|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH TRƯỜNG A
HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá &
Trúc Phật Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
- PHẦN IV
-
30. KINH THẾ KÝ
-
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Trên đỉnh Tu-di sơn vương có thành của trời Tam
thập tam. Thành dọc ngang rộng tám vạn do-tuần; có bảy lớp
với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang
hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu. Thành cao một trăm
do-tuần, phần trên rộng sáu mươi do-tuần. Cửa thành cao sáu
mươi do-tuần, rộng ba mươi do-tuần. Cách nhau năm trăm
do-tuần là có một cái cửa; tại mỗi cửa này có năm trăm quỷ
thần giữ gìn bảo vệ trời Tam thập tam. Thành bằng vàng thì
cửa bằng bạc, thành bạc thì cửa vàng. cho đến vô số các loài
chim cùng nhau ca hót bi thương, cũng lại như vậy.
-
“Trong thành lớn này lại có thành nhỏ, dọc ngang
rộng sáu vạn do-tuần. Thành có bảy lớp với bảy lớp lan can,
bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng
bảy thứ báu. Thành cao một trăm do-tuần, rộng sáu mươi
do-tuần. Cửa thành cách nhau năm trăm do-tuần, cao sáu mươi
do-tuần, rộng ba mươi do-tuần; tại mỗi cửa thành có năm trăm
quỷ thần thị vệ tại bên cửa, để giữ gìn trời Tam thập tam.
Thành bằng vàng thì cửa bằng bạc, thành bằng bạc thì cửa
bằng vàng; thành bằng thủy tinh thì cửa bằng lưu ly, thành
bằng lưu ly thì cửa bằng thủy tinh; thành bằng xích châu thì
cửa bằng mã não, thành bằng mã não thì cửa bằng xích châu;
thành bằng xa cừ thì cửa bằng các thứ báu khác.
-
“Về lan can này: nếu lan can bằng vàng thì tam cấp
bằng bạc, lan can bằng bạc thì tam cấp bằng vàng; lan can
bằng thủy tinh thì tam cấp bằng lưu ly, lan can bằng lưu ly
thì tam cấp bằng thủy tinh; lan can bằng xích châu thì tam
cấp bằng mã não, lan can bằng mã não thì tam cấp bằng xích
châu; lan can bằng xa cừ thì tam cấp bằng các thứ báu khác.
Trên những lan can này có lưới báu; dưới lưới vàng thì treo
linh bạc, dưới lưới bạc thì treo linh vàng; lưới bằng lưu ly
thì treo linh bằng thủy tinh, lưới bằng thủy tinh thì treo
linh bằng lưu ly; lưới bằng xích châu thì treo linh bằng mã
não, lưới bằng mã não thì treo linh bằng xích châu; lưới
bằng xa cừ thì treo linh bằng các thứ báu khác. Về cây vàng:
nếu rễ vàng, cành vàng thì lá hoa bằng bạc ròng. Về cây bạc:
nếu rễ bạc, cành bạc thì lá hoa bằng vàng ròng. Về cây thủy
tinh: nếu rễ, cành bằng thủy tinh thì lá, hoa bằng lưu ly.
Về cây lưu ly: nếu rễ, cành bằng lưu ly thì lá hoa bằng thủy
tinh. Về cây xích châu: nếu rễ, cành bằng xích châu thì lá
hoa bằng mã não. Về cây mã não: nếu rễ, cành bằng mã não thì
lá hoa bằng xích châu. Về cây xa cừ: nếu rễ, cành bằng xa cừ
thì lá hoa bằng các thứ báu khác.
-
“Về bảy lớp thành này: thành có bốn cửa, cửa có
lan can. Trên bảy lớp thành đều có đền đài, lầu các bao bọc
chung quanh, có vườn rừng ao tắm, sinh ra các loài hoa quý
nhiều màu sắc xen lẫn nhau, cây báu thành hàng, hoa trái tốt
tươi đầy dẫy, hương thơm bay phảng phất khắp nơi làm đẹp
lòng mọi người. Có chim le, chim nhạn, uyên ương, cùng các
loài chim kỳ lạ, vô số hàng ngàn loại, cùng nhau ca hót.
-
“Khoảng giữa bên ngoài thành nhỏ này có cung điện
của Long vương Y-la-bát, dọc ngang rộng sáu ngàn do-tuần.
Vách tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy
lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy
thứ báu. cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu
lo, cũng lại như vậy.
-
“Trong thành Thiện kiến này có Thiện pháp đường,
dọc ngang một trăm do-tuần; có bảy lớp lan can, bảy lớp
lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ
báu. Nền nhà hoàn toàn bằng vàng ròng, trên mặt phủ lưu ly.
Chu vi những cây cột trong nhà này là mười do-tuần, cao một
trăm do-tuần, dưới những trụ cột của ngôi nhà này là nơi đặt
ngự tòa của Thiên đế, bề ngang rộng độ một do-tuần, có nhiều
màu sắc xen lẫn nhau được tạo thành bởi bảy thứ báu. Ngự tòa
này êm ái, mềm mại như lụa trời và bên tả bên hữu, giáp hai
bên tòa, có mười sáu chỗ ngồi.
-
“Pháp đường này có bốn cửa; chung quanh là lan can
bằng bảy thứ báu. Ðường cấp của ngôi nhà này dọc ngang năm
trăm do-tuần, có bảy lớp cửa ngoài, bảy lớp lan can, bảy lớp
lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ
báu... cho đến, vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo,
cũng lại như vậy.
-
“Phía Bắc ngôi nhà Thiện kiến có cung điện Ðế
Thích, dọc ngang một ngàn do-tuần; tường vách cung điện có
bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây,
trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến, vô số
các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
-
“Phía Ðông ngôi nhà Thiện kiến có vườn rừng tên là
Thô sáp, ngang rộng độ một ngàn do-tuần; tường vách cung
điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp
hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho
đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại
như vậy. Trong vườn Thô sáp có hai ụ đá do vàng trời trang
sức, một gọi là Hiền, hai gọi là Thiện hiền, bề ngang mỗi ụ
rộng năm mươi do-tuần, đá này mềm mại, độ mềm mại của nó như
vải trời.
-
“Phía Nam cung điện Thiện kiến có khu vườn tên là
Họa lạc , ngang rộng một ngàn do-tuần; vách tường của khu
vườn có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp
hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho
đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại
như vậy. Trong vườn này có hai ụ đá bằng bảy thứ báu, một là
Họa, hai là Thiện họa, bề ngang mỗi ụ rộng độ năm mươi
do-tuần, ụ đá này mềm mại, độ mềm mại của nó như thiên y.
-
“Phía Tây ngôi nhà Thiện kiến có khu vườn tên là
Tạp, ngang rộng một ngàn do-tuần, bờ tường của khu vườn có
bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây,
trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến vô số
các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
Trong khu vườn này có hai ụ đá, một là Thiện kiến, hai là
Thuận thiện kiến, do vàng trời trang sức và do bảy báu tạo
thành, bề ngang mỗi ụ rộng độ năm mươi do-tuần, ụ đá này mềm
mại và độ mềm mại của nó như thiên y.
-
“Phía Bắc ngôi nhà Thiện kiến có khu vườn tên là
Ðại hỷ, ngang rộng một ngàn do-tuần, bờ tường của khu vườn
có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng
cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến vô
số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
Trong vườn này có hai ụ đá, một gọi là Hỷ, hai gọi là Ðại
hỷ, do xa cừ trang sức, ngang rộng năm mươi do-tuần, ụ đá
này mềm mại, độ mềm mại của nó như thiên y.
-
“Ở quãng giữa vườn Thô sáp và vườn Họa nhạc có ao
Nan-đà, ngang rộng một trăm do-tuần; nước của nó lắng trong,
không có một chút bợn nhơ, chung quanh bên cạnh thềm là bảy
lớp hào báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng
cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu. Bốn phía hồ
này có bốn bậc thang, chung quanh lan can làm bằng bảy báu,.
cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, lại
cũng như vậy.
