- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 01-
Phẩm Bảy Pháp
-
-
Tôi nghe như vầy:
- Một
thời Đức Thế Tôn du hóa tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng lâm
vườn Cấp cô độc[02].
- Bấy
giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
- “Nếu
có Tỳ-kheo thành tựu bảy pháp tất được hoan hỷ an lạc trong
pháp Hiền thánh[03],
thẳng tiến đến lậu tận. Bảy pháp đó là gì? Đó là biết pháp,
biết nghĩa, biết thời, biết tiết độ, biết mình, biết chúng
hội và biết sự hơn kém của người[04].
-
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo biết pháp? Nghĩa là Tỳ-kheo biết
chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn
lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu
và thuyết nghĩa[05].
Ấy là Tỳ-kheo biết pháp. Nếu Tỳ-kheo không biết pháp, tức
không biết chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân
duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải,
vị tằng hữu và thuyết nghĩa. Tỳ-kheo như vầy là không biết
pháp. Nếu có Tỳ-kheo khéo biết rõ pháp, đó là biết chánh
kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục, bản
khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu và thuyết
nghĩa. Ấy là Tỳ-kheo khéo biết rõ pháp.
-
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo biết nghĩa? Nghĩa là Tỳ-kheo biết
nghĩa của giáo thuyết này hay giáo thuyết kia, biết điều này
có nghĩa như thế kia, biết điều kia có nghĩa như thế này[06].
Đó là Tỳ-kheo biết nghĩa. Nếu Tỳ-kheo không biết nghĩa tức
là Tỳ-kheo không biết nghĩa của giáo thuyết này hay giáo
thuyết kia; không biết điều này có nghĩa như thế kia, điều
kia có nghĩa như thế này. Tỳ-kheo như vậy là không biết
nghĩa. Nếu có Tỳ-kheo khéo biết rõ nghĩa, đó là biết nghĩa
của giáo thuyết này hay giáo thuyết kia, biết điều này có
nghĩa như thế kia, biết điều kia có nghĩa như thế này. Đó là
Tỳ-kheo khéo biết rõ nghĩa.
-
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo biết thời? Đó là Tỳ-kheo biết thời
nào nên tu phương pháp thấp, thời nào nên tu phương pháp
cao, thời nào nên tu phương pháp xả[07].
Ấy là Tỳ-kheo biết thời. Nếu có Tỳ-kheo không biết thời tức
là không biết thời nào nên tu phương pháp thấp, thời nào nên
tu phương pháp cao, thời nào nên tu phương pháp xả. Tỳ-kheo
như vậy là không biết thời. Nếu có Tỳ-kheo khéo biết rõ
thời, đó là biết thời nào nên tu phương pháp thấp, thời nào
nên tu phương pháp cao, thời nào nên tu phương pháp xả. Ấy
là Tỳ-kheo khéo biết rõ thời.
-
“Thế nào là Tỳ-kheo biết tiết độ? Đó là Tỳ-kheo biết tiết độ
trong việc ăn, uống, đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, im lặng,
giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí. Ấy là Tỳ-kheo biết tiết
độ. Nếu có Tỳ-kheo không biết tiết độ tức là Tỳ-kheo không
biết tiết độ trong việc ăn, uống, đi, đứng, ngồi, nằm, nói
năng, im lặng, đại tiểu tiện, giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập
chánh trí. Tỳ-kheo như vậy là không biết tiết độ. Nếu có
Tỳ-kheo khéo biết rõ sự tiết độ, đó là biết tiết độ trong
việc ăn, uống, đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, im lặng, giảm
bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí. Ấy là Tỳ-kheo khéo biết rõ
sự tiết độ.
-
“Thế nào là Tỳ-kheo biết mình? Tỳ-kheo tự biết mình có mức
độ ấy tín, giới thí, tuệ, biện, a-hàm và sở đắc[08].
