- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
PHẦN IV
- 01-
PHẨM BẢY PHÁP
-
-
-
Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Bệ-xá-li[02],
trong rừng cây Nại thị[03].
-
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
-
“Tất cả các hành đều vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp
chóng đổi thay, pháp không thể nương tựa[04].
Các hành như vậy không nên tham đắm mà phải ghê sợ nhờm tởm,
nên tìm sự xả ly, nên tìm giải thoát. Vì sao thế, vì có lúc
không mưa[05].
Ngay khi không mưa ấy tất cả cây cối, trăm thứ lúa, thảy đều
khô héo, đổ nát, chết cả, không thể thường trụ. Vì thế tất cả
các hành đều vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng đổi
thay, pháp không thể nương tựa. Các hành như vậy không nên
tham đắm mà phải nhờm tởm, ghê sợ, nên tìm sự xả ly, nên tìm
giải thoát.
-
“Lại nữa, có lúc hai mặt trời cùng xuất hiện. Khi hai mặt trời
xuất hiện, các rãnh ngòi, sông lạch, thảy đều khô cạn, không
thể thường trụ. Vì thế tất cả các hành đều vô thường, là pháp
không vĩnh cửu, pháp chóng thay đổi, pháp không thể nương tựa.
Các hành như vậy không nên tham đắm mà phải nhờm tởm, ghê sợ,
nên tìm sự xả ly, nên tìm giải thoát.
-
“Lại nữa, lúc có ba mặt trời cùng xuất hiện. Khi ba mặt trời
xuất hiện, tất cả dòng sông lớn[06]
đều khô cạn, không thể thường trụ. Do đó, tất cả các hành đều
vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng đổi thay, pháp
không thể nương tựa. Các hành như vậy không nên tham đắm, mà
phải nhờm tởm ghê sợ, nên tìm sự xả ly, nên tìm sự giải thoát.
-
“Lại nữa, có lúc bốn mặt trời cùng xuất hiện. Khi bốn mặt trời
xuất hiện, các dòng suối lớn, từ đó phát nguyên năm con sông
lớn của châu Diêm-phù: Một là Hằng-già; hai là Dao-vưu-na; ba
là Xá-lao-phu; bốn là A-di-la-bà-đề và năm là Ma-xí[07],
các dòng cuối nguồn nước lớn ấy đều khô cạn cả, không thể
thường trụ. Do đó các hành đều vô thường, là pháp không vĩnh
cửu, pháp chóng đổi thay, pháp không thể nương tựa, các hành
như vậy không nên tham đắm, mà phải nhờm tởm, ghê sợ, nên tìm
sự xả ly, nên tìm giải thoát.
-
“Lại nữa, có lúc năm mặt trời cùng xuất hiện. Khi năm mặt trời
cùng xuất hiện, nước trong biển lớn sụt xuống một trăm do-diên[08];
sụt dần đến bảy trăm do-diên. Khi năm mặt trời xuất hiện như
vậy, biển có mực nước bảy trăm do-diên sụt dần đến một trăm
do-diên. Khi năm mặt trời cùng xuất hiện, nước trong biển lớn
sụt một cây Đa-la; sụt dần đến bảy cây Đa-la[09].
Khi năm mặt trời cùng xuất hiện, những biển có mực nước bảy
cây Đa-la sụt dần cho đến một cây Đa-la. Khi năm mặt trời cùng
xuất hiện, nước biển giảm sụt đến mười người[10];
sụt dần cho đến bảy người. Khi năm mặt trời cùng xuất hiện,
những biển có mực nước bảy người giảm dần đến vai, đến lưng,
đến háng, đến đầu gối, đến mắt cá; cho đến lúc nước biển ráo
hết không đủ chìm một ngón chân. Cho nên, tất cả các hành đều
vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng thay đổi, pháp
chẳng thể nương tựa. Các hành như vậy không nên tham đắm, mà
phải nhờm tởm, ghê sợ, tìm sự xả ly, tìm sự giải thoát.
-
“Lại nữa, có lúc sáu mặt trời xuất hiện. Khi sáu mặt trời cùng
xuất hiện, tất cả đại địa, núi chúa Tu di[11],
thảy đều bốc khói, tạo thành một đám khói. Ví như thợ gốm lúc
mới nhen bếp, tất cả đều bốc khói, tạo thành một đám khói. Cho
nên tất cả các hành đều vô thường, là pháp không vĩnh cửu,
pháp chóng thay đổi, pháp không thể nương tựa. Các hành như
vậy không nên tham đắm mà phải nhờm tởm, ghê sợ, nên tìm sự xả
ly, tìm sự giải thoát.