-
“Lại nữa trong ao này lại sinh ra bốn loại hoa
xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, xanh nhạt, nhiều màu xen lẫn
nhau; bóng rợp của một lá hoa này che một do-tuần; hương
thơm phảng phất khắp một do-tuần; rễ của nó như ổ trục xe,
nhựa của nó lưu xuất ra có màu trắng như sữa, vị ngọt như
mật. Bốn phía ao này lại có những khu vườn.
-
“Giữa hai khu vườn Tạp và khu vườn Ðại hỷ có cây
tên là Trú độ, chu vi độ bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần,
cành lá bao trùm ra bốn phía độ năm mươi do-tuần, ngoài cây
có ngôi đình trống, bề ngang rộng năm trăm do-tuần, bờ tường
của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp võng
lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ
báu... cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo,
cũng lại như vậy.
-
“Ngoài ra các cung điện khác của Ðao-lợi thiên,
ngang rộng một ngàn do-tuần, tường cung điện có bảy lớp với
bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang
hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến vô số các loài
chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Những cung
điện này ngang rộng từ chín trăm, tám trăm cho đến nhỏ nhất
là một trăm do-tuần, bờ tường cung điện có bảy lớp, bảy lớp
lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng
chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến vô số các loài chim
cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Những cung điện
nhỏ, ngang rộng từ một trăm do-tuần, chín mươi, tám mươi,
cho đến cực nhỏ là mười hai do-tuần, bờ tường của cung điện
có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng
cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến vô
số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
-
“Phía Bắc ngôi nhà Thiện kiến có hai đường cấp dẫn
đến cung điện Ðế Thích. Phía Ðông ngôi nhà Thiện kiến có hai
đường cấp dẫn đến khu vườn Thô sáp; lại có hai đường cấp dẫn
đến vườn Họa lạc; lại có đường cấp dẫn đến trong khu vườn
Tạp; lại có đường cấp dẫn đến khu vườn Ðại hỷ; lại có đường
cấp dẫn đến ao Ðại hỷ ; lại có đường cấp dẫn đến cây Trú độ;
lại có đường cấp dẫn đến cung điện Tam thập tam thiên; lại
có đường cấp dẫn đến cung điện chư Thiên; lại có đường cấp
dẫn đến cung điện Y-la-bát Long vương. Nếu khi Thiên Ðế
Thích muốn du ngoạn đến trong vườn Thô sáp, liền nghĩ đến vị
đại thần của trời Tam thập tam, thì đại thần Tam thập tam
thiên lại tự nghĩ rằng: Hiện nay Ðế Thích đang nghĩ đến ta.
Liền tự mình sửa soạn trang bị, đóng ngựa vào xe báu, cùng
với vô số mọi người vây quanh trước sau đến đứng một bên
trước Ðế Thích. Khi Ðế Thích nghĩ đến chư Thiên khác, thì
chư Thiên nghĩ rằng: Hiện nay Ðế Thích đang nghĩ đến ta.
Liền tự mình sửa soạn trang bị, cùng với vô số chúng chư
Thiên theo nhau đến đứng một bên trước Ðế Thích. Khi Ðế
Thích nghĩ đến Y-la-bát Long vương, thì Y-la-bát Long vương
lại tự nghĩ rằng: Hiện nay Ðế Thích đang nghĩ đến ta. Long
vương liền tự biến hóa thân hình ra ba mươi ba cái đầu, mỗi
cái đầu có sáu cái răng, mỗi cái răng có bảy hồ tắm, mỗi hồ
tắm có bảy hoa sen lớn, mỗi hoa sen có một trăm lá, mỗi lá
hoa có bảy ngọc nữ, ca nhạc, múa xướng, đánh trống, khảy
đàn, vỗ nhịp ở trên đó. Sau khi vị Long vương biến hóa như
vậy rồi, đi đến đứng một bên trước Ðế Thích.
-
“Lúc này, Thích-đề-hoàn Nhân mặc vào thân mình
những đồ trang sức quý báu cùng anh lạc, ngồi trên đầu thứ
nhất của Y-la-bát Long vương, kế đó, hai bên mỗi đầu còn có
mười sáu vị Thiên vương ở trên đỉnh đầu Long vương này, theo
thứ tự mà ngồi. Bấy giờ, Thiên Ðế Thích cùng với vô số quyến
thuộc chư Thiên vây quanh đến vườn Thô sáp, tự nhiên có gió
thổi cửa tự động mở, tự nhiên có gió thổi khiến cho đất
sạch; tự nhiên có gió thổi làm những đóa hoa rơi khắp mặt
đất và tích tụ hoa rụng lại ngập đến cả đầu gối. Lúc này
Thiên Ðế Thích ngồi trên hai ụ đá Hiền và Thiện hiền theo ý
thích, còn Ba mươi ba vị Thiên vương mỗi người tự theo thứ
tự mà ngồi. Lại nữa, có những chư Thiên không được phép theo
hầu để đến tham quan viên quán này, không được vào vườn để
vui đùa ngũ dục. Vì sao? Vì công đức mà họ vốn thực hành
không đồng. Lại có những chư Thiên thấy được khu vườn mà
không vào được và không được cùng nhau vui đùa ngũ dục. Vì
sao? Vì công đức mà họ vốn thực hành không đồng. Lại có
những chư Thiên thấy được, vào được, nhưng không được cùng
nhau vui đùa ngũ dục. Vì sao? Vì công đức mà họ vốn thực
hành không đồng. Lại có những chư Thiên vào được, thấy được
và vui đùa ngũ dục được. Vì sao? Vì công đức mà họ vốn thực
hành đồng nhau.
-
“Sau thời gian du hí trong vườn, chư Thiên đã tự
vui ngũ dục, từ một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, họ đã
cùng nhau vui đùa xong và mỗi người tự trở về cung điện. Khi
Thiên Ðế Thích du ngoạn vườn Họa lạc, vườn Tạp, vườn Ðại hỷ
cũng lại như vậy.
-
“Vì sao gọi là vườn Thô sáp? Vì lúc vào trong vườn
này, thì thân thể trở nên thô nhám. Vì sao gọi là vườn Họa
lạc? Vì lúc vào vườn này, thì thân thể tự nhiên có những sắc
màu như vẽ dùng để vui đùa. Vì sao gọi là vườn Tạp? Vì
thường những ngày mùng tám, ngày mười bốn, ngày mười lăm của
mỗi tháng, ngoại trừ người nữ A-tu-luân, các thể nữ được thả
tự do để cùng các Thiên tử ở trong vườn này cùng du hí hỗn
tạp với nhau, cho nên gọi là vườn Tạp. Vì sao gọi là vườn
Ðại hỷ? Vì lúc vào vườn này, thì có thể vui đùa một cách
hoan hỷ, cho nên gọi là Ðại hỷ. Vì sao gọi là nhà Thiện
pháp? Vì ở trên ngôi nhà này mà tư duy về pháp vi diệu, nhận
lãnh cái vui thanh tịnh, cho nên gọi là nhà Thiện pháp. Vì
sao gọi là cây Trú độ? Vì cây này có vị thần tên là Mạn-đà
thường thường tấu nhạc để tự vui đùa, cho nên gọi là Trú độ.
Lại nữa, cành nhánh của cây lớn này vươn ra bốn phía, hoa lá
rậm rạp tốt tươi như đám mây báu lớn, cho nên gọi là Trú độ.
-
“Hai bên tả hữu của Thích Ðề-hoàn Nhân thường có
mười đại Thiên tử theo sau để hầu hạ và bảo vệ đó là: một
tên là Nhân-đà-la, hai tên là Cù-di, ba tên là Tỳ-lâu, bốn
tên là Tỳ-lâu-bà-đề, năm tên là Ðà-la, sáu tên là Bà-la, bảy
tên là Kỳ-bà, tám tên là Linh-hê-nậu, chín tên là Vật-la,
mười tên là Nan-đầu. Thích Ðề-hoàn Nhân có thần lực lớn và
oai đức như vậy.
