|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH TRƯỜNG A
HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá &
Trúc Phật Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
- PHẦN IV
- 30. KINH
THẾ KÝ
-
-
Ðức Phật
bảo các Tỳ-kheo:
- “Có bốn loại rồng.
Những gì là bốn? Một, sanh ra từ trứng; hai, sanh ra từ bào
thai; ba, sanh ra từ nơi ẩm thấp; bốn, sanh ra từ hóa sinh.
Ðó là bốn loại rồng.
- “Có bốn loại Kim sí điểu.
Những gì là bốn? Một, sinh ra từ trứng; hai, sinh ra từ bào
thai; ba, sinh ra từ nơi ẩm thấp; bốn, sinh ra từ hóa sinh.
Ðó là bốn loại Kim sí điểu.
- “Ở dưới đáy nước đại dương
có cung điện của vua rồng Ta-kiệt, ngang dọc là tám vạn
do-tuần. Tường cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy
lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hoàng bằng bảy
thứ báu,. cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu
lo, lại cũng như vậy.
- “Giữa hai ngọn núi
chúa Tu-di cùng núi Khư-đà-la có hai cung điện của vua rồng
Nan-đà và Bạt-nan-đà. Mỗi cung điện ngang dọc sáu mươi
do-tuần. Tường cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy
lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hoàng bằng bảy
thứ báu... cho đến, vô số các loài chim ca hót líu lo, lại
cũng như vậy.
- “Phía Bắc bờ đại
dương có một cây lớn tên là Cứu-la-thiểm-ma-la. Loại cây này
cả vua rồng và Kim sí điểu cũng có, gốc cây to bảy do-tuần,
cao trăm do-tuần, tàn cây phủ chung quanh năm mươi
do-tuần. Phía Ðông của cây lớn này có cung điện của loài vua
rồng sinh ra từ trứng và cung điện của loài Kim sí điểu sinh
ra từ trứng. Mỗi cung điện ngang dọc là sáu ngàn do-tuần,
tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp
lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hoàng bằng bảy thứ
báu,. cho đến, vô số các loài chim ca hót líu lo, lại cũng
như vậy.
- “Phía Nam của cây
lớn này có cung điện của loài vua rồng sinh ra từ thai và
cung điện của loài Kim sí điểu sinh ra từ thai. Mỗi cung
điện ngang dọc là sáu ngàn do-tuần; tường của cung điện có
bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây,
chung quanh trang hoàng bằng bảy thứ báu,. cho đến, vô số
các loài chim ca hót líu lo, lại cũng như vậy.
- “Phía Tây của cây
lớn này có cung điện của loài vua rồng sinh ra từ nơi ẩm
thấp và cung điện của loài Kim sí điểu sinh ra từ nơi ẩm
thấp. Mỗi cung điện ngang dọc sáu ngàn do-tuần; tường của
cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp
hàng cây, chung quanh trang hoàng bằng bảy thứ báu,. cho
đến, vô số các loài chim ca hót líu lo, lại cũng như vậy.
- “Phía Bắc của cây
lớn này có cung điện của loài vua rồng sinh ra từ hóa sinh
và cung điện của loài Kim sí điểu sinh ra từ hóa sinh. Mỗi
cung điện ngang dọc là sáu ngàn do-tuần; tường của cung điện
có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây,
chung quanh trang hoàng bằng bảy thứ báu,. cho đến, vô số
các loài chim ca hót líu lo, lại cũng như vậy.
- “Khi nào loài Kim
sí điểu sinh ra từ trứng, nếu muốn bắt loài rồng để ăn, thì
từ nhánh phía Ðông của cây Cứu-la-thiểm-ma-la bay xuống,
dùng đôi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên
rộng hai trăm do-tuần, mới bắt loài rồng cũng sinh ra từ
trứng để ăn một cách tùy ý tự tại. Nhưng không thể bắt loài
rồng được sinh ra từ thai, từ nơi ẩm thấp, từ hóa sinh được.
- “Khi nào loài Kim
sí điểu sinh ra từ thai, nếu muốn bắt loài rồng sinh ra từ
trứng để ăn, thì từ nhánh phía Ðông cây này bay xuống, dùng
đôi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng
hai trăm do-tuần, mới bắt loài rồng sinh ra từ trứng để ăn
một cách tùy ý tự tại. Khi nào loài Kim sí điểu sinh ra từ
thai muốn ăn loài rồng sinh ra từ thai, thì từ nhánh phía
Nam của cây này bay xuống và dùng đôi cánh quạt nước đại
dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng bốn trăm do-tuần, mới bắt
loài rồng cũng sinh ra từ thai để ăn một cách tùy ý tự tại.
