây lành cùng khắp thế giới rồi mưa nước ngọt
xuống, giống như khi vắt sữa bò; nước đủ tám vị, thấm nhuận
khắp nơi; nước không đọng lại, đất không bùn lầy. Giống như
thợ làm tràng hoa dùng nước rưới hoa, khiến không khô héo,
thấm ướt tốt tươi. Khi ấy, ở cõi đó vào lúc gần sáng không
có mây che, bầu trời trong vắt; biển nổi gió mát, trong lành
hiu hiu, chạm nhẹ vào người, toàn thân sảng khoái.
- “Cõi ấy trù mật,
nhân dân sung túc. Nếu khi cần ăn thì dùng gạo thơm tự nhiên
bỏ vào trong chõ, dùng ngọc Diệm quang để ở dưới chõ; cơm tự
nhiên chín, ánh sáng ngọc tự tắt. Các người đi đến, tự do ăn
cơm. Người ăn không đứng dậy thì cơm không hết; người ăn
đứng dậy thì cơm cũng hết. Cơm ấy tinh khiết như đóa hoa
trắng, đầy đủ mùi vị như cơm cõi trời Ðao-lợi. Người ăn cơm
đó không có các bệnh, khí lực dồi dào, nhan sắc tươi vui,
không có gầy còm.
- “Lại ở cõi ấy,
thân thể con người như nhau, hình mạo giống nhau, không thể
phân biệt. Dáng người trẻ trung, như người khoảng hai mươi
tuổi ở Diêm-phù-đề. Người cõi ấy, răng họ bằng đều, trắng
sạch, kín sát không hở; tóc màu xanh biếc, không có cáu bẩn;
tóc xõa xuống bằng tám ngón tay, ngang vai thì dừng, không
dài không ngắn. Người ở cõi đó nếu khi khởi tâm dục thì nhìn
chăm chăm nữ nhân rồi bỏ đi; người nữ ấy theo sau vào trong
vườn. Nếu nữ nhân và người nam kia là cha, mẹ hoặc liên hệ
trong cốt nhục, không phải là người nên hành dục thì cây
không cong xuống che lại, thì họ tự chia tay. Nếu chẳng phải
cha, mẹ và nhiều liên hệ đến cốt nhục, đúng là đối tượng
hành dâm thì cây cong xuống che phủ thân họ, tùy ý hưởng
lạc, một ngày, hai ngày... hoặc đến bảy ngày, khi ấy mới
thôi. Người nữ ấy mang thai; bảy hoặc tám ngày thì sanh.
Sanh ra con trai hay con gái, cũng mang đặt ở ngã tư đường,
đầu trục lộ giao thông, bỏ đó rồi đi. Các người đi đường, đi
ngang qua bên nó, đưa ngón tay cho nó mút, ngón tay chảy ra
sữa ngọt, nuôi lớn thân bé. Qua bảy ngày rồi, bé ấy trưởng
thành, bằng với người lớn; nam thì theo nhóm nam, nữ thì
theo nhóm nữ.
- “Người cõi ấy khi
mạng chung, không ai khóc lóc, trang nghiêm tử thi, đặt ở
ngã tư đường, bỏ đó rồi đi. Có loài chim tên là Ưu-úy
thiền-già gắp tử thi ấy để ở phương khác.
- “Lại nữa, người ở
cõi ấy khi đại tiểu tiện, đất liền nẻ ra; đại tiểu tiện rồi,
đất khép trở lại. Nhân dân cõi ấy không lệ thuộc sự tham
luyến, cũng không cất chứa, thọ mạng có hạn định; chết rồi
sanh lên trời. Vì sao người cõi ấy thọ mạng luôn có hạn
định? Ðời trước người cõi ấy tu mười hạnh thiện, khi thân
hoại mạng chung sanh vào cõi Uất-đan-viết, thọ mạng ngàn
tuổi, chẳng hơn chẳng kém. Vì thế, người cõi ấy thọ mạng như
nhau.
- “Lại nữa, người
sát sanh đọa vào đường ác; người không sát sanh sanh vào nẻo
thiện. Kẻ trộm cắp, tà dâm, hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói
thêu dệt, tham lam, ganh ghét, tà kiến đều đọa vào đường ác.
Người không trộm cắp, không tà dâm, không hai lưỡi, không ác
khẩu, không nói dối, không nói thêu dệt, không tham lam,
không ganh ghét, không tà kiến thì khi thân hoại mạng chung
sanh cõi Uất-đan-viết, thọ mạng ngàn năm, chẳng hơn chẳng
kém. Vì vậy, người ở cõi kia thọ mạng bằng nhau. Lại nữa,
tham lam keo kiệt chẳng thường bố thí thì chết đọa đường ác;
tâm thoáng không keo thường hành bố thí sanh chốn thiện. Có
người bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn và bố thí cho người bần
cùng, ăn xin, bệnh ghẻ, khốn khổ, cho họ y phục, thức ăn
uống, xe cộ, tràng hoa, hương thơm, giường chõng, phòng xá;
lại tạo lập tháp miếu, đèn đuốc cúng dường, thì người ấy khi
mạng chung sanh vào cõi Uất-đan-viết, thọ mạng ngàn tuổi,
chẳng hơn chẳng kém, vì vậy, người cõi kia thọ mạng bằng
nhau. Vì sao gọi người Uất-đan-viết là hơn hết? Vì nhân dân
cõi ấy chẳng thọ thập thiện nhưng toàn bộ hành động của họ
tự nhiên hợp với thập thiện, khi thân hoại mạng chung, sanh
vào cõi lành. Vì vậy, người ở đó được khen là Uất-đan-viết
hơn hết. Uất-đan-viết, ý nghĩa như thế nào? Ðối với ba cõi
kia, cõi này là tối thắng, tối thượng cho nên gọi là
Uất-đan-viết.
- --o0o--
|
|