-
Các loại hoa mọc trong nước mà người Diêm-phù-đề
quý như: Ưu-bát-la, Bát-đầu-ma, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lỵ,
Tu-càn-đầu, hương thơm của chúng thanh khiết nhẹ nhàng. Cũng
vậy, các loại hoa mọc ra trên đất liền; đó là: Giải thoát
hoa, Ðảm-bặc-hoa, Bà-la-đà-hoa, Tu-mạn-châu-na hoa, Bà-sư
hoa, Ðồng nữ hoa. Giống như những hoa sinh ra ở nước, ở đất
liền, thì những hoa sinh ra ở Câu-da-ni, Uất-đan-viết,
Phất-vu-đãi, Long cung, Kim sí điểu cung cũng lại như vậy.
Những hoa sinh ra ở trong thủy cung của A-tu-luân: hoa
Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lỵ,
hương thơm của chúng nhẹ nhàng thanh khiết. Những hoa sinh
ra nơi đất liền: hoa Thù-hảo, hoa Tần-phù, hoa đại Tần-phù,
hoa Già-già-lợi, hoa đại Già-già-lợi, hoa Mạn-đà-la, hoa đại
Mạn-đà-la. Những hoa sinh ra ở nước, ở đất liền này được Tứ
thiên vương, Tam thập tam thiên, Diễm-ma thiên, Ðâu-suất
thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên yêu quý cũng
lại như vậy.
-
“Cõi Trời có mười loại pháp; đó là: một, bay đi
không hạn số; hai, bay đến không hạn số; ba, đi vô ngại;
bốn, đến vô ngại; năm, thân Trời không có da, xương, gân,
mạch, máu, thịt; sáu, thân không có việc đại, tiểu tiện bất
tịnh; bảy, thân không mệt nhọc; tám, Thiên nữ không sinh đẻ;
chín, mắt Trời không nháy; mười, thân tùy thuộc vào màu sắc
của ý mình, như thích xanh thì hiện xanh, thích vàng thì
vàng, đỏ, trắng và các màu khác tùy theo ý mình mà hiện. Ðó
là mười pháp của chư Thiên.
-
“Con người có bảy màu sắc, đó là: có người màu
lửa, có người màu xanh, có người màu vàng, có người màu đỏ,
có người màu đen, có người màu trắng. Chư Thiên, A-tu-luân
cũng có bảy màu sắc như vậy.
-
“Các Tỳ-kheo, ánh sáng của con đom đóm không bằng
đèn, nến; ánh sáng của đèn, nến không bằng bó đuốc; ánh sáng
của bó đuốc không bằng đống lửa; ánh sáng của đống lửa không
bằng ánh sáng của sắc thân, y phục, anh lạc, thành quách,
cung điện của Tứ thiên vương; ánh sáng của sắc thân, y phục,
anh lạc, thành quách, cung điện của Tứ thiên vương không
bằng ánh sáng của Tam thập tam thiên; ánh sáng của Tam thập
tam thiên không bằng ánh sáng của Diệm-ma thiên; ánh sáng
của Diệm-ma thiên không bằng ánh sáng của Ðâu-suất thiên,
ánh sáng của Ðâu-suất thiên không bằng ánh sáng của Hóa tự
tại thiên; ánh sáng của Hóa tự tại thiên không bằng ánh sáng
của Tha hóa tự tại thiên; ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên
không bằng ánh sáng của sắc thân, y phục, cung điện
Phạm-ca-di thiên; ánh sáng của sắc thân, y phục, cung điện
Phạm-ca-di thiên không bằng ánh sáng của Quang âm thiên; ánh
sáng của Quang âm thiên không bằng ánh sáng của Biến tịnh
thiên; ánh sáng của Biến tịnh thiên không bằng ánh sáng của
Quả thật thiên; ánh sáng của Quả thật thiên không bằng ánh
sáng của Vô tưởng thiên; ánh sáng của Vô tưởng thiên không
bằng ánh sáng của Vô tạo thiên; ánh sáng của Vô tạo thiên
không bằng ánh sáng của Vô nhiệt thiên; ánh sáng của Vô
nhiệt thiên không bằng ánh sáng của Thiện kiến thiên; ánh
sáng của Thiện kiến thiên không bằng ánh sáng của Ðại Thiện
kiến thiên; ánh sáng của Ðại Thiện kiến thiên không bằng ánh
sáng của Cứu cánh thiên; ánh sáng của Cứu cánh thiên không
bằng ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên; ánh sáng của Tha hóa
tự tại thiên không bằng ánh sáng của Phật. Từ ánh sáng của
con đom đóm đến ánh sáng của Phật, mà kết hợp những thứ ánh
sáng như vậy lại, thì cũng không bằng ánh sáng của Khổ đế,
Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế. Cho nên, các Tỳ-kheo! Muốn tìm
cầu ánh sáng, thì phải cầu ánh sáng của Khổ đế, Tập đế, Diệt
đế và Ðạo đế. Các ngươi nên như vậy mà tu hành.
-
“Thân người ở cõi Diêm-phù-đề cao ba khuỷu tay
rưỡi; y dài bảy khuỷu tay, rộng ba khuỷu tay rưỡi. Thân
người ở Cù-da-ni, Phất-vu-đãi cũng cao ba khuỷu tay; y dài
bảy khuỷu tay, rộng ba khuỷu tay rưỡi. Thân người
Uất-đan-viết cao bảy khuỷu tay; y dài mười bốn khuỷu tay,
rộng bảy khuỷu tay. Thân A-tu-luân cao một do-tuần; y dài
hai do-tuần, rộng một do-tuần, y dày sáu lạng. Thân của Tứ
thiên vương cao nửa do-tuần; y dài một do-tuần, rộng nửa
do-tuần, y dày nửa lạng. Thân của Ðao-lợi thiên cao một
do-tuần; y dài hai do-tuần, rộng một do-tuần, y dày sáu
lạng. Thân của Diệm-ma thiên cao hai do-tuần; y dài bốn
do-tuần, rộng hai do-tuần, y dày ba lạng. Thân của Ðâu-suất
thiên cao bốn do-tuần; y dài tám do-tuần, rộng bốn do-tuần,
y dày một lạng rưỡi. Hóa tự tại thiên cao tám do-tuần; y dài
mười sáu do-tuần, rộng tám do-tuần, y dày một lạng. Thân của
Tha hóa tự tại thiên cao mười sáu do-tuần; y dài ba mươi hai
do-tuần, rộng mười sáu do-tuần, y dày nửa lạng. Từ chư Thiên
trở lên, mỗi nơi tùy theo thân hình của họ mà mặc y phục.
-
“Tuổi thọ của người Diêm-phù-đề là một trăm năm,
ít ai vượt qua khỏi; mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của
người Câu-da-ni là hai trăm năm, ít ai vượt qua khỏi, mà
phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của người Phất-vu-đãi là ba
trăm năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi
thọ của người Uất-đan-viết là một ngàn năm, không có tăng
hay giảm. Tuổi thọ của ngạ quỷ là bảy vạn năm, ít ai vượt
qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của loài rồng và
Kim sí điểu là một kiếp, hoặc có giảm đi. Tuổi thọ của
A-tu-luân là một ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi,
mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Tứ thiên vương là năm
trăm năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là
dưới. Tuổi thọ của Ðao-lợi thiên là một ngàn năm của cõi
trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ
của Diệm-ma thiên là hai ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt
qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Ðâu-suất thiên
là bốn ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần
nhiều là dưới. Tuổi thọ của Hóa tự tại thiên là tám ngàn năm
của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới.
Tuổi thọ của Tha hóa tự tại thiên là sáu ngàn năm của cõi
trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ
của Phạm-ca-di thiên là một kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ
của Quang âm thiên là hai kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ
của Biến tịnh thiên là ba kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ
của Quả thật thiên là bốn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ
của Vô tưởng thiên là năm trăm kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi
thọ của Vô tạo thiên là một ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt.