Tỳ-kheo như vậy là biết mình. Nếu có Tỳ-kheo không biết mình
tức là không tự biết mình có mức độ ấy tín, giới, văn, thí,
tuệ, biện, a-hàm và sở đắc. Tỳ-kheo như vậy là không biết
mình. Nếu có Tỳ-kheo khéo tự biết rõ mình, đó là biết mình
có mức độ ấy tín, giới thí, tuệ, biện, a-hàm và sở đắc.
Tỳ-kheo như vậy là khéo biết rõ mình.
-
“Thế nào là Tỳ-kheo biết chúng hội? Tỳ-kheo biết đây là
chúng hội Sát-lợi, đây là Phạm chí, đây là chúng hội Cư sĩ,
đây là chúng hội Sa-môn. Ở nơi các chúng hội ấy, ta nên đi
như vậy, đứng như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng
như vậy. Ấy là Tỳ-kheo biết chúng hội. Nếu có Tỳ-kheo không
biết chúng hội tức là không biết đây là chúng hội Sát-lợi,
đây là chúng hội Phạm chí, đây là chúng hội Cư sĩ, đây là
chúng hội Sa-môn. Ở nơi các chúng hội ấy, ta nên đi như vậy,
đứng như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy.
Tỳ-kheo như vậy là không biết chúng hội. Nếu có Tỳ-kheo khéo
biết rõ chúng hội, đó là biết đây là chúng hội Sát-lợi, đây
là Phạm chí, đây là chúng hội Cư sĩ, đây là chúng hội
Sa-môn. Ở nơi các chúng hội ấy, ta nên đi như vậy, đứng như
vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy. Ấy là
Tỳ-kheo khéo biết rõ chúng hội.
-
“Thế nào là Tỳ-kheo biết sự hơn kém của người[09]?
Đó là Tỳ-kheo biết có hai hạng người: có tín và có bất tín[10],
người có tín là hơn, người bất tín là kém. Người có tín lại
có hai hạng: Thường đến gặp Tỳ-kheo và không thường đến gặp
Tỳ-kheo. Người đến gặp thấy Tỳ-kheo là hơn, người không
thường đến gặp Tỳ-kheo là kém. Người thường đến gặp Tỳ-kheo
lại có hai hạng: có lễ kính và không lễ kính. Người có lễ
kính là hơn; người không lễ kính là kém. Người có lễ kính
lại có hai hạng: có hỏi kinh và không hỏi kinh. Người có hỏi
kinh là hơn, người không hỏi kinh là kém. Người có hỏi kinh
lại có hai hạng: nhất tâm nghe kinh và không nhất tâm nghe
kinh. Người nhất tâm nghe kinh là hơn, người không nhất tâm
nghe kinh là kém. Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe
rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe
rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp
là kém. Người nghe rồi thọ trì pháp lại có hai hạng: nghe
pháp có quán sát nghĩa và nghe pháp không quán sát nghĩa.
Người nghe pháp có quán sát nghĩa là hơn, người nghe pháp
không quán sát nghĩa là kém. Hạng nghe pháp quán sát nghĩa
lại có hai: biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ
pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp[11];
và hạng không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng về
pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp và thực hành đúng như pháp.
Người biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy
thuận pháp, thực hành đúng như pháp là hơn; người không biết
pháp, không biết nghĩa, không hướng về pháp và thứ pháp,
không tùy thuận pháp, không thực hành đúng như pháp là thấp
kém. Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp,
tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm
ích lợi cho mình và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích
lợi cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an
ổn khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích
cho mình và cũng không làm lợi ích cho người, không xót
thương thế gian không cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho
trời và người. Nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi
ích cho người, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế
gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn và khoái lạc cho trời người.
Người ấy là bậc nhất là lớn, là trên, là tối cao, là hơn
hết, là tôn quí, là tuyệt diệu giữa mọi người khác. Ví như
từ bò có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có sinh tô, từ sinh tô
có thục tô, từ thục tô có tô tinh[12].
Tô tinh là thứ bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn
hết, là tôn quí, là tuyệt diệu đối với những loại kia. Cũng
vậy, nếu người nào tự làm lợi ích cho mọi người, xót thương
thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời người,
thì trong hai hạng người như trên đã nói, đã phân biệt, đã
thi thiết, người ấy là bậc nhất, là lớn, là trên, là tối
cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu. Ấy là Tỳ-kheo
biết sự hơn kém của người.