Nhưng không thể bắt loài rồng sinh ra từ ẩm thấp, từ hóa
sinh được.
- “Khi nào loài Kim
sí điểu sinh ra từ nơi ẩm thấp, nếu muốn bắt loài rồng sinh
ra từ trứng để ăn, thì từ nhánh phía Ðông bay xuống, dùng
đôi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng
hai trăm do-tuần, mới bắt loài rồng sinh ra từ trứng để ăn
một cách tùy ý tự tại. Khi nào loài Kim sí điểu sinh ra từ
nơi ẩm thấp, nếu muốn bắt loài rồng sinh ra từ thai để ăn,
thì từ nhánh phía Nam cây này bay xuống, dùng đôi cánh quạt
nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng bốn trăm
do-tuần, thì bắt loài rồng sinh ra từ thai để ăn một cách
tùy ý tự tại. Khi nào loài Kim sí điểu sinh ra từ nơi ẩm
thấp muốn ăn loài rồng sinh ra từ nơi ẩm thấp, thì từ nhánh
phía Tây của cây này bay xuống và dùng đôi cánh quạt nước
đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng tám trăm do-tuần, thì
bắt loài rồng cũng sinh ra từ nơi ẩm thấp để ăn một cách tùy
ý tự tại. Nhưng không thể bắt loài rồng sinh ra từ hóa sinh
được.
- “Khi nào loài Kim
sí điểu sinh ra từ biến hóa, nếu muốn bắt loài rồng sinh ra
từ trứng để ăn, thì từ nhánh phía Ðông bay xuống, dùng đôi
cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng hai
trăm do-tuần, thì bắt loài rồng sinh ra từ trứng để ăn một
cách tùy ý tự tại. Khi nào loài Kim sí điểu sinh ra từ biến
hóa, nếu muốn bắt loài rồng sinh ra từ thai để ăn, thì từ
nhánh phía Nam cây này bay xuống, dùng đôi cánh quạt nước
đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng bốn trăm do-tuần, thì
bắt loài rồng sinh ra từ thai để ăn một cách tùy ý tự tại.
Khi nào loài Kim sí điểu sinh ra từ biến hóa muốn ăn loài
rồng sinh ra từ nơi ẩm thấp, thì từ nhánh phía Tây của cây
này bay xuống và dùng đôi cánh quạt nước đại dương; khi nước
rẽ ra hai bên rộng tám trăm do-tuần, thì bắt loài rồng sinh
ra từ nơi ẩm thấp để ăn. Khi nào Kim sí điểu sinh ra từ biến
hóa, nếu muốn ăn loài rồng sinh ra từ biến hóa, thì từ nhánh
phía Bắc cây này bay xuống, dùng đôi cánh quạt nước đại
dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng một ngàn sáu trăm
do-tuần, thì bắt loài rồng sanh ra từ biến hóa để ăn một
cách tùy ý tự tại. Ðó là loài rồng bị loài Kim sí điểu ăn
thịt.
- “Tuy nhiên có
những loại rồng lớn mà loài Kim sí điểu không thể ăn thịt
được. Ðó là: Vua rồng Ta-kiệt-la, Nan-đà, Bạt-nan-đà,
Y-na-bà-la, Ðề-đầu-lại-tra, Thiện-kiến, A-lô, Ca-câu-la,
Ca-tỳ-la, A-ba-la, A-nậu-đạt, Thiện-trú, Ưu-diệm-ca-bà-đầu,
Ðắc-xoa-ca. Ðó là các loài vua rồng lớn không bị loài Kim sí
điểu bắt ăn thịt.”