Tuổi thọ của Vô nhiệt thiên là hai ngàn kiếp, hoặc có giảm
bớt. Tuổi thọ của Thiện kiến thiên là ba ngàn kiếp, hoặc có
giảm bớt. Tuổi thọ của Ðại Thiện kiến thiên là bốn ngàn
kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Sắc cứu cánh thiên là
năm ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Không xứ thiên
là một vạn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Thức xứ
thiên là hai vạn một ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ
của Bất dụng xứ thiên là bốn vạn hai ngàn kiếp, hoặc có giảm
bớt. Tuổi thọ của Hữu tưởng vô tưởng thiên là tám vạn bốn
ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Trong giới hạn ấy, được gọi là
chúng sanh; trong giới hạn ấy được gọi làlà tuổi thọ; trong
giới hạn ấy được gọi là thế giới; trong giới hạn ấy là sự
luân chuyển của tập hợp uẩn, xứ, giới, qua lại trong các
cõi, sanh, già, bệnh, chết.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Tất cả chúng sanh do bốn loại thức ăn mà tồn tại.
Một là đoàn tế hoạt thực. Hai là xúc thực. Ba là niệm thực.
Bốn là thức thực. Những loại thức ăn này chúng sanh ăn không
giống nhau. Như người cõi Diêm-phù-đề dùng các loại cơm, bún
mì, cá thịt, gọi là loại đoàn thực. Y phục, tắm giặt, được
gọi là tế hoạt thực. Người Câu-da-ni, Phất-vu-đãi cũng ăn
các loại cơm, bún mì, cá thịt được gọi là đoàn thực; y phục,
tắm giặt là tế hoạt thực. Người Uất-đan-viết thì chỉ ăn lúa
gạo chín tự nhiên, đầy đủ vị trời lấy là đoàn thực; cũng lấy
y phục, tắm giặt làm tế hoạt thực. Loài rồng, Kim sí điểu,
thì ăn các con giải, con đà, con cá, con ba-ba lấy làm đoàn
thực và tắm gội, y phục làm tế hoạt thực. A-tu-luân thì ăn
đoàn thực sạch lấy làm đoàn thực và lấy tắm giặt, y phục
làm tế hoạt thực. Tứ thiên vương, Ðao-lợi thiên, Diệm-ma
thiên, Ðâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại
thiên ăn loại đoàn thực sạch lấy làm đoàn thực và tắm giặt,
y phục làm tế hoạt thực. Chư Thiên từ đây trở lên dùng hỷ
lạc thiền định làm thức ăn.
-
“Những chúng sanh nào dùng xúc thực? Những chúng
sanh, sinh ra từ trứng dùng xúc thực.
-
“Những chúng sanh nào dùng niệm thực? Có chúng sanh nhờ vào
niệm thực mà được tồn tại, tăng trưởng các căn, tuổi thọ
không dứt, đó là niệm thực.
-
“Những chúng sanh nào dùng thức thực? Những chúng
sanh ở địa ngục và cõi Vô sắc thiên, những loại chúng sanh
này dùng thức thực.
-
“Người cõi Diêm-phù-đề dùng các thứ vàng bạc, đồ
quý báu, lúa gạo, lụa là, nô bộc để mưu sinh buôn bán mà tự
nuôi sống. Người Câu-da-ni dùng bò, dê, châu báu để trao đổi
mà nuôi sống. Người Phất-vu-đãi dùng thóc, vải, châu ngọc
để trao đổi mà tự nuôi sống. Người Uất-đan-viết tuy không
dùng cách trao đổi nhưng cũng mưu sinh để tự nuôi sống.
-
“Người cõi Diêm-phù-đề có sự mai mối hôn nhân, con trai lấy
vợ, con gái lấy chồng. Người Câu-da-ni và người Phất-vu-đãi,
cũng có mai mối hôn nhân, con trai lấy vợ, con gái lấy
chồng. Người Uất-đan-viết, thì không có vấn đề hôn nhân,
không có sự lấy chồng, lấy vợ của con trai và con gái. Loài
rồng và Kim sí điểu cùng A-tu-luân, thì cũng có hôn nhân, có
giá thú giữa con trai và con gái. Tứ thiên vương, Ðao-lợi
thiên. cho đến Tha hóa tự tại thiên cũng có hôn nhân và có
giá thú giữa người nam và người nữ. Chư Thiên từ đây trở lên
không còn có nam và nữ.
-
“Người cõi Diêm-phù-đề, vì giữa nam và nữ giao hội
nhau, thân và thân xúc chạm nhau, nên sanh ra âm dương.
Những người Câu-da-ni, người Phất-vu-đãi, người Uất-đan-viết
cũng dùng thân với thân xúc chạm nhau nên cũng sanh ra âm
dương. Các loài rồng, Kim sí điểu cũng dùng thân với thân
xúc chạm nhau nên cũng sanh ra âm dương. Loài A-tu-luân thì
thân với thân gần gũi nhau phát sanh khí mà trở thành âm
dương. Tứ thiên vương, Ðao-lợi thiên thì cũng lại như vậy.
Diệm-ma thiên, thì gần gũi nhau mà thành âm dương. Ðâu-suất
thiên thì cầm tay nhau mà thành âm dương. Hóa tự tại thiên
thì nhìn kỹ nhau mà thành âm dương. Tha hóa tự tại thiên thì
láy mắt nhìn nhau mà thành âm dương. Chư Thiên từ đây trở
lên thì không còn dâm dục nữa.
-
“Nếu có chúng sanh nào, với thân làm ác, miệng nói
lời ác, ý nghĩ điều ác, thì sau khi thân hoại mạng chung,
thức người đời diệt mất; thức nê-lê bắt đầu sinh ra. Nhân
thức nên có danh sắc. Nhân danh sắc nên có sáu nhập. Hoặc có
chúng sanh với thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều
ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, bị đọa vào trong loài
súc sanh; sau đó thức người đời bị diệt; thức súc sanh bắt
đầu sinh ra; nhân thức nên có danh sắc; nhân danh sắc nên có
sáu nhập. Hoặc có chúng sanh với thân làm ác, miệng nói lời
ác, ý nghĩ điều ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, sẽ đọa
vào trong ngạ quỷ; sau đó thức người đời bị diệt, thức ngạ
quỷ bắt đầu sinh ra; nhân thức nên có danh sắc; nhân danh
sắc nên có sáu nhập. Hoặc có chúng sanh với thân làm thiện,
miệng nói những lời thiện, ý nghĩ điều thiện, thì sau khi
thân hoại mạng chung, sẽ được sinh vào trong cõi người; sau
đó thức đời trước diệt, thức loài người bắt đầu sinh ra;
nhân thức nên có danh sắc; nhân danh sắc nên có sáu nhập.
-
“Hoặc có chúng sanh với thân làm thiện, miệng nói lời thiện,
ý nghĩ điều thiện, thì sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sinh
về cõi Tứ thiên vương; sau đó thức đời trước diệt; thức loài
trời Tứ thiên vương bắt đầu sinh ra; nhân thức nên có danh
sắc; nhân danh sắc nên có sáu nhập.
-
“Lúc bắt đầu sinh ở cõi Trời, hình dạng cũng giống
hệt như con nít chừng hai, ba tuổi của cõi người này, tự
nhiên hóa hiện, ngồi trên đầu gối Trời. Vị Trời ấy liền nói:
Ðây là con ta. Do quả báo của hành vi, nên tự nhiên mà có
nhận thức; liền tự nghĩ rằng: Ta do đã làm những gì, mà nay
ta sinh ra nơi này? Rồi tự nhớ lại: Ðời trước ta ở nhân
gian, thân làm việc thiện, miệng nói lời thiện, ý nghĩ điều
thiện. Vì đã làm những việc này nên nay được sanh về cõi
Trời. Giả như ở đây ta mạng chung, mà sinh vào cõi nhân gian
trở lại, thì phải thanh tịnh thân, khẩu, ý và siêng năng gấp
đôi trong việc tu tập các hạnh lành. Sau khi sinh ra chưa
lâu, hài nhi tự biết đói, thì tự nhiên trước mặt hài nhi này
có đồ đựng quý, trong đó đựng thức ăn thanh tịnh của cõi
Trời, tự nhiên có, đủ cả trăm mùi vị. Nếu phước báo nhiều
thì thức ăn màu trắng. Nếu phước báo vừa thì thức ăn có màu
xanh. Còn nếu phước báo ít thì thức ăn có màu đỏ. Ðứa trẻ
này dùng tay lấy thức ăn đưa vào miệng, thức ăn tự nhiên
tiêu mất, như váng sữa được chế vào trong lửa. Khi đứa trẻ
ăn xong, mới tự cảm thấy khát, thì tự nhiên có đồ đựng quý,
đựng đầy nước cam lồ. Nếu là người có nhiều phước báo thì
nước này có màu trắng; nếu người này phước báo vừa vừa thì
nước này có màu xanh; nếu là ngưới có phước báo ít thì nước
này có màu đỏ. Ðứa trẻ này lấy nước uống; nước tự động tiêu
mất như váng sữa được chế vào lửa vậy.