-
Phật thuyết như vậy. Các vị Tỳ-kheo sau khi nghe những điều
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
-
Chú Thích:
-
[01] Tương đương Pāli: A. VII.64
Dammaññū-sutta; biệt dịch: No.27 Thất Tri Kinh, 1 quyển, Ngô
Chi Khiêm dịch (Đại 1, tr.810); No.125 (39.1) Tăng Nhất,
“Đẳng Pháp Phẩm” (Đại 2, tr.728).
-
[02] Hán: Xá-vệ quốc, Thắng lâm,
Cấp cô độc viên. Pāli: sāvatthiyam... Jetavāne
Anathapiṇḍikassa ārāme.
-
[03] Hán: Ư Hiền thánh đắc hoan hỷ
lạc. No.27: Hiện thế an ổn, hân duyệt đa hạnh. No.125
(39.1): ư hiện pháp trung thọ lạc vô cùng. Cả hai bản đều có
nghĩa: “Được an ổn ngay trong đời hiện tại”.
-
[04] Tri pháp, tri nghĩa, tri
thời, tri tiết, tri chúng, tri nhân thắng như Pāli:
dhammaññū ca hoti atthaññū ca attaññū ca mattaññū ca kālaññū
ca parisaññū ca puggalaparoparaññū ca.
-
[05] Chánh kinh, ca vịnh, ký
thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết,
sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu và thuyết nghĩa. Cả ba bản
đều liệt kê mười hai bộ. Pāli chỉ có chín: sutta, geyya,
veyyākaraa gātha udāna ittivuttaka jātaka abbhutadhamma
vedalla.
-
[06] Hán: tri bỉ bỉ thuyết nghĩa,
thị bỉ nghĩa, thị thử nghĩa. Pāli: aya imassa bhāsitassa
attho, aya imassa bhāsitassa, “Đây là ý nghĩa của điều được
nói này. Đây là ý nghĩa của điều được nói này.”
-
[07] Hán: hạ tướng, cao tướng, xả
tướng. Tập dị 17 (Đại 26, tr.457b): tu chỉ tướng, tu cử
tương, tu xả tướng. Pāli: aya kālo uessa, aya kālo
paripucchāya, aya kālo yogassa, aya kālo paisallānassā. “Đây
là thời để giảng thuyết; đây là thời để chất vấn; đây là
thời để tu tập, đây là thời để tĩnh chỉ’’. Trong bản Hán,
đọc uddha(?) hay ucca (cao), thay vì uddesa (giảng giải).
-
[08] Hán: tín, giới, văn, thí,
tuệ, biện, a-hàm, sở đắc. Tập dị 17 (Đại 26, tr.457c): tín,
giới, văn, xả, tuệ, giáo, chứng, niệm, tộc tánh, biện tài.
Pāli: saddha (tín), sīla (giới), suta (văn), cāga, (thí xả),
paññā (tuệ), paibhāna (biện tài).
-
[09] Hán: tri nhân thắng như. Tập
dị 17, đã dẫn: tri nhân thắng liệt.
-
[10] Hán: hữu tín, hữu bất tín.
Tập dị 17, đã dẫn: hơn kén về đức hạnh.
-
[11] Hán: Tri pháp, tri nghĩa,
hướng pháp, thứ pháp, tùy thuận ư pháp, như pháp hành chi.
Pāli: atthamaññāya dhammamaññāya dhammānudhammappaṭipanno,
“sau khi tư duy về nghĩa, tư duy về pháp, rồi thực hành pháp
và tùy pháp”.
-
[12] Hán: nhũ, lạc, sinh tô, thục
tô, tô tinh. Pāli: khīra (sữa), dadhi (sữa đông hay sữa
chua), takka (bơ lỏng, ¼ nước ), navanīta (bơ đặc), sappi
(dầu bơ hay bơ tinh, đề hồ). Bản Pāli tương đương không có
thí dụ này.
-
|