- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 01-
PHẨM BẢY PHÁP
-
- Tôi
nghe như vầy:
-
Một
thời Phật du hóa ở Câu-lâu-sấu,
tại đô ấp Kiếm-ma-sắt-đàm, đô ấp của Câu-lâu.
- Bấy giờ Đức
Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
- “Do tri, do
kiến[04]
mà các lậu bị tận diệt chớ không phải do không tri, không
kiến.
- “Sao gọi là
do tri, do kiến mà các lậu bị tận diệt? Đó là do có chánh
tư duy và không chánh tư duy[05].
Nếu không chánh tư duy thì dục lậu chưa sanh sẽ sanh; đã
phát sanh liền tăng trưởng; hữu lậu, vô minh lậu chưa sanh
sẽ phát sanh; đã phát sanh liền tăng trưởng[06].
Nếu có chánh tư duy thì dục lạâu chưa sanh sẽ không sanh,
đã sanh liền tiêu diệt. Hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh
sẽ không sanh; đã sanh liền tiêu diệt.
- “Những
người phàm phu ngu si, không được nghe chánh pháp, không
được gặp bậc chơn tri thức, không biết thánh pháp, không
điều ngự thánh pháp[07]
không biết pháp như thật. Nếu không có chánh tư duy, dục
lậu chưa sanh sẽ phát sanh, đã phát sanh liền tăng trưởng;
hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ phát sanh; đã phát
sanh liền tăng trưởng. Nếu có chánh tư duy, dục lậu chưa
sanh sẽ không phát sanh, đã phát sanh liền tiêu diệt; hữu
lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ không phát sanh; đã phát
sanh liền tiêu diệt. Vì không biết pháp như thật do đó
pháp không nên niệm lại niệm, pháp nên niệm lại không
niệm. Vì pháp không nên niệm lại niệm, pháp nên niệm lại
không niệm, nên dục lậu chưa sanh sẽ phát sanh, đã sanh
liền tăng trưởng; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh liền
phát sanh, đã sanh liền tăng trưởng.
- “Thánh đệ
tử đa văn được nghe Thánh pháp, được gặp bậc chơn tri
thức, được điều ngự theo Thánh pháp, biết pháp như thật,
nhưng nếu không có chánh tư duy, thì dục lậu chưa sanh sẽ
phát sanh, đã sanh liền tăng trưởng; hữu lậu và vô minh
lậu chưa sanh liền phát sanh, đã sanh liền tăng trưởng.
Nếu có chánh tư duy, dục lậu chưa sanh sẽ không sanh, đã
sanh liền tiêu diệt; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ
không phát sanh, đã sanh liền tiêu diệt. Sau khi biết pháp
như thật, pháp không nên niệm thì không niệm, pháp nên
niệm liền niệm. Vì không niệm pháp không nên niệm và pháp
nên niệm liền niệm, nên dục lậu chưa sanh sẽ không phát
sanh, đã sanh liền tiêu diệt; hữu lậu và vô minh lậu chưa
sanh sẽ không phát sanh, đã sanh liền tiêu diệt.
- “Có bảy sự
đoạn trừ lậu, phiền não, pháp ưu sầu. Những gì là bảy? Có
lậu được đoạn do kiến, có lậu được đoạn do hộ, có lậu được
đoạn do ly, có lậu được đoạn do dụng, có lậu được đoạn do
nhẫn, có lậu được đoạn do trừ, có lậu được đoạn do tư duy.
- “Thế nào là
lậu được đoạn do kiến[08]?
Kẻ phàm phu không được nghe chánh pháp, không gặp bậc chơn
trí thức, không biết Thánh pháp, không điều ngự Thánh
pháp, không biết như thật về pháp, không có chánh tư duy
nên suy nghĩ thế này: ‘Ta có đời quá khứ?[09]
Ta không có đời quá khứ ? Do nhân duyên gì ta có đời quá
khứ? Đời quá khứ ta như thế nào? Ta có đời vị lai? Ta
không có đời vị lai? Do nhân duyên gì ta có đời vị lai? Ta
có đời vị lai như thế nào?’ Người ấy hoài nghi về mình
rằng[10]:
“Thân ta là gì, nó là thế nào?[11]
Nay chúng sanh này từ đâu đến, và sẽ đi về đâu? Trước kia
do nhân gì mà có, và sẽ do nhân gì mà có?’ Người kia khởi
tư duy không chánh như vậy rồi, trong sáu tà kiến, một tà
kiến khởi lên cho rằng ‘Quả thật có thần ngã[12]’.
Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Quả thật không có thần
ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Thần ngã thấy là
thần ngã[13]’.
Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Thần ngã thấy là phi
thần ngã[14]’.
Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Chính thần ngã ấy có
thể thấy, có thể biết, có thể hành động, có thể sai khiến
hành động, có thể đứng dậy, có thể sai khiến đứng dậy,
sanh vào nơi này, nơi kia, thọ lãnh thiện báo, ác báo;
quyết không từ đâu đến, quyết không phải đã có, quyết
không phải sẽ có[15]’.
Đó tệ của kiến[16];
bị kiến lay động, bị kết sử của kiến buộc chặt. Kẻ phàm
phu ngu si vì thế mà phải chịu cái khổ của sanh, lão,
bệnh, tử.
- “Đa văn
Thánh đệ tử được nghe Thánh pháp, gặp bậc chơn tri thức,
được chế ngự theo Thánh pháp, biết pháp như thật, biết như
thật về Khổ, biết Khổ tập, biết Khổ diệt và biết như thật
Khổ diệt đạo. Biết như thật như thế rồi, ba kết tận trừ.
Khi ba kết là thân kiến, giới thủ, và nghi đã trừ hết,
chứng quả Tu-đà-hoàn, không còn đọa lạc ác pháp, chắc chắn
thăng tiến đến chánh giác, thọ sanh tối đa bảy đời trong
thiên thượng và nhân gian. Sau bảy lần qua lại liền chứng
đắc Khổ đế. Nếu không có tri kiến thì phát sanh phiền não,
ưu sầu, có tri kiến thì không phát sanh phiền não, ưu sầu.
Đó là lậu được đoạn trừ do kiến.
- “Có lậu
được đoạn trừ do hộ[17]
là gì? Tỳ-kheo khi mắt thấy sắc, nếu có phòng hộ nhãn căn
thì sẽ do chánh tư duy mà quán bất tịnh vậy; nếu không
phòng hộ nhãn căn thì sẽ do không chánh tư duy mà quán là
tịnh. Nếu không phòng hộ thì sanh phiền não, ưu buồn. Nếu
có phòng hộ thì không sanh phiền não, ưu buồn. Cũng vậy,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý biết pháp mà có phòng hộ ý căn,
thì sẽ do chánh tư duy mà quán bất tịnh, nếu không phòng
hộ ý căn thì sẽ do không chánh tư duy mà quán là tịnh. Nếu
không phòng hộ thì sanh phiền não, ưu buồn, nếu có phòng
hộ thì không sanh phiền não, ưu buồn. Đó là có lậu được
đoạn trừ do hộ.
- “Có lậu
được đoạn trừ do ly[18]
là gì? Tỳ-kheo khi thấy voi dữ thì nên xa lánh, ngựa dữ,
trâu dữ, chó dữ, rắn độc, đường hiểm, nhà tiểu, hầm hố,
sông ngòi, suối sâu, vách núi, ác tri thức, ác bằng hữu,
ác dị đạo, chòm xóm xấu, nơi cư trú xấu, hoặc Tỳ-kheo ở
chung một chỗ với các người phạm hạnh, người không nghi
ngờ mà khiến nghi ngờ, là những trường hợp phải nên xa
lánh[19].
Hãy nên xa lánh tất cả ác tri thức, ác bằng hữu, ác ngoại
đạo, ác dị đạo, chòm xóm xấu, nơi cư trú xấu, hoặc Tỳ-kheo
ở chung một chỗ với các người phạm hạnh, người không nghi
ngờ mà khiến nghi ngờ. Nếu không xa lánh thì khởi sanh
phiền não, ưu sầu. Nếu xa lánh thì không phát sanh phiền
não, ưu sầu. Đó là lậu được đoạn trừ do ly.
- “Có lậu
được đoạn trừ do dụng[20]
là gì? Tỳ-kheo khi thọ dụng y phục, chẳng phải để cầu lợi,
chẳng phải để kiêu hãnh, chẳng phải để trang sức, mà vì
muỗi mòng, gió mưa, lạnh nóng và vì hổ thẹn. Khi thọ dụng
đồ ăn uống chẳng phải vì mưu lợi, chẳng phải để trang sức,
chẳng phải để mập béo mà vì để làm thân thể ở đời lâu dài,
trừ phiền não, ưu buồn, vì để thực hành phạm hạnh, vì muốn
để bệnh cũ tiêu trừ đừng sanh bệnh mới, và vì để sống lâu,
an ổn, không bệnh hoạn. Khi thọ dụng nhà cửa, phòng xá,
giường nệm, ngọa cụ, không phải để kiêu hãnh, chẳng phải
để trang sức, mà vì để lúc mệt mỏi có nơi an nghỉ, để được
tĩnh tọa. Khi thọ dụng thuốc thang không phải để mưu lợi,
không phải để kiêu hãnh, không phải để mập béo, mà chỉ để
trừ bệnh hoạn, để điều hòa mạng căn, để an ổn không bệnh.
