- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 02-
PHẨM NGHIỆP TƯƠNG ƯNG
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại Thích-ki-sấu[02]
nước Ca-duy-la-vệ[03],
trong vườn Ni-câu-loại[04].
- Bấy giờ Tôn giả
Đại Mục-kiền-liên[05]
cùng với chúng Đại Tỳ-kheo sau giờ ăn trưa[06],
vì có việc nên tập họp ngồi tại giảng đường. Lúc bấy giờ
Ni-kiền[07]
có một người đệ tử thuộc dòng họ Thích tên Hòa-phá[08],
sau giờ ăn trưa, thong thả đi đến chỗ Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên; cùng chào hỏi nhau rồi ngồi sang một bên.
- Bấy giờ Tôn giả
Đại Mục-kiền-liên hỏi sự việc như thế này:
- “Này Hòa-phá, ý
ông nghĩ sao? Giả sử có Tỳ-kheo thủ hộ thân, miệng, ý; trong
trường hợp này, ông có thấy vị ấy nhân đó mà sanh khởi lậu bất
thiện, khiến cho đến đời sau chăng[09]?”
- Hòa-phá trả lời
rằng:
- “Này Đại
Mục-kiền-liên, giả sử có vị Tỳ-kheo thủ hộ thân, miệng, ý;
trong trường hợp này tôi thấy rằng nhân đó mà sanh khởi lậu
bất thiện, khiến cho đến đời sau. Này Đại Mục-kiền-liên, giả
sử có ai ở đời trước hành bất thiện hạnh, người ấy do đó mà
sanh khởi lậu bất thiện khiến cho đến đời sau[10]“.
- Lúc đó[11]
Đức Thế Tôn đang tĩnh tọa ở chỗ vắng vẻ; bằng thiên nhĩ thanh
tịnh siêu việt loài người, nghe Tôn giả Đại Mục-kiền-liên và
Thích Hòa-phá đệ tử của Ni-kiền cùng bàn luận như thế.
- Đức Thế Tôn
nghe xong, vào lúc xế chiều, rời chỗ tĩnh tọa, đi đến giảng
đường, trải chỗ và ngồi trước chúng Tỳ-kheo. Sau khi ngồi, Đức
Thế Tôn hỏi rằng:
- “Này Đại
Mục-kiền-liên, vừa rồi ông cùng đệ tử của Ni-kiền Thích
Hòa-phá bàn luận về việc gì? Lại có việc gì mà tập họp ngồi
tại giảng đường?”
- Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên bạch rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
hôm nay con cùng với chúng Đại Tỳ-kheo sau giờ ăn trưa, vì có
việc nên tập họp ngồi tại giảng đường. Lúc bấy giờ đệ tử
Ni-kiền thuộc Thích Hòa-phá này, sau giờ ăn trưa, thong thả đi
đến chỗ con; cùng chào hỏi nhau rồi ngồi sang một bên. Con hỏi
như vầy: ‘Này Hòa-phá, ý ông nghĩ sao? Giả sử có Tỳ-kheo thủ
hộ thân, miệng, ý; trong trường hợp này, ông có thấy vị ấy
nhân đó mà sanh khởi lậu bất thiện, khiến cho đến đời sau
chăng?’ Hòa-phá trả lời con rằng: ‘Này Đại Mục-kiền-liên, giả
sử có Tỳ-kheo thủ hộ thân, miệng, ý; trong trường hợp này tôi
thấy rằng nhân thế mà sanh khởi lậu bất thiện, khiến cho đến
đời sau. Này Đại Mục-kiền-liên, giả sử có ai ở đời trước hành
bất thiện hạnh, người ấy do đó mà sanh khởi lậu bất thiện
khiến cho đến đời sau’. Bạch Thế Tôn, vừa rồi con cùng Thích
Hòa-phá đệ tử Ni-kiền bàn luận như vậy. Vì việc đó mà ngồi tập
họp tại giảng đường”.
- Lúc đó Đức Thế
Tôn bảo Thích Hòa-phá, đệ tử của Ni-kiền rằng:
- “Nếu những gì
ta nói là đúng, ông trả lời là đúng; nếu không đúng ông nên
trả lời là không đúng. Ông có điều gì nghi ngờ thì nên hỏi ta
như vầy: ‘Sa-môn Cù-đàm, cái này có sự gì? Cái này có ý nghĩa
gì?’ Tùy những điều Ta nói mà ông có thể tiếp nhận được thì Ta
với ông có thể bàn luận điều ấy”.