-
“Ðứa trẻ này sau khi ăn uống xong, thì thân thể
cao lớn cũng như các chư Thiên khác, liền vào trong hồ nước
mà tự mình thưởng thức sự tắm gội rửa ráy. Khi đã tự mình
thưởng thức xong thì ra khỏi hồ tắm, đến dưới cây hương. Cây
hương sẽ cong xuống; nó dùng tay lấy các loại hương tự thoa
vào thân mình. Sau đó lại đến cây y-kiếp-bối. Cây cong
xuống, nó lấy các loại y mặc vào thân mình. Tiếp đến nơi cây
trang nghiêm. Cây cong xuống, nó lấy các thứ đồ trang sức,
để tự trang điểm thân. Tiếp đến cây Hoa man, cây nghiêng
xuống môt bên, lấy tràng hoa đội lên đầu. Tiếp đến cây đồ
vật, cây nghiêng xuống một bên, để lấy các thứ đồ vật báu.
Tiếp đến cây có trái, cây nghiêng xuống một bên, hái trái tự
nhiên, hoặc ăn hay ngậm, hoặc lọc nước mà uống. Tiếp đến cây
nhạc khí, cây nghiêng xuống một bên, lấy nhạc khí Trời, khảy
lên âm thanh trong trẻo vi diệu hòa cùng lời ca. Khi đứa trẻ
cõi Trời hướng đến các khu vườn, thì thấy vô số Thiên nữ
đang khảy đàn đánh trống ca hát nói cười với nhau. Bấy giờ
đứa trẻ cõi Trời dạo chơi thấy những cảnh như vậy, bèn sinh
lòng đắm nhiễm, nhìn Ðông mà quên Tây, nhìn Tây mà quên
Ðông. Lúc mà đứa trẻ này mới sinh, tự biết mà tự nghĩ rằng:
Do hành vi gì mà nay ta được sinh ra nơi này? Khi đang dạo
chơi xem cảnh nơi kia, thì lại quên hết ý nghĩ này. Thế rồi,
liền có thể nữ theo hầu.
-
Hoặc có chúng sanh với thân làm thiện, miệng nói
lời thiện, ý nghĩ điều thiện, thì sau khi thân hoại mạng
chung sẽ sinh về cõi Ðao-lợi thiên; sau đó thức đời trước
diệt; thức kia bắt đầu sinh ra; nhân thức này nên có danh
sắc, nhân danh sắc nên có sáu nhập. Kẻ mới bắt đầu sinh của
cõi Trời kia, giống như đứa trẻ hai hay ba tuổi ở cõi
Diêm-phù-đề, tự nhiên biến hiện ra ở trên đầu gối của Trời
và vị Trời ấy nói: Ðây là con trai của ta. Ðây là con gái
của ta. Cũng lại như đã kể trên.
-
“Hoặc có chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện,
thì sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi Diệm-ma
thiên; kẻ mới bắt đầu sinh của cõi trời kia, giống như đứa
trẻ ba, bốn tuổi ở cõi Diêm-phù-đề này.
-
“Hoặc có chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện,
sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi Ðâu-suất thiên;
kẻ mới sinh ở cõi Trời này, giống như đứa trẻ bốn, năm tuổi
ở thế gian này.
-
“Hoặc có chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện,
sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi Hóa tự tại
thiên; kẻ mới sinh ở cõi trời này, giống như đứa trẻ năm,
sáu tuổi ở thế gian này.
-
“Hoặc có chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện,
sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi Tha hóa tự tại
thiên; kẻ mới sinh ở cõi Trời này, giống như đứa trẻ sáu,
bảy tuổi ở thế gian này, cũng lại như vậy.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Mỗi nửa tháng có ba ngày trai, đó là: ngày mồng
tám, ngày mười bốn và ngày mười lăm. Ðó là ba ngày trai. Vì
sao trong mỗi nửa tháng lấy ngày mùng tám làm ngày trai? Vì
vào ngày mồng tám của mỗi nửa tháng là ngày Tứ thiên vương
thường bảo sứ giả rằng: Các ngươi nên đi khảo sát thế gian,
xem xét mọi người, có biết hiếu thuận với cha mẹ, có kính
thuận với Sa-môn, Bà-la-môn, có tôn kính các bậc trưởng lão,
có trai giới, bố thí, có cứu giúp người nghèo thiếu hay
không? Sau khi sứ giả nghe những lời dạy này rồi, liền đi
khảo sát khắp trong thiên hạ, để biết có người hiếu thuận
với cha mẹ, tôn kính Sa-môn, Bà-la-môn, kính trọng các bậc
trưởng lão, trì giới giữ trai, bố thí cho người nghèo thiếu.
Sau khi xem xét đầy đủ rồi, thấy có những người bất hiếu với
cha mẹ, bất kính sư trưởng, không tu trai giới, không cứu
giúp người nghèo thiếu, về thưa với nhà vua rằng: Tâu Thiên
vương, ở thế gian những người hiếu thuận với cha mẹ, kính
trọng sư trưởng, tịnh tu trai giới, giúp đỡ những người
nghèo thiếu thì rất ít! rất ít! Sau khi Tứ thiên vương nghe
xong, sầu lo không vui, đáp rằng: Than ôi! nếu người thế
gian, có nhiều kẻ ác, bất hiếu với cha mẹ, không kính trọng
sư trưởng, không tu tập trai giới, không giúp đỡ người nghèo
thiếu! thì chúng chư Thiên sẽ tổn giảm và chúng A-tu-luân sẽ
tăng thêm. Trường hợp nếu sứ giả thấy ở thế gian mà có người
hiếu kính mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới,
giúp đỡ người nghèo, thì trở về bạch với Thiên vương rằng: Ở
thế gian có người hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng,
siêng tu trai giới, giúp đỡ người nghèo thiếu. Thì Tứ thiên
vương sau khi nghe xong rất là hoan hỷ, xướng lên rằng: Lành
thay! Ta đã nghe những lời tốt lành, thế gian nếu có những
người có thể hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng
tu trai giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu, thì chúng chư
Thiên sẽ tăng thêm và chúng A-tu-luân sẽ giảm bớt.
-
“Vì sao lấy ngày mười bốn làm ngày trai? Vì ngày
mười bốn là ngày mà Tứ thiên vương bảo thái tử rằng: Ngươi
nên đi khảo sát khắp thiên hạ, xem xét mọi người, để biết có
người hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai
giới, giúp đỡ người nghèo thiếu hay không? Sau khi vâng lời
dạy của vua xong, thái tử liền đi khảo sát thiên hạ, xem
xét mọi người, có biết hiếu thuận mẹ cha, tôn trọng sư
trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ người nghèo thiếu hay
không. Khi đã quán sát tất cả rồi, nhận thấy thế gian có
người không hiếu thuận mẹ cha, không kính sư trưởng, không
tu trai giới, không giúp đỡ người nghèo thiếu, trở về thưa
vua rằng: Tâu Thiên vương, ở thế gian người hiếu thuận với
cha mẹ, tôn kính sư trưởng, tu hành trai giới thanh tịnh,
giúp đỡ những người nghèo thiếu thì rất ít! rất ít! Tứ thiên
vương nghe xong, sầu lo không vui, bảo rằng: Than ôi! Nếu
thế gian có nhiều kẻ ác, không hiếu thuận mẹ cha, không tôn
trọng sư trưởng, không tu tập trai giới, không giúp đỡ những
người nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽ giảm bớt, chúng
A-tu-luân sẽ tăng thêm. Nếu thái tử nhận thấy thế gian có
người hiếu thuận mẹ cha, tôn kính sư trưởng, siêng tu trai
giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu, thì liền trở về thưa
vua rằng: Tâu Thiên vương, ở thế gian có người hiếu thuận
với mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp
đỡ những người nghèo thiếu. Tứ thiên vương nghe xong, lòng
rất vui mừng, xướng lên rằng: Lành thay! Ta nghe được những
lời tốt lành, là ở thế gian nếu có những người hiếu thuận
với mẹ cha, tôn trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ
những người nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽ tăng thêm,
chúng A-tu-luân sẽ giảm bớt. Cho nên ngày mười bốn là ngày
trai.