Nếu không thọ dụng những thứ ấy thì sẽ sanh phiền não, sầu
lo, còn thọ dụng thì không sanh phiền não sầu lo. Đó là
hữu lậu được đoạn trừ do dụng.
- “Có lậu
được đoạn trừ do nhẫn[21]
là gì? Tỳ-kheo tinh tấn đoạn trừ ác, bất thiện, tu tập
thiện pháp, nên luôn luôn có ý tưởng trỗi dậy[22],
chuyên tâm tinh tấn; thân thể, da, thịt, gân, xương, máu,
tủy, thà để khô kiệt tất cả chớ không bỏ tinh tấn. Phải
đạt được mục đích mong muốn mới xả sự tinh tấn. Tỳ-kheo
lại phải chịu đựng sự đói khát, lạnh nóng, muỗi mòng,
ruồi, bọ chét, chấy, dù gió hay nắng bức bách, bị lời dữ,
bị đánh đập, cũng đều có thể nhẫn chịu được. Dù thân mạng
bệnh tật rất là đau đớn đến nỗi gần muốn tuyệt mạng, và
những điều không thể ưa vui được, tất cả đều chịu đựng
được. Nếu không nhẫn chịu thì sanh phiền não, ưu buồn, còn
nhẫn chịu được thì không sanh phiền não ưu buồn. Đó là lậu
được đoạn trừ do nhẫn.
- “Có lậu
được đoạn trừ do trừ[23]
là gì? Tỳ-kheo nếu sanh khởi dục niệm mà không đoạn trừ,
hay xả ly; sanh nhuế niệm, hại niệm mà không đoạn trừ xả
ly. Nếu không trừ diệt thì sanh khởi phiền não, ưu buồn;
còn nếu trừ diệt thì không sanh phiền não, ưu buồn. Đó là
lậu được đoạn trừ do trừ.
- “Có lậu
được đoạn trừ do tư duy[24]
là gì? Tỳ-kheo tư duy về giác chi thứ nhất là niệm, y viễn
ly, y vô dục, y diệt tận, thẳng đến xuất yếu; trạch pháp,
tinh tấn, hỷ, tức[25],
định, cho đến tư duy về giác chi thứ bảy là xả, y viễn ly,
y vô dục, y diệt tận, thẳng đến xuất yếu; nếu không tư duy
thì sanh phiền não, ưu sầu, còn có tư duy thì không sanh
phiền não ưu sầu. Đó là lậu được đoạn trừ do tư duy.
- “Nếu có
Tỳ-kheo nào do kiến mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi
kiến; do hộ mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi hộ; do
ly mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi ly; do dụng mà
đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi dụng; do nhẫn mà đoạn
trừ các lậu được đoạn trừ bởi nhẫn; do trừ mà đoạn trừ các
lậu được đoạn trừ bởi trừ; do tư duy mà đoạn trừ các lậu
được đoạn trừ bởi tư duy. Đó gọi là Tỳ-kheo đã đoạn trừ
tất cả lậu, đã giải trừ các kết phược, có thể bằng chánh
trí mà chứng đắc Khổ đế”.
- Đức Phật
thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan
hỷ phụng hành.
-
-
Chú
Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: M.2. Sabbāsava-sutta (kinh Nhất thiết lậu). Biệt
dịch: No.31. Phật Thuyết Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ Nhân
Kinh, Hậu Hán, An Thế Cao dịch, Đại 1 tr.813; No.125(40.6)
Tăng Nhất “Thất Nhật Phẩm, kinh số 6”.
-
[02] Câu-lâu-sấu, tức Pāli: Kurusu, giữa những người (nước) Kuru.
Nhưng, Pāli, M.2: Sāvatthiya viharati Jetavane..., trú ở
Xá-vệ, trong rừng Jeta... No.1 25 (40.6) cũng vậy, Xá-vệ
Kỳ thọ Cấp cô độc viên. No.31, Phật tại Câu-lưu, Tu hội
pháp nghị tư duy.
-
[03]
Kiếm-ma-sắt-đàm Câu-lâu đô ấp. Pāli:
Kammāsa-dhamma, thủ phủ của những người Kurū. Xem thêm
cht.2.