- Hòa-phá trả lời
rằng:
- “Sa-môn Cù-đàm,
nếu điều Ngài nói là đúng, tôi sẽ nói là đúng. Nếu không đúng
tôi sẽ nói là không đúng. Nếu có điều nào nghi ngờ tôi sẽ hỏi
Cù-đàm: ‘Thưa Cù-đàm, điều này có sự gì? Điều này có nghĩa
gì?’ Tùy theo những điều Sa-môn Cù-đàm nói, tôi tiếp nhận.
Vậy, Sa-môn Cù-đàm hãy cùng tôi bàn luận việc ấy”.
- Đức Thế Tôn hỏi
rằng:
- “Ý Hòa-phá nghĩ
sao? Giả sử có Tỳ-kheo sanh khởi thân hành bất thiện, lậu,
nóng bức, ưu sầu[12].
Vị ấy sau đó thân hành bất thiện được diệt trừ, không tạo thêm
những nghiệp mới, vứt bỏ nghiệp cũ, tức thời ngay trong đời
hiện tại liền đạt đến cứu cánh, không còn bị nóng bức, thường
trụ bất biến, tức điều được nói là được thấy bởi Thánh tuệ,
được biết bởi Thánh tuệ. Nếu thân hành bất thiện, khẩu hành
bất thiện, ý hành bất thiện, vô minh hành, lậu, nóng bức và ưu
sầu[13],
người ấy sau đó diệt trừ vô minh hành bất thiện, không tạo
thêm những nghiệp mới, vứt bỏ nghiệp cũ, ngay trong đời này
liền chứng được cứu cánh, không còn nóng bức, thường trú bất
biến, tức điều được nói là được thấy bởi Thánh tuệ, được biết
bởi Thánh tuệ. Thế nào, này Hòa-phá Tỳ-kheo thủ hộ thân,
miệng, ý như vậy, trong trường hợp này ông có thấy vị đó nhân
mà sanh khởi lậu bất thiện, khiến cho đến đời sau chăng?”
- Hòa-phá trả lời
rằng:
- “Thưa Cù-đàm,
giả sử có vị Tỳ-kheo thủ hộ thân, miệng, ý như vậy, trong
trường hợp này tôi không thấy vị ấy do đó mà sanh khởi lậu bất
thiện khiến cho đến đời sau”.
- Đức Thế Tôn
khen rằng:
- “Lành thay,
Hòa-phá, thế nào, này Hòa-phá, nếu có Tỳ-kheo vô minh đã dứt
hết, minh đã sanh khởi. Vị ấy vô minh đã dứt hết, minh đã sanh
khởi; cảm giác về hậu thân[14]
sanh khởi thì biết là cảm giác về hậu thân sanh khởi; khi cảm
giác về hậu mạng[15]
sanh khởi thì biết là cảm giác về hậu mạng sanh khởi. Khi thân
hoại mạng chung, tuổi thọ đã kết thúc, ngay trong đời này, tất
cả mọi cảm giác đã ngưng bặt, tự thân mình biết sẽ đi đến chỗ
lãnh đạm hoàn toàn[16].
- “Này Hòa-phá,
cũng như nhân cây mà có bóng. Giả sử có người mang búa thật
bén đến chặt đứt rễ cây, chặt nát ra thành nhiều khúc, phá làm
mười phần, hoặc trăm phần, đốt cháy thành tro, rồi hoặc để gió
thổi bay đi, hoặc mang bỏ vào trong nước. Ý Hòa-phá nghĩ sao?
Bóng nhân cây mà có; bóng ấy do đó mà mất hẳn cái nhân của nó,
nên tuyệt diệt không còn sanh nữa chăng?”
- Hòa-phá trả lời
rằng:
- “Đúng như thế,
thưa Cù-đàm”.
- “Này Hòa-phá,
nên biết vị Tỳ-kheo kia lại cũng như vậy. Vô minh đã dứt hết,
minh đã sanh khởi. Vị kia vô minh đã dứt hết, minh đã sanh
khởi; cảm giác về hậu thân sanh khởi thì biết là cảm giác về
hậu thân sanh khởi; khi cảm giác về hậu mạng sanh khởi thì
biết là cảm giác về hậu mạng sanh khởi. Khi thân hoại mạng
chung, tuổi thọ đã kết thúc, ngay trong đời này, tất cả mọi
cảm giác đã ngưng bặt, tự thân mình biết sẽ đi đến chỗ lãnh
đạm hoàn toàn. Này Hòa-phá, vị Tỳ-kheo với tâm giải thoát chơn
chánh[17]
như vậy, liền được sáu trụ xứ thiện[18].