- Ðức Phật
bảo các Tỳ-kheo:
- “Nếu có chúng sanh
nào thọ trì giới rồng, tâm ý nghĩ đến loài rồng, đầy đủ pháp
của rồng, thì sẽ sinh về trong loài rồng. Nếu có chúng sanh
nào trì giới Kim sí điểu, tâm ý nghĩ đến loài Kim sí điểu,
đầy đủ pháp của Kim sí điểu, thì sẽ sinh về trong loài Kim
sí điểu. Hoặc có chúng sanh trì giới của thỏ, tâm ý nghĩ về
loài thỏ, cắt ; đầy đủ pháp của thỏ, thì sẽ sinh vào loài
thỏ, cắt. Hoặc có chúng sanh trì giới của chó, hoặc trì giới
của trâu, hoặc trì giới của nai, hoặc trì giới câm, hoặc trì
giới Ma-ni-bà-đà , hoặc trì giới lửa, hoặc trì giới mặt
trăng, hoặc trì giới mặt trời, hoặc trì giới nước, hoặc trì
giới cúng dường lửa, hoặc trì pháp khổ hạnh ô uế. Những
người ấy nghĩ rằng: Ta trì pháp câm này, pháp Ma-ni-bà-đà,
pháp lửa, pháp mặt trăng, mặt trời, pháp nước, pháp cúng
dường lửa, các pháp khổ hạnh; ta trì công đức này là để sinh
lên cõi Trời. Ðây là những thứ tà kiến.”
- Phật dạy:
- “Ta nói những
người tà kiến này chắc chắn sẽ đi vào hai nơi: Hoặc sinh vào
địa ngục, hay sinh vào hàng súc sanh. Nếu có Sa-môn,
Bà-la-môn nào có những lý luận như vầy, những quan điểm như
vầy: Ngã và thế gian là thường còn, đây là thật, ngoài ra
đều hư dối, hoặc Ngã và thế gian là vô thường, đây là thật,
ngoài ra đều hư dối, hoặc Ngã và thế gian vừa thường vừa là
vô thường, đây là thật ngoài ra đều hư dối, hoặc Ngã và thế
gian chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường, đây là
thật ngoài ra đều hư dối; Ngã và thế gian là hữu biên, đây
là thật ngoài ra đều hư dối, hoặc Ngã và thế gian là vô
biên, đây là thật ngoài ra đều hư dối, hoặc Ngã và thế gian
vừa hữu biên vừa vô biên, đây là thật ngoài ra đều hư dối,
hoặc Ngã và thế gian chẳng phải hữu biên cũng chẳng phải vô
biên, đây là thật ngoài ra đều hư dối; Thân tức mạng, đây là
thật ngoài ra đều hư dối hoặc Thân khác mạng khác, đây là
thật ngoài ra đều hư dối, hoặc Chẳng phải có mạng chẳng phải
không mạng, đây là chắc thật ngoài ra đều là hư dối; hoặc
Không mạng không thân, đây là thật ngoài ra đều là hư dối.
- “Hoặc có người nói: Có cái
chết của đời khác như vậy, đây là thật ngoài ra đều là hư
dối. Có người nói: Không có cái chết của đời khác như vậy,
đây là thật ngoài ra đều là hư dối. Hoặc có người nói: Vừa
có cái chết đời khác như vậy và không có cái chết đời khác
như vậy, đây là thật ngoài ra đều hư dối. Lại có người nói:
Chẳng phải có chẳng phải không cái chết đời khác như vậy,
đây là thật ngoài ra đều hư dối.
- “Nếu Sa-môn,
Bà-la-môn nào có những lý luận như vầy, những kiến giải như
vầy: Thế gian là thường, đây là lời nói chắc thật ngoài ra
đều hư dối, những người ấy hành với kiến chấp về ngã, kiến
chấp về thân, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thế gian, cho
nên nói rằng: Ngã và thế gian là thường. Những ai chủ trương
là vô thường, những người ấy hành với kiến chấp về ngã, kiến
chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế gian cho
nên nói rằng: Ngã và thế gian là vô thường. Những ai chủ
trương là vừa thường vừa vô thường, những người ấy hành với
kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến
chấp về thế gian, cho nên nói rằng: Thế gian vừa thường vừa
vô thường. Những ai chủ trương rằng chẳng phải thường cũng
chẳng phải vô thường, những người ấy hành với kiến chấp về
ngã, có kiến chấp về mạng, có kiến chấp về thân, có kiến
chấp về thế gian, cho nên nói rằng: Ngã và thế gian chẳng
phải thường chẳng phải vô thường.