-
“Vì sao lấy ngày mười lăm làm ngày trai? Vì ngày
mười lăm là ngày Tứ thiên vương đích thân tự đi khảo sát
thiên hạ, xem xét mọi người ở trong thế gian, có hiếu thuận
mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ
những người nghèo thiếu hay không? Nếu nhận thấy người thế
gian phần nhiều bất hiếu với mẹ cha, không tôn trọng sư
trưởng, không siêng trai giới, không giúp đỡ kẻ nghèo thiếu,
thì Tứ thiên vương đến điện Thiện pháp thưa với Ðế Thích:
Ðại vương biết cho, chúng sanh ở thế gian phần nhiều bất
hiếu với mẹ cha, không kính trọng sư trưởng, không tu trai
giới, không giúp đỡ kẻ nghèo thiếu! Sau khi Ðế Thích và chư
Thiên Ðao-lợi nghe xong lòng buồn lo không vui nói rằng:
Than ôi! Nếu chúng sanh ở thế gian phần nhiều là ác, không
hiếu thuận mẹ cha, không tôn kính sư trưởng, không tu trai
giới, không giúp kẻ nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽ giảm
bớt, chúng A-tu-luân sẽ tăng lên. Nếu Tứ thiên vương nhận
thấy thế gian có người hiếu thuận với mẹ cha, tôn kính sư
trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ kẻ nghèo thiếu, thì trở
về điện Thiện pháp tâu với Ðế Thích: Người thế gian có kẻ
hiếu thuận với mẹ cha, tôn kính sư trưởng, siêng tu trai
giới, giúp kẻ nghèo thiếu. Sau khi Ðế Thích và chư Thiên
Ðao-lợi nghe xong lòng rất là hoan hỷ, xướng lên rằng: Lành
thay! Nếu ở thế gian mà có kẻ hiếu thuận mẹ cha, tôn kính sư
trưởng, siêng tu trai giới, giúp kẻ nghèo thiếu, thì chúng
chư Thiên sẽ tăng, chúng A-tu-luân sẽ giảm. Cho nên lấy ngày
mười lăm là ngày trai giới. Vì lý do trên nên có ba ngày
trai. Bấy giờ, Ðế Thích muốn cho chư Thiên càng thêm hoan hỷ
hơn, liền nói bài kệ:
-
- Thường lấy ngày mồng tám,
-
Mười bốn, rằm mỗi tháng,
-
Cải hóa, tu trai giới,
-
Người này đồng với Ta.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Ðế Thích nói bài kệ này, không phải là khéo thọ,
không phải là khéo nói; Ta cũng không ấn khả. Vì sao? Vì Ðế
Thích chưa dứt hết dâm dục, sân hận, si mê, chưa thoát khỏi
sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ não. Ta bảo người này
chưa lìa khỏi gốc khổ. Tỳ-kheo nào của Ta, nếu lậu hoặc đã
hết, được A-la-hán, những gì cần làm đã làm xong, đã trút bỏ
gánh nặng, đã được tự lợi, đã hết kết sử các hữu, bình đẳng
giải thoát, thì Tỳ-kheo đó mới đáng nói bài kệ này:
-
Thường lấy ngày mồng tám,
-
Mười bốn, rằm mỗi tháng,
-
Vâng lời tu trai giới,
-
Người này đồng với Ta.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Tỳ-kheo kia nói bài kệ này mới gọi là khéo thọ,
mới gọi là khéo nói, được Ta ấn khả. Vì sao? Vì Tỳ-kheo kia
đã dứt sạch dâm dục, sân hận, si mê, đã thoát khỏi sanh,
già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ não. Ta bảo người kia đã lìa
khỏi gốc khổ.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Tất cả chỗ ở như nhà cửa của mọi người đều có quỷ
thần, không có chỗ nào là không có cả. Tất cả mọi đường sá,
mọi ngã tư, hàng thịt, chợ búa, cùng bãi tha ma đều có quỷ
thần, không có chỗ nào là không có cả. Phàm các loài quỷ
thần đều tùy thuộc vào chỗ nương náu mà có tên. Như nếu
nương vào người thì gọi là người; nương vào thôn thì gọi là
thôn; nương vào thành thì gọi là thành; nương vào nước thì
gọi là nước; nương vào đất thì gọi là đất; nương vào núi thì
gọi là núi, nương vào sông thì gọi là sông.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Tất cả mọi loại cây cối dù là cực nhỏ như trục
xe cũng đều có quỷ thần nương tựa, không có chỗ nào là không
có. Tất cả mọi người nam, người nữ khi mới bắt đầu sinh ra
đều có quỷ thần theo bên ủng hộ; nếu khi nào họ chết thì quỷ
thần giữ gìn họ, thu nhiếp tinh khí của họ, nên người này sẽ
chết ngay.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Giả như có Phạm-chí ngoại đạo hỏi rằng: Chư
Hiền! Nếu như tất cả nam nữ khi bắt đầu sinh ra đều có quỷ
thần theo bên giữ gìn, ủng hộ; khi người kia sắp chết, quỷ
thần giữ gìn ủng hộ kia sẽ thu nhiếp tinh khí họ, thì người
này chết. Nhưng tại sao người hiện nay lại có người bị quỷ
thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu? Nếu
có người hỏi câu này, thì các Thầy nên trả lời cho họ rằng:
Người thế gian hành động phi pháp, tà kiến điên đảo, tạo ra
mười nghiệp ác, những người như vậy, thì trong trăm hay ngàn
mới có một thần theo bảo hộ thôi. Giống như đàn bò, đàn dê,
trong trăm hay ngàn con cũng chỉ có một người chăn giữ; thì
việc này cũng như vậy, vì hành động phi pháp, tà kiến điên
đảo, tạo ra mười nghiệp ác, nên những người như vậy, trong
trăm hay ngàn người mới có một thần bảo hộ thôi. Nếu có
người nào tu hành pháp thiện, chánh kiến, chánh tín, chánh
hạnh, đầy đủ mười nghiệp thiện, chỉ một người như vậy, thì
cũng có trăm ngàn thần bảo hộ rồi. Giống như quốc vương, đại
thần của quốc vương có trăm ngàn người hộ vệ một người; thì
việc này cũng như vậy, người tu hành pháp thiện, đầy đủ mười
nghiệp thiện, như một người có trăm ngàn thần hộ vệ. Vì nhân
duyên này cho nên, người thế gian có người bị quỷ thần quấy
nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu.
-
“Người cõi Diêm-phù-đề có ba điều hơn người
Câu-da-ni, đó là: một, dõng mãnh, nhớ dai, có khả năng tạo
nghiệp hành; hai, dõng mãnh, nhớ dai, siêng tu phạm hạnh;
ba, vì dõng mãnh, nhớ dai, nên Phật ra đời ở cõi này. Do có
ba điều này nên hơn người Câu-da-ni. Người Câu-da-ni có ba
điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, nhiều bò; hai, nhiều
dê; ba, nhiều châu ngọc. Do có ba điều này nên hơn người
Diêm-phù-đề.