Sáu trụ xứ đó là gì? Này Hòa-phá, Tỳ-kheo mắt thấy sắc mà
không hỷ, không ưu, xả cầu, vô vi, chánh niệm, chánh trí. Này
Hòa-phá, vị Tỳ-kheo chánh tâm giải thoát như vậy, đó gọi là
được trú xứ thiện thứ nhất. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý
biết pháp mà không hỷ không ưu, xả cầu, vô vi, chánh niệm,
chánh trí. Này Hòa-phá, vị Tỳ-kheo chánh tâm giải thoát như
vậy, đó gọi là được trụ xứ thứ sáu.
- Hòa-phá bạch
rằng:
- “Đúng như vậy,
thưa Sa-môn Cù-đàm!”
- “Đa văn Thánh
đệ tử chánh tâm giải thoát như vậy, được sáu trụ xứ thiện. Sáu
trụ xứ thiện là những gì?”
- “Thưa Cù-đàm,
Đa văn Thánh đệ tử khi mắt thấy sắc, không hỷ, không ưu, xả
cầu[19],
vô vi, chánh niệm, chánh trí”.
- “Này Hòa-phá,
Tỳ-kheo với tâm giải thoát chơn chánh như vậy, được nói là đạt
được trụ xứ thiện thứ nhất. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý
biết pháp mà không hỷ, không ưu, xả cầu, vô vi, chánh niệm,
chánh trí. Này Hòa-phá, Tỳ-kheo với tâm giải thoát chơn chánh
như vậy được nói là đạt được trụ xứ thiện thứ sáu. Này
Hòa-phá, Tỳ-kheo với tâm giải thoát chơn chánh như vậy, được
sáu trú xứ thiện này”.
- Hòa-phá bạch
rằng:
- “Đúng như thế,
thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải thoát chơn chánh
như vậy, được sáu trú xứ thiện. Thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ
tử khi mắt thấy sắc, không hỷ, không ưu, xả cầu, vô vi, chánh
niệm, chánh trí. Thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải
thoát chơn chánh như vậy, được nói là đạt được trụ xứ thiện
thứ nhất. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý biết pháp mà không
hỷ, không ưu, xả cầu, vô vi, chánh niệm, chánh trí. Thưa
Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải thoát chơn chánh như
vậy được nói là đạt được trụ xứ thiện thứ sáu. Như vậy, Thưa
Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải thoát chơn chánh như
vậy, được sáu trụ xứ thiện này”.
- Rồi thì,
Hòa-phá bạch Thế Tôn rằng:
- “Bạch đức
Cù-đàm, con đã biết. Bạch Đức Thiện Thệ, con đã hiểu. Bạch Đức
Cù-đàm, cũng như người có mắt sáng, cái gì bị úp thì lật lên;
cái gì bị che đậy thì giở ra; đối với người mê thì chỉ đường
cho; trong tối tăm thì cho ánh sáng để ai có mắt thì thấy ánh
sáng màu sắc. Sa-môn Cù-đàm cũng giống như vậy, vì con mà dùng
vô lượng phương tiện thuyết pháp và hiển hiện nghĩa lý, theo
đạo thậm thâm[20].
- “Bạch Thế Tôn,
hôm nay con xin tự quy y với Phật, Pháp và Chúng Tỳ-kheo, duy
nguyện Thế Tôn nhận cho con làm Ưu-bà-tắc; kể từ hôm nay trọn
đời xin tự quy y, cho đến mạng chung.
- “Bạch Thế Tôn,
cũng như người nuôi con ngựa dở mà mong có lợi ích. Bạch Thế
Tôn, con cũng như vậy. Ni-kiền ngu si kia không khéo hiểu rõ,
không thể giải biết, không biết được ruộng tốt, không suy xét
mà cung kính, lễ bái, phụng sự trong một thời gian dài, mong
được lợi ích, nhưng chỉ luống nhọc khổ, vô ích. Bạch Thế Tôn,
con nay lần nữa xin tự quy y Phật, Pháp và Chúng Tỳ-kheo, duy
nguyện Thế Tôn nhận cho con làm Ưu-bà-tắc; kể từ hôm nay, trọn
đời xin tự quy y, cho đến mạng chung.