- “Những ai chủ
trương thế gian là hữu biên, những người ấy hành với kiến
chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp
về thế gian, cho nên nói rằng: Mạng là hữu biên; thân là hữu
biên; thế gian là hữu biên. Từ lúc mới thụ thai cho đến khi
bị vứt bỏ nơi gò mả, thì những gì thuộc về thân bốn đại đều
chuyển di như vậy tối đa cho đến bảy đời. Khi các hành thân,
mạng đã hết thì ngã nhập vào thanh tịnh tụ, cho nên nói
rằng: Ngã là có biên. Những người chủ trương ngã và thế gian
là vô biên, những người này hành với kiến chấp về ngã, kiến
chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế gian, cho
nên nói rằng: Mạng là vô biên, thân là vô biên, thế gian là
vô biên. Từ lúc mới thụ thai cho đến khi bị vứt bỏ nơi gò
mả, những gì thuộc về thân bốn đại đều chuyển di như vậy tối
đa cho đến bảy đời. Khi các hành thân, mạng đã hết thì ngã
nhập thanh tịnh tụ, cho nên nói rằng: Ngã và thế gian là vô
biên. Những ai chủ trương thế gian này vừa hữu biên vừa vô
biên, những người ấy hành với kiến chấp về ngã, kiến chấp về
mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế gian, cho nên nói
rằng: Mạng vừa hữu biên vừa vô biên. Từ lúc mới thụ thai cho
đến khi bị vứt bỏ nơi gò mả, những gì thuộc về thân bốn đại
đều chuyển di như vậy tối đa cho đến bảy đời. Khi các hành
thân, mạng đã hết thì ngã nhập thanh tịnh tụ, cho nên nói
rằng: Ngã vừa hữu biên vừa vô biên. Những ai chủ trương ngã
và thế gian là không phải hữu biên không phải vô biên, những
người ấy hành với kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến
chấp về thân, kiến chấp về thế gian, cho nên nói rằng: Mạng
và thân chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên. Từ lúc mới
thụ thai cho đến khi bị vứt bỏ nơi gò mả, những gì thuộc về
thân bốn đại đều chuyển di như vậy tối đa cho đến bảy đời.
Khi các hành thân, mạng đã hết thì ngã nhập thanh tịnh tụ,
cho nên nói rằng: Ngã chẳng phải hữu biên chẳng phải là vô
biên.
- “Những người chủ
trương mạng tức là thân, thì đối với thân này có kiến chấp
về mạng; đối với thân khác, có kiến chấp về mạng, cho nên
nói rằng: Mạng tức là thân. Những người chủ trương mạng khác
với thân, thì đối với thân này có kiến chấp về mạng, đối với
thân khác không có kiến chấp về mạng, cho nên nói rằng: Mạng
khác với thân. Những ai chủ trương mạng chẳng phải có, chẳng
phải không, thì đối với thân này không có kiến chấp về mạng,
đối với thân khác lại có kiến chấp về mạng, cho nên nói
rằng: Chẳng phải có, chẳng phải không. Những ai chủ trương
không có thân, mạng, thì đối với thân này họ không có kiến
chấp về mạng, cho nên nói rằng: Không có mạng, không có
thân.
- “Có người bảo: Có
cái chết của đời khác như vậy, vì thấy hiện tại có thân mạng
và đời sau cũng có thân mạng du hành, cho nên họ bảo rằng:
Có cái chết đời khác như vậy. Có người bảo: Không có cái
chết của đời khác như vậy, vì người này bảo đời hiện tại có
mạng, nhưng đời sau không có mạng, cho nên nói rằng: Không
có cái chết của đời khác như vậy. Có người bảo: Vừa có cái
chết của đời khác như vậy, vừa không có cái chết của đời
khác như vậy, vì người ấy bảo đời hiện tại mạng bị đoạn
diệt, đời sau mạng du hành, cho nên nói rằng: Vừa có mạng
của đời khác như vậy, không có mạng của đời khác như vậy. Có
người bảo: Chẳng phải có, chẳng phải không cái chết của đời
khác như vậy, vì người ấy bảo thân, mạng hiện tại bị đoạn
diệt; thân, mạng đời sau bị đoạn diệt, cho nên bảo rằng:
Chẳng phải có, chẳng phải không cái chết của đời khác như
vậy.”