-
“Người Diêm-phù-đề có ba điều hơn người
Phất-vu-đãi, đó là: một, dõng mãnh, nhớ dai, có khả năng tạo
ra nghiệp hành; hai, dõng mãnh, nhớ dai, thường tu phạm
hạnh; ba, dõng mãnh, nhớ dai, Phật ra đời ở cõi này. Vì ba
điều này nên hơn Phất-vu-đãi. Người Phất-vu-đãi có ba điều
hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, cõi này rất rộng; hai,
cõi này rất lớn; ba, đất đai cõi này rất vi diệu. Vì ba điều
này nên hơn người Diêm-phù-đề.
-
“Người Diêm-phù-đề có ba điều hơn người
Uất-đan-viết, đó là: một, mạnh mẽ, nhớ dai, có khả năng tạo
ra hành nghiệp; hai, mạnh mẽ, nhớ dai, thường tu hành phạm
hạnh; ba, mạnh mẽ, nhớ dai, Phật ra đời ở cõi này. Ðó là ba
điều hơn người Uất-đan-viết. Người Uất-đan-viết có ba điều
hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, không bị ràng buộc lệ
thuộc; hai, không có vật sở hữu của ngã; ba, tuổi thọ cố
định là ngàn năm. Vì ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề.
“Người Diêm-phù-đề cũng vì ba điều trên mà hơn đường ngạ
quỷ. Ðường ngạ quỷ có ba điều hơn Diêm-phù-đề, đó là: một,
sống lâu; hai, thân to lớn; ba, người khác làm mà mình chịu.
Vì ba điều này nên hơn Diêm-phù-đề.
-
“Người Diêm-phù-đề cũng vì ba điều trên nên hơn
loài rồng, Kim sí điểu. Loài rồng, Kim sí điểu lại có ba
điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, sống lâu; hai, thân
to lớn; ba, cung điện. Vì ba điều này nên hơn người
Diêm-phù-đề.
-
“Người Diêm-phù-đề vì ba điều trên nên hơn
A-tu-luân. A-tu-luân lại có ba điều hơn người Diêm-phù-đề,
đó là: một, cung điện cao, rộng; hai, cung điện trang nhiêm;
ba, cung điện thanh tịnh. Vì ba điều này nên hơn người
Diêm-phù-đề.
-
Người Diêm-phù-đề vì ba điều trên mà hơn Tứ thiên
vương. Tứ thiên vương lại có ba điều hơn người Diêm-phù-đề,
đó là: một, sống lâu; hai, đoan chánh; ba, an vui nhiều; vì
ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề.
-
“Người Diêm-phù-đề cũng vì ba điều trên mà hơn
Ðao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Ðâu-suất thiên, Hóa tự tại
thiên, Tha hóa tự tại thiên. Các hàng chư Thiên này lại có
ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, sống lâu; hai,
đoan chánh; ba, an vui nhiều.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo
-
“Chúng sanh cõi Dục có mười hai loại, đó là :
-
“1. Ðịa ngục.
-
“2. Súc sanh.
-
“3. Ngạ quỷ.
-
“4. Người.
-
“5. A-tu-luân.
-
"6. Tứ thiên vương.
-
“7. Ðao-lợi thiên.
-
“8. Diệm-ma thiên.
-
“9. Ðâu-suất thiên.
-
“10. Hóa tự tại thiên.
-
“11. Tha hóa tự tại thiên.
-
“12. Ma thiên.
-
“Chúng sanh cõi Sắc có hai mươi hai loại, đó là :
-
“1. Phạm thân thiên.
-
“2. Phạm phụ thiên.
-
“3. Phạm chúng thiên.
-
“4. Ðại Phạm thiên.
-
“5. Quang thiên.
-
“6. Thiểu quang thiên.
-
“7. Vô lượng quang thiên.
-
“8. Quang âm thiên.
-
“9. Tịnh thiên.
-
“10. Thiểu tịnh thiên.
-
“11. Vô lượng tịnh thiên.
-
“12. Biến tịnh thiên.
-
“13. Nghiêm sức thiên.
-
“14. Tiểu nghiêm sức thiên.
-
“15. Vô lượng nghiêm sức thiên.
-
“16. Nghiêm thắng quả thật thiên.
-
“17. Vô tưởng thiên.
-
“18. Vô phiền thiên.
-
“19. Vô nhiệt thiên.
-
“20. Thiện kiến thiên.
-
“21. Ðại Thiện kiến thiên.
-
“22. A-ca-nị-trá thiên.
-
“Chúng sanh cõi Vô sắc có bốn loại, đó là :
-
“1. Không trí thiên.
-
“2. Thức trí thiên.
-
“3. Vô sở hữu trí thiên.
-
“4. Hữu tưởng vô tưởng trí thiên.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Có bốn loại Ðại Thiên thần, đó là:
-
“1. Ðịa thần.
-
“2. Thủy thần.
-
“3. Phong thần.
-
“4. Hỏa thần.
-
Xưa kia Ðịa thần nảy sinh ra nhận thức sai lầm
rằng: Trong đất không có nước, lửa và gió. Lúc đó Ta biết rõ
tâm niệm của thần đất này, liền đến bảo rằng: Ngươi đang nảy
sanh ra ý nghĩ: Trong đất không có nước, lửa và gió phải
không? Ðịa thần đáp: Trong đất quả thực không có nước, lửa
và gió. Lúc ấy Ta bảo rằng: Ngươi chớ nảy sanh ý niệm này là
trong đất không có nước, lửa và gió. Vì sao? Vì trong đất có
nước, lửa và gió, chỉ vì yếu tố đất nhiều nên lấy đất mà gọi
tên.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Lúc ấy Ta vì Ðịa thần mà lần lượt nói pháp, để
dứt trừ nhận thức sai lầm này và chỉ bày, khuyến khích, làm
cho lợi ích, làm cho hoan hỷ; nói về thí, về giới, về sinh
thiên; nói dục là bất tịnh, là ô nhiễm, là tai họa; xuất yếu
là trên hết và trình bày khai mở phạm hạnh thanh tịnh. Lúc
ấy Ta biết rõ tâm niệm Ðịa thần đã thanh tịnh, nhu nhuyến,
không còn năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như pháp thường của
chư Phật, Ta chỉ bày giảng rộng về Khổ thánh đế, Khổ tập đế,
Khổ diệt đế và Khổ xuất yếu thánh đế. Bấy giờ Ðịa thần liền
ngay tại chỗ xa lìa trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Ví
như áo trắng sạch sẽ dễ được nhuộm màu, Ðịa thần cũng như
vậy, lòng tin đã thanh tịnh, nên được mắt pháp, không còn hồ
nghi, thấy pháp quyết định, không còn rơi vào đường ác,
không theo đường khác, thành tựu được pháp vô úy, mà bạch
với Ta rằng: Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng,
suốt đời không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không
nói dối, không uống rượu, cho phép con được làm Ưu-bà-di ở
trong Chánh pháp.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Xưa kia, Thủy thần nảy sanh ác kiến, nói rằng:
Trong nước không có đất, lửa và gió. Lúc ấy Ðịa thần biết rõ
tâm niệm Thủy thần sinh ra nhận thức này, nên đến nói với
Thủy thần rằng: Thật sự ngươi có sinh ra kiến giải này, là
trong nước không có đất, lửa và gió phải không? Ðáp rằng: Có
thật như vậy. Ðịa thần nói: Ngươi chớ sinh ra kiến giải này,
là trong nước không có đất, lửa và gió. Vì sao? Vì trong
nước có đất, lửa và gió, nhưng chỉ vì yếu tố nước nhiều quá,
nên dùng yếu tố nước để gọi tên. Bấy giờ, Ðịa thần liền vì y
mà nói pháp, dứt trừ kiến giải sai lầm này và chỉ bày,
khuyến khích, làm cho lợi ích, làm cho hoan hỷ; nói về thí,
về giới, về sinh thiên; nói dục là bất tịnh, là ô nhiễm, là
tai họa; xuất yếu là trên hết và trình bày khai mở phạm hạnh
thanh tịnh. Lúc ấy Ðịa thần biết rõ tâm niệm Thủy thần đã
thanh tịnh, nhu nhuyến, không còn năm ấm cái, dễ dàng khai
hóa. Như pháp thường của chư Phật, chỉ bày giảng rộng về Khổ
thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và Khổ xuất yếu thánh đế.