-
“Lại nữa, có lúc bảy mặt trời xuất hiện. Khi bảy mặt trời xuất
hiện, tất cả đại địa, núi chúa Tu di thảy đều phụt cháy bừng
bừng, tạo thành một ngọn lửa rực rỡ. Như vậy, khi bảy mặt trời
cùng xuất hiện, thì tất cả đại địa và núi chúa Tu di thảy đều
phụt cháy bừng bừng tạo thành một ngọn lửa. Gió thổi ngọn lửa
ấy vươn cho đến trời Phạm thiên[12].
Lúc đó các vị trời Hoảng dục[13]
vừa mới sanh lên cõi này, không rõ thành bại của thế gian. Vì
không biết sự thành bại của thế gian, khi thấy ngọn lửa vĩ
đại, đều sợ hãi dựng lông mà suy nghĩ như thế này ‘Lửa không
đến đây được chăng? Lửa không đến đây được chăng?’ Các vị trời
sinh trước đều biết rõ sự thành bại của thế gian, đều đã thấy
việc thành bại của thế gian. Do biết sự thành bại của thế
gian, khi thấy ngọn lửa vĩ đại, liền an ủi các vị trời kia
rằng: ‘Chớ nên sợ hãi. Lửa cháy chỉ ngang đó, không thể lên
đến đây được’.
-
“Khi bảy mặt trời cùng xuất hiện, núi chúa Tu di sụp lở, tán
hoại, diệt tận, một trăm do-diên, hai trăm do-diên, ba trăm
do-diên, cho đến bảy trăm do-diên. Khi bảy mặt trời cùng xuất
hiện, núi chúa Tu di và đại địa này cháy tan, hủy diệt, không
còn tro than gì cả. Cũng như đốt dầu bơ, cháy cho tiêu hết
không còn khói đen[14].
Cũng vậy, khi bảy mặt trời cùng xuất hiện, núi chúa Tu di và
cõi đại địa này cháy không còn tro than. Cho nên, tất cả các
hành đều vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng thay
đổi, pháp không thể nương tựa. Các hành như vậy không nên tham
đắm mà phải nhờm tởm, ghê sợ, tìm sự xả ly, tìm cầu giải
thoát.
-
“Nay Ta nói cho các ngươi biết, ai có thể tin được rằng: ‘Núi
chúa Tu di sẽ sụp đổ?’ Chỉ có những người thấy được sự thật[15].
Nay Ta nói cho các ngươi biết, ai có thể tin được rằng: ‘Nước
trong đại hải sẽ khô cạn tất cả?’ Chỉ có những người đã thấy
sự thật. Nay Ta nói cho các ngươi biết ai có thể tin rằng:
‘Tất cả đại địa đều cháy sạch?’ Chỉ có những người đã thấy sự
thật. Vì sao vậy?
-
“Này các Tỳ-kheo, xưa có vị đại sư tên là Thiện Nhãn[16]
được các tiên nhân ngoại đạo tôn làm bậc thầy[17],
đã xả ly dục ái[18],
chứng như ý túc[19].
Đại sư Thiện Nhãn có vô lượng trăm ngàn đệ tử. Đại sư Thiện
Nhãn dạy Phạm thế pháp cho các đệ tử[20].
Khi đại sư Thiện Nhãn dạy Phạm thế pháp cho các đệ tử, trong
số các đệ tử có người phụng hành không đầy đủ pháp ấy. Người
ấy sau khi mạng chung hoặc sanh lên cõi trời Tứ vương hoặc
trời Tam thập tam, hoặc trời Diệm-ma, hoặc trời Đâu-suất-đà
hoặc sanh lên trời Tha hóa, hoặc sanh lên trời Tha hóa lạc[21].
-
“Khi đại sư Thiện Nhãn dạy Phạm thế pháp, nếu có người phụng
hành đầy đủ pháp ấy, người ấy tu bốn Phạm thất[22],
xả ly các dục, sau khi mạng chung người ấy sanh lên trời Phạm
thiên. Lúc ấy đại sư Thiện Nhãn nghĩ như vầy: ‘Ta không nên
cùng với các đệ tử cùng sanh chung một nơi nào vào đời sau.
Nay ta hãy tu thêm tăng thượng từ[23],
sau khi tu tăng thượng từ rồi, mạng chung sẽ được sanh lên
trời Hoảng dục[24]
’.