- Bấy giờ, Ðức Thế
Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- “Lâu xa về thời
quá khứ có vị vua tên là Kính Diện. Một hôm nhà vua tập họp
những người mù lại một chỗ và hỏi: Này những người mù từ khi
mới sinh, các ngươi có biết con voi không? Họ đáp: Tâu đại
vương, chúng tôi không biết! Nhà vua lại hỏi: Các ngươi có
muốn biết hình loại con voi ra sao không? Họ đáp: Muốn biết.
Bấy giờ nhà vua ra lệnh cho người hầu dắt con voi đến và bảo
những người mù này dùng tay của mình sờ thử. Trong đó có
người sờ trúng vòi voi, thì vua nói rằng đấy là con voi; có
người sờ trúng ngà voi, có người sờ trúng tai voi, có người
sờ trúng đầu voi, có người sờ trúng lưng voi, có người sờ
trúng bụng voi, có người sờ trúng bắp đùi voi, có người sờ
trúng chân voi, có người sờ trúng bàn chân voi, có người sờ
trúng đuôi voi, thì vua cứ theo chỗ sờ được của họ mà bảo:
Ðó là con voi.
- “Rồi vua
Kính Diện liền ra lệnh dắt voi lui và hỏi những người mù:
Voi giống như cái gì? Trong những người mù này, người sờ
trúng vòi thì bảo voi giống như cái càng xe bị cong; người
sờ trúng ngà thì bảo voi giống như cái chày; người sờ trúng
tai thì bảo voi giống như cái nia; người sờ trúng đầu thì
bảo voi giống như cái vạc; người sờ trúng lưng thì bảo voi
giống như gò đất; người sờ trúng bụng thì bảo voi giống như
bức tường; người sờ trúng bắp đùi thì bảo voi giống như gốc
cây; người sờ trúng cái chân thì bảo voi giống như trụ cột;
người sờ trúng bàn chân thì bảo voi giống như cái cối; người
sờ trúng đuôi thì bảo voi giống như cây chổi. Họ tranh cãi
nhau về việc đúng sai, người này bảo như vậy, người kia bảo
không phải như vậy, vân vân và vân vân không dứt, đưa đến
việc đấu tranh nhau. Lúc ấy nhà vua thấy vậy, hoan hỷ cười
to. Rồi thì, vua Kính Diện nói bài tụng:
- Những
người mù tụ tập,
- Tranh
cãi tại nơi này,
- Thân
voi vốn một thể,
- Tưởng
khác sinh thị phi”.
- Phật bảo các
Tỳ-kheo:
- “Các dị học ngoại đạo lại
cũng như vậy; không biết Khổ đế, không biết Tập đế, Tận đế
và Ðạo đế, sinh ra những kiến giải khác nhau, tranh chấp thị
phi với nhau, họ tự cho mình là đúng, nên đưa đến mọi việc
tranh tụng. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào có thể biết như
thật về Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế và
Khổ xuất yếu thánh đế, những vị ấỵ sẽ tự tư duy và khéo cùng
nhau hòa hợp, cùng một lãnh thọ, cùng một Thầy học, như nước
với sữa, thì pháp Phật mới rực rỡ, sống an lạc lâu dài.”
- Bấy giờ Ðức Thế Tôn nói bài
kệ:
- Nếu
người không biết khổ,
- Không
biết chỗ khổ sinh;
- Lại
cũng không biết khổ,
- Sẽ
diệt tận ở đâu;
- Lại
cũng không thể biết
- Con
đường diệt khổ tập;
- Thì
mất tâm giải thoát,
- Tuệ
giải thoát cũng mất;
- Không
thể biết gốc khổ,
- Nguồn
sanh, già, bệnh, chết.
- Nếu
biết thật về khổ,
- Biết
nhân sinh ra khổ;
- Cũng
biết rõ khổ kia,
- Sẽ
diệt tận nơi nào;
- Lại
hay khéo phân biệt,
- Con
đường diệt khổ tập;
- Thì
được tâm giải thoát,
- Tuệ
giải thoát cũng vậy.
- Người
này chấm dứt được,
- Cội
gốc của khổ ấm;
- Hết
sanh, già, bệnh, chết,
- Nguồn
gốc của thọ, hữu.”
- Này các Tỳ-kheo,
cho nên các Thầy nên siêng cầu phương tiện tư duy về Khổ
thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế và Khổ xuất
yếu thánh đế.
- --o0o--
|
|