Bấy giờ Thủy thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần cấu, được
mắt pháp thanh tịnh. Ví như áo trắng sạch sẽ dễ được nhuộm
màu, Thủy thần cũng như vậy, lòng tin đã thanh tịnh, nên
được mắt pháp, không còn hồ nghi, thấy pháp quyết định,
không còn rơi vào đường ác, không theo đường khác, thành tựu
được pháp vô úy, mà bạch với Ðịa thần rằng: Nay tôi xin quy
y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời không sát sanh,
không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống
rượu, xin nhận tôi là Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Xưa kia Hỏa thần nảy sanh ra ác kiến, nói rằng:
Trong lửa không có đất, nước và gió. Lúc ấy Ðịa thần và Thủy
thần biết rõ tâm niệm Hỏa thần sinh ra nhận thức này, nên
cùng nói với Hỏa thần rằng: Thật sự ngươi có sinh ra kiến
giải này phải không? Ðáp rằng: Có thật như vậy. Hai thần
nói: Ngươi chớ sinh ra kiến giải này. Vì sao? Vì trong lửa
có đất, nước và gió, nhưng chỉ vì yếu tố lửa nhiều quá, nên
dùng yếu tố lửa để gọi tên. Bấy giờ, hai vị thần Ðịa và Thủy
liền vì y mà nói pháp, dứt trừ kiến giải sai lầm này và chỉ
bày, khuyến khích, làm cho lợi ích, làm cho hoan hỷ; nói về
thí, về giới, về sinh thiên; nói dục là bất tịnh, là ô
nhiễm, là tai họa; xuất yếu là trên hết và trình bày khai mở
phạm hạnh thanh tịnh. Lúc ấy hai thần biết rõ tâm niệm Hỏa
thần đã thanh tịnh, nhu nhuyến, không còn năm ấm cái, dễ
dàng khai hóa. Như pháp thường của chư Phật, chỉ bày giảng
rộng về Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và Khổ xuất
yếu thánh đế. Bấy giờ Hỏa thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần
cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Ví như áo trắng sạch sẽ dễ
được nhuộm màu, Hỏa thần cũng như vậy, lòng tin đã thanh
tịnh, nên được mắt pháp, không còn hồ nghi, thấy pháp quyết
định, không còn rơi vào đường ác, không theo đường khác,
thành tựu được pháp vô úy, mà bạch với hai thần rằng: Nay
tôi xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời không
sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không
uống rượu, xin nhận tôi là Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Xưa kia Phong thần nảy sanh ra nhận thức sai
lầm rằng: Trong gió không có đất, nước và lửa. Lúc ấy Ðịa
thần, Thủy thần, Hỏa thần biết rõ tâm niệm Phong thần sinh
ra nhận thức này, nên đến nói rằng: Thật sự ngươi có sinh ra
kiến giải này phải không? Ðáp rằng: Có thật như vậy. Ba vị
thần nói: Ngươi chớ sinh ra kiến giải này. Vì sao? Vì trong
gió có đất, nước và lửa, nhưng chỉ vì yếu tố gió nhiều quá,
nên dùng yếu tố gió để gọi tên. Bấy giờ, ba vị thần liền vì
y mà nói pháp, dứt trừ kiến giải sai lầm này và chỉ bày,
khuyến khích, làm cho lợi ích, làm cho hoan hỷ; nói về thí,
về giới, về sinh thiên; nói dục là bất tịnh, là ô nhiễm, là
tai họa; xuất yếu là trên hết và trình bày khai mở phạm hạnh
thanh tịnh. Lúc ấy ba thần biết rõ tâm niệm của Phong thần
đã thanh tịnh, nhu nhuyến, không còn năm ấm cái, dễ dàng
khai hóa. Như pháp thường của chư Phật, chỉ bày giảng rộng
về Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và Khổ xuất yếu
thánh đế. Bấy giờ Phong thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần
cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Ví như tấm vải trắng sạch sẽ
dễ được nhuộm màu, Phong thần cũng như vậy, lòng tin đã
thanh tịnh, nên được mắt pháp, không còn hồ nghi, thấy pháp
quyết định, không còn rơi vào đường ác, không theo đường
khác, thành tựu được pháp vô úy, mà bạch với ba thần rằng:
Nay tôi xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời
không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối,
không uống rượu, xin nhận tôi là Ưu-bà-di ở trong Chánh
pháp.”
-
Phật bảo Tỳ-kheo:
-
“Mây có bốn thứ, đó là: một là màu trắng; hai là
màu đen; ba là màu đỏ; bốn là màu hồng. Mây có màu trắng vì
yếu tố đất đặc biệt nhiều; mây có màu đen vì yếu tố nước
đặc biệt nhiều hơn; mây có màu đỏ vì yếu tố lửa đặc biệt
nhiều hơn; mây có màu hồng vì yếu tố gió đặc biệt nhiều hơn.
Mây cách mặt đất từ hai mươi dặm, ba mươi dặm, bốn mươi dặm.
cho đến bốn ngàn dặm; ngoại trừ kiếp sơ, còn sau đó thì mây
lên đến cõi Quang âm thiên. Chớp có bốn loại, đó là: Chớp ở
phương Ðông gọi là thân quang; chớp ở phương Nam gọi là nan
hủy; chớp ở phương Tây gọi là lưu diễm; chớp ở phương Bắc
gọi là định minh. Vì sao mây ở trong hư không có hiện tượng
ánh chớp này? Có lúc thân quang cùng nan hủy chạm nhau, có
khi thân quang cùng với lưu diễm chạm nhau, có khi thân
quang cùng với định minh chạm nhau, có khi nan hủy cùng với
lưu diễm chạm nhau, có khi nan hủy cùng với định minh chạm
nhau, có khi lưu diễm cùng với định minh chạm nhau; vì những
nhân duyên này nên mây giữa hư không sinh ra ánh chớp. Và vì
sao mây ở giữa hư không lại sinh ra sấm chớp? Vì ở giữa hư
không có khi địa đại cùng với thủy đại chạm nhau, có khi địa
đại cùng với hỏa đại chạm nhau, có khi địa đại cùng với
phong đại chạm nhau, có khi thủy đại cùng với hỏa đại chạm
nhau, có khi thủy đại cùng với phong đại chạm nhau; vì những
nhân duyên này mà mây giữa hư không sinh ra sấm chớp.
-
“Có năm lý do mà các thầy tướng không thể tiên
đoán và không thể biết được một cách chắc chắn về mưa nên
dẫn đến việc sai lầm trong lúc đoán, đó là: một, trong mây
có sấm chớp, đoán rằng sắp mưa; nhưng vì hỏa đại nhiều nên
nó thiêu hủy mây đi, vì vậy mà không mưa. Ðó là lý do thứ
nhất khiến cho các thầy tướng đoán sai lầm. Hai, trong mây
có sấm chớp, đoán rằng sắp mưa, nhưng vì phong đại nổi lên,
thổi mây bay tứ tán vào trong các núi, vì lý do này nên
khiến cho các thầy tướng đoán sai lầm. Ba, trong mây có sấm
chớp, đoán rằng sắp mưa, nhưng bấy giờ Ðại A-tu-luân đem phù
vân đặt giữa biển cả, vì lý do này mà thầy tướng đoán sai
lầm. Bốn, trong mây có sấm chớp, đoán rằng sắp mưa, nhưng vì
thần mây, thần mưa đang buông lung dâm loạn, nên rốt cùng
không làm mưa, vì lý do này nên thầy tướng đoán sai lầm.
Năm, trong mây có sấm chớp, đoán rằng sắp mưa, nhưng vì mọi
người trong thế gian hành động buông lung phi pháp, làm hạnh
bất tịnh, tham lam, keo kiệt, ghen ghét, kiến giải điên đảo,
nên khiến trời không mưa xuống, vì lý do này nên thầy tướng
đoán sai. Ðó là năm lý do làm cho các thầy tướng không thể
biết để đoán mưa một cách chắc chắn được.”
- --o0o--
|
|