-
“Đại sư Thiện Nhãn liền sau đó tu thêm tăng thượng từ. Sau khi
tu tăng thượng từ, mạng chung sanh lên trời Hoảng dục. Đại sư
Thiện Nhãn và các đệ tử học đạo không uổng công, đạt được quả
báo lớn.
-
“Này các Tỳ-kheo, các ngươi nghĩ sao? Xưa kia đại sư Thiện
Nhãn được hàng tiên nhân ngoại đạo tôn kính là bậc thầy, xả ly
dục ái, chứng như ý túc, các ngươi cho là người nào khác
chăng? Chớ nghĩ như vậy. Nên biết, đó là Ta vậy. Vào thời đó,
Ta là Thiện Nhãn đại sư, được tiên nhân ngoại đạo tôn kính là
bậc thầy, xả ly dục ái, chứng như ý túc; lúc đó ta có vô lượng
trăm ngàn đệ tử. Ta dạy Phạm thế pháp cho các đệ tử. Khi Ta
dạy Phạm thế pháp, trong số các đệ tử có người phụng hành
không đầy đủ pháp ấy. Người ấy sau khi mạng chung hoặc sanh
lên cõi trời Tứ vương hoặc trời Tam thập tam, hoặc trời
Diệm-ma, hoặc trời Đâu-suất-đà, hoặc sanh lên trời Tha hóa.
Khi Ta dạy Phạm thế pháp, nếu có người phụng hành đầy đủ pháp
ấy, người ấy tu bốn Phạm thất, xả ly các dục, sau khi mạng
chung người ấy sanh lên trời Phạm thiên. Lúc đó Ta nghĩ như
vầy: ‘Ta không nên cùng với các đệ tử cùng sanh chung một nơi
nào vào đời sau. Nay ta hãy tu thêm tăng thượng từ. Sau khi tu
tăng thượng từ, mạng chung sẽ được sanh lên trời Hoảng dục’.
Sau đó, Ta lại tu thêm tăng thượng. Sau khi tu tăng thượng từ,
mạng chung được sanh lên trời Hoảng dục. Thời ấy Ta và các đệ
tử học đạo không hư uổng, được quả báo lớn.
-
“Thời ấy Ta thân hành đạo này để lợi ích cho mình và lợi ích
kẻ khác, làm lợi ích cho mọi người, cảm thương thế gian, vì
trời và người mà tìm cầu nghĩa, và sự lợi ích, tìm sự an ổn và
khoái lạc. Lúc bấy giờ Ta nói pháp chưa đến chỗ rốt ráo; không
rốt ráo bạch tịnh, không rốt ráo phạm hạnh. Vì không rốt ráo
phạm hạnh, nên bấy giờ Ta không xa lìa được, sanh, lão, bệnh,
tử, than khóc, buồn rầu; cũng chưa thể thoát được tất cả khổ
não.
-
“Này các Tỳ-kheo, Ta nay xuất hiện ở đời, là Như Lai, Bậc Vô
Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiên Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự[25],
Thiên Nhân Sư, gọi là Phật, là Đấng Chúng Hựu[26].
-
“Ta nay đã làm lợi ích cho chính mình, cũng làm lợi ích cho kẻ
khác, làm lợi cho mọi người, cảm thương thế gian, vì trời và
người mà tìm nghĩa và sự lợi ích, tìm sự an ổn khoái lạc. Nay
Ta thuyết pháp đã đạt được chỗ rốt ráo, rốt ráo bạch tịnh, rốt
ráo phạm hạnh. Do rốt ráo phạm hạnh, ta nay đã lìa khỏi sanh,
lão, bệnh, tử, khóc than, buồn rầu. Nay Ta đã được giải thoát
mọi khổ não”.
-
Đức Phật thuyết giảng như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật
thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01]
Về bảy mặt trời xuất hiện. Tương đương Pāli: A. VII. 62 Suriya
(Satta-suriya). Biệt dịch, No.30 Phật Thuyết Tát-bát-đa
tô-rị-du-nại-dã Kinh, Tống, Pháp hiền dịch (Đại 1, tr.811);
No.125 (40.1) Tăng Nhất 34, “Thất Nhật Phẩm, kinh số 1”.
-
[02]
Bệ-xá-li; Pāli: Vesali. Thủ phủ của bộ tộc Licchava.