-
[04] Dĩ tri, dĩ
kiến cố. Pāli: jānato... passato āsavāna khaya
vadāmi, “Ta nói sự diệt tận của các lậu là do biết, do
thấy”.
-
[05] Chánh tư duy
bất chánh tư duy. No.31. Bổn quán, phi bổn
quán, suy niệm đúng đắn và suy niệm không đứng
đắn. Pāli: yoniso ca manasikāraṃ ayoniso ca manasikāraṃ,
có như lý tác ý và không như lý tác ý (tư niệm có phương
pháp và không có phương pháp).
-
[06] Ba lậu: Dục
lậu (Pāli: kāmāsava): Tất cả phiền não ở cõi Dục, trừ
vô minh. Hữu lậu (Pāli: bhavāsava): Tất cả phiền não ở
cõi Sắc trừ vô minh. Vô minh lậu(Pāli: avijjāsava):
Vô minh trong ba cõi. Bản Pàli chỉ nêu tổng quát:
anuppannā c’eva āsavā... các lậu chưa sanh.
-
[07] Hán: bất
điều ngự Thánh pháp, nghĩa là, không được huấn
luyện, hay điều phục theo Thánh pháp.
-
[08] Lậu tùng
kiến đoạn. Pāli: āsavā dassanā pahātabbā.
-
[09] Pāli: ahosi
nu kho aha atītam addhāna, “Ta đã hiện hữu trong đời qua
khứ?”
-
[10] Hán: tự nghi, ở đây, hoài nghi về sự hiện hữu của mình trong đời
hiện tại. Pāli: paccupānna addhāna kathakathī hoti.
-
[11] Hán: kỷ thân hà vị thị,
vân hà thị. Pāli: kin nu kho
‘smi, kathan nu kho ‘smi, “Tại sao ta hiện hữu? Ta hiện
hữu như thế nào?”
-
[12] Hán: chân
hữu thần, tự ngã được biết như là linh hồn hay thần
hồn. Pāli: atthi me attā ti, “Ta có tự ngã”.
-
[13] Thần kiến
thần. No.31: Tự kế thân thân kiến. Pāli:
attanā vā attāna sajānāmīti, “do tự mình, tôi biết có tự
ngã”.
-
[14] Hán: thần
kiến phi thần. Pāli: attanā va anattāna
sajānāmīti, “Không do tự mình, tôi biết có tự ngã.”
-
[15] Hán: định vô
sở tùng lai...,. Pāli: so kho pana me aya attā
nicco dhuvo sassato avipariāmadhammo sassatisama
tath’eva ṭhassatīti, “Tự ngã của ta ấy thường trụ, kiên
cố, vĩnh hằng, không biến dịch, tồn tại vĩnh cửu”.
-
[16] Hán: kiến
chi tệ... Pāli: Ida vuccati... Dihigata
dithigahana dihikantāra dihivisūka
dihivipphandita dihisayojana, “Đó được gọi là sở
hành của tà kiến, rừng rậm của tà kiến, đường hiểm của tà
kiến, tranh chấp của tà kiến, sự náo động của tà kiến, sự
trói buộc của tà kiến”.
-
[17] Hán: lậu
tùng hộ đoạn. Pāli: āsavā savarā pahātabbā, các
lậu được đoạn trừ do phòng hộ.
-
[18] Hán: lậu
tùng ly đoạn. Pāli: āsavā parivajjanā pahātabbā,
các lậu được đoạn trừ do bởi sự tránh xa.
-
[19] Nghĩa là,
tránh xa những Tỳ-kheo nào giao du bạn xấu, v.v..., khiến
các bạn đồng tu phải nghi ngờ.
-
[20] Hán: lậu
tùng dụng đoạn. Pāli: āsavā paisevanā pahātabbā,
các lậu được đoạn trừ do thọ dụng.
-
[21] Hán: lậu
tùng nhẫn đoạn. Pāli: āsavā adhivāsanā pahātabbā,
các lậu được đoạn trừ do sức chịu đựng.
-
[22] Hán: thường
hữu khởi tưởng, luôn luôn có ý tưởng tỉnh thức,
không ham ngủ nghỉ.
-
[23] Hán: lậu
tùng trừ đoạn. Pāli: āsavā vinodā pahātabbā.
-
[24] Hán: lậu
tùng tư duy đoạn. Pāli: āsavā bhāvanā pahātabbā,
các lậu được đoạn trừ do tu tập.
-
[25] Hán: tức,
sự nghỉ ngơi; nhưng thường nói là khinh an. Pāli:
passaddhi.
|