- “Bạch Thế Tôn,
con vốn không biết nên đối với Ni-kiền ngu si kia mà có tín,
có kính, từ nay dứt hẳn. Vì sao thế? Vì phỉnh gạt con vậy.
Bạch Thế Tôn, nay lần thứ ba xin tự quy y với Phật, Pháp và
Chúng Tỳ-kheo, duy nguyện Thế Tôn nhận lời cho con làm
Ưu-bà-tắc; hôm nay, trọn đời xin tự quy y, cho đến khi mạng
chung”.
- Phật thuyết như
vậy. Thích Hòa-phá và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết,
hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú
Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: A.IV. 195 Vappa-sutta.
-
[02] Thích-ki-sấu. Pāli: Sakkesu, “Giữa chúng những người Thích-ca.
-
[03] Ca-duy-la-vệ, cũng gọi là Ca-tì-la-vệ. Pāli: Kapilavatthu, thủ
phủ của người Thích-ca; quê hương của Đức Thích Tôn.
-
[04] Ni-câu-loại viên. Pāli: Nigrodhārāma, khu rừng gần Kappilavathu
(Ca-tỳ-la-vệ) của một người bộ tộc Thích-ca tên là Nigrodha,
được cúng cho Phật khi ngài trở về sanh quán ngay khi Ngài
thành Đạo trong năm đầu tiên.
-
[05] Đại
Mục-kiền-liên. Pāli: Mahā-Moggallāna.
-
[06] Hán: trung thực
hậu.
-
[07] Ni-kiền, tức
Ni-kiền Tử, hay Ni-kiền Thân Tử. Pāli: Nagahā
Nātaputta.
-
[08] Hòa-phá.
Pāli: Vappa, trùng tên với một trong năm đệ tử đầu tiên của
Phật.
-
[09] Pāli: Idha assa
Vappa kāyena savutto vācāya savutto manasā savutto
avijjāvirāgā vijjuppādā passasi no tva Vappa ta hānā
yatonidāna purisa dukkhavedaniyā āsavā assaveyyu
abhisamparāyam ti, “Này Vappa, ở đây có người phòng hộ thân,
phòng hộ miệng, phòng hộ ý, xa lìa vô minh, sanh khởi minh; do
nhân duyên nào đó mà người trong đời vị lai có thể khởi lên
các lậu dẫn đến thọ khổ ấy. Này Vappa, ông có thấy trường hợp
ấy chăng?”
-
[10] Pāli: pubbe
pāpakamma kata avipakkavipāka, tatonidāna purisa
dukkhavedaniyā āsavā assaveyyu abhisamparāya, “ác nghiệp
được làm trong quá khứ nhưng quả dị thục chưa chín do nhân
duyên đó người ấy trong tương lai có thể khởi lên lậu hoặc dẫn
đến cảm thọ khổ.
-
[11] Bản
Tống-Nguyên-Minh: bỉ thời; bản Cao-ly: hậu thời, sau
đó.
-
[12] Hán: lậu phiền
nhiệt ưu thích. Pāli: kāyasamārambhapaccayā
uppajjanti āsavā vighātaparilāhā, “do duyên là sự hoạt động
của thân mà phát sinh các lậu, (là những thứ) gây tàn hại,
nóng bức”.
-
[13] Vô minh hành...
ưu sầu, Pāli: avijjāpaccayā uppajjanti āsavā..., “do duyên là
vô minh mà sinh khởi các lậu...”
-
[14] Hán: hậu thân
giác. Pāli: kāyapariyantika vedana vediyamāno, khi có
cảm giác về cảm thọ của thân tối hậu.
-
[15] 覺. Pāli:
jīvapariyantika vedana, cảm thọ của sinh mạng tối hậu.
Hán: hậu mạng giác
-
[16] Hán: cứu cánh
lãnh. Pāli: sīti, lạnh lùng.
-
[17] Hán: chánh tâm
giải thoát. Pāli: sammāvimuttacitta, tâm được giải
thoát hoàn toàn.
-
[18] Hán: lục thiện
trú xứ. Pāli: cha satatavihārā, sáu hằng trú, an trú
thường hằng.
-
[19] Hán: xả cầu.
Pāli: upekkhako viharati, vị ấy sống với trạng thái xả.
-
[20] Bản Cao-ly: tùy
kỳ chư đạo. Các bản Tống-Nguyên-Minh: tùy thậm thâm đạo.
-
|