-
[03]
Nại thị thọ viên,
vườn cây của họ Nại, tức vườn xoài. Pāli: Ambapālivāna, do kỹ
nữ Ambapāli cúng dường Phật.
-
[04]
Hán: vô thường,
bất cửu trụ pháp,
tốc biến dịch pháp,
bất khả ỷ pháp. Pāli: anicca, adhuva, anassāsika.
-
[05]
Hán: hữu thời bất vũ,
đây chỉ đại hạn vào lúc tận thế. Pāli: hoti kho so, bhikkhave,
samayo ya
kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena bahūni vassāni
bahūni vassatāni bahūni vassasahassāni bahūni
vassasatasahassāni devo na vassati, “Này các Tỳ-kheo, có một
thời gian nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều nghìn năm, trời
không mưa”.
-
[06]
Bản Pāli liệt kê bốn sông lớn: Gagā,
Yamunā, Aciravatī, Sarabhū.
-
[07]
Diêm-phù châu ngũ hà.
Hằng-già(Pāli: Gaga),
Dao-vưu-na(Pāli: Yamunā), Xá-lao-phù(Pāli: Sarabhū), A-di-la-bà-đề
(Pāli: Aciravatī) Ma-xí(Pāli: Mahī). Bản Pāli liệt kê các hồ lớn, phát nguyên của các
sông lớn. Các hồ lớn: Anotattā, Sihapapātā, Rathakārā,
Kannamunda, Kunalā, Chaantā,
Mandakinī.
-
[08]
Hán: do-diên
cũng nói là do-tuần.
Pāli: yojana, dài khoảng bảy dặm Anh.
-
[09]
Hán: đa-la thọ.
Cùng loại cây thốt nốt hay cây cọ, dùng làm đơn vị đo chiều
cao.
-
[10]
Các bản Tống-Nguyên-Minh: thập nhân;
bản Cao-ly: nhất nhân.
Nghĩa là bằng chiều cao một người trung bình.
-
[11]
Hán: Tu di sơn vương.
Pāli: Sineru pabbatarājā.
-
[12]
Hán: Phạm thiên,
tầng thứ nhất thuộc Sơ thiền. Pāli: Brāhma-loka, Phạm thiên
giới. No.30: Lửa đốt cháy cả cõi trời sơ thiền, ngọn lửa ngang
đến cõi trời Nhị thiền.
-
[13]
Hán: Hoảng dục chư thiên,
cũng gọi là Quang âm thiên,
hay Cực quang thiên.
Tầng thứ ba thuộc Nhị thiền. Pāli: Ābhassarā.
-
[14]
Hán: yên mặc.
Các bản Tống-Nguyên-Minh: yên diệm.
No.30: Đốt đèn bằng dầu tô (bơ), cháy đến hết; đèn tắt thì dầu
cũng cạn sạch.
-
[15]
Hán: duy kiến đế giả. Pāli: aññatra dhapadehi,
ngoại trừ những người nhìn thấy tận mắt.
-
[16]
Thiện Nhãn.
Pāli: Sunetta.
-
[17]
Pāli: satthā... titthakaro, vị Đạo sư thuộc ngoại đạo.
-
[18]
Pāli: kāmesu vītarāgo, không còn ham muốn trong các tình dục.
-
[19]
Tức có phép thần thông. Pāli không có chi tiết này.
-
[20]
Pāli: Brahmalokasahavyatāya dhamma
desesi, “giảng dạy pháp về sự cộng trú với Phạm thiên giới”.
-
[21]
Tứ vương thiên
(Pāli: Cātummahārājikā devā), Tam thập tam thiên
(Tāvatisa),
Diệm-ma thiên
(Pāli: Yāma), Đâu-suất-đà thiên
(Tusita), Tha hóa thiên.
(Nimmānarati), Tha hóa lạc thiên.
(Paranimmita-vasavatin).
-
[22]
Hán: (tứ) Phạm thất,
cũng gọi là Phạm trụ
hay Phạm đường,
tức bốn vô lượng tâm: từ, bi, hỷ và xả. Pāli: Brahmavihāra.
-
[23]
Hán: tăng thượng từ.
Pāli: uttari mettā, từ cao hơn.
-
[24]
Xem cht.13.
-
[25]
Hán: Đạo Pháp Ngự,
thường nói là “Điều Ngự Trượng Phu”.
Pāli: purisadammasārathi.
-
[26]
Hán: Chúng Hựu,
tức Thế Tôn. Pāli: Bhagavant.
-
|