- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 02-
PHẨM NGHIỆP TƯƠNG ƯNG
-
-
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
- Bấy giờ Đức Thế
Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng.
- “Nếu kẻ nào cố
ý tạo nghiệp[02],
Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong
đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau. Nếu tạo nghiệp mà không cố
ý, Ta nói rằng người ấy không nhất thiết phải thọ quả báo.
- “Ở đây, thân cố
ý tạo ba nghiệp bất thiện, đưa đến khổ quả, thọ khổ quả. Miệng
có bốn nghiệp, ý có ba nghiệp bất thiện, đưa đến khổ báo, thọ
khổ quả.
- “Những gì là ba
nghiệp do thân cố ý tạo bất thiện, đưa đến khổ quả, phải thọ
khổ báo? Một là sát sanh, quá hung dữ, uống máu, cứ muốn sát
hại, không thương xót chúng sanh, cho đến loài côn trùng. Hai
là lấy của không được cho, đắm trước tài vật của kẻ khác,
chiếm lấy với ý muốn trộm cắp. Ba là tà dâm; người kia chính
mình xâm phạm tới người nữ có cha giữ gìn, hoặc có mẹ gìn giữ,
hoặc được cả cha và mẹ giữ gìn, hoặc được chị em giữ gìn, hoặc
được anh em gìn giữ, hoặc được cha mẹ vợ[03]
gìn giữ, hoặc được người thân thuộc gìn giữ, hoặc được người
cùng dòng họ gìn giữ; hoặc được bảo vệ bằng đe dọa hình phạt
hay roi vọt[04],
hoặc đã được thuê, hoặc đã được hứa hôn, cho đến chỉ mới nhận
tràng hoa làm tin. Đó là ba nghiệp do thân cố ý tạo bất thiện,
đưa đến khổ quả, thọ lấy khổ báo.
- “Những gì là
bốn nghiệp do miệng cố ý tạo bất thiện, đưa đến khổ quả, thọ
lấy khổ báo? Một là nói dối; người kia hoặc ở giữa đám đông,
hoặc trong quyến thuộc, hoặc ở tại vương gia, nếu có ai kêu mà
hỏi rằng: ‘Ngươi có biết thì nói’. Nhưng nó không biết mà nói
là biết, biết nói là không biết; không thấy nói là thấy, thấy
nói không thấy. Vì mình, vì người, hoặc vì của cải, biết rồi
mà lại nói dối. Hai là nói hai lưỡi; muốn ly gián người khác
nên nghe nơi người này đem nói với người kia vì muốn phá hoại
người này. Nghe nơi người kia đem nói với này vì muốn phá hoại
người kia. Những kẻ hợp nhau muốn tạo ly tán; những kẻ đã ly
tán lại muốn cho xa rời để kết bè đảng, vui thích bè đảng,
khen ngợi bè đảng. Ba là nói thô ác; người ấy nếu có nói năng
gì thì lời lẽ thô tục, hung bạo, tiếng dữ trái tai, không ai
mến nổi, làm cho người khác phải khổ não, khiến cho không được
định tâm. Bốn là nói lời thêu dệt; người ấy nói không đúng
lúc, nói không thành thật, nói lời không đúng nghĩa, nói lời
không đúng pháp, nói không tịch tĩnh[05],
lại còn khen ngợi sự không tịch tĩnh, trái ngược thời gian mà
lại không khéo dạy dỗ, không khéo la mắng. Đó là bốn nghiệp do
miệng cố ý tạo, bất thiện, đưa đến khổ quả, thọ lấy khổ báo.
- “Những gì ba
nghiệp của ý cố ý tạo bất thiện, đưa đến khổ quả, thọ lấy khổ
báo? Một, tham lam; thấy tài vật và các tư cụ sinh sống của
người khác thường tham lam ước muốn sao cho được về của mình.
Hai là sân nhuế; trong ý ôm ấp oán ghét, nghĩ rằng: chúng sanh
kia đáng giết, đáng trói, đáng bắt, đáng loại bỏ, đáng đuổi
đi, mong cho kẻ kia thọ khổ vô lượng. Ba là tà kiến; sở kiến
điên đảo, thấy như vầy, nói như vầy: ‘Không có bố thí, không
có trai phước, không có chú thuyết, không có nghiệp thiện ác,
không có nghiệp báo thiện ác, không có đời này, đời sau; không
có cha mẹ, trên đời không có bậc chân nhân đi đến chỗ chí
thiện, khéo vượt qua, khéo hướng đến, ở đời này và đời sau mà
tự chứng tri, tự giác ngộ, tự thân tác chứng, thành tựu và an
trú. Đó là ba nghiệp do ý cố tạo bất thiện, đưa đến khổ quả,
thọ ấy khổ báo.
- “Đa văn Thánh
đệ tử xả bỏ nghiệp bất thiện của thân, tu thân thiện nghiệp,
xả bỏ nghiệp bất thiện của miệng và ý, tu thiện nghiệp miệng
và ý. Đa văn Thánh đệ tử đầy đủ giới đức tinh tấn như vậy,
thành tựu tịnh nghiệp nơi thân, thành tựu tịnh nghiệp nơi
miệng và ý, lìa sân nhuế, lìa não hại, từ bỏ ngủ nghỉ, không
trạo cử và cống cao, đoạn nghi, vượt kiêu mạn, chánh niệm,
chánh trí, không còn ngu si, tâm vị ấy đi đôi với từ, biến mãn
một phương thành tựu và an trú. Cũng vậy, với hai, ba, bốn
phương và tứ duy, thượng, hạ, biến mãn, tâm đi đôi với từ,
không thù không oán, không sân nhuế, không não hại, quảng đại
vô biên vô lượng, khéo tu tập biến mãn tất cả thế gian, thành
tựu và an trụ. Người kia suy nghĩ rằng: ‘Tâm ta xưa kia vốn
nhỏ hẹp, không khéo tu. Tâm ta nay đây khéo tu, quảng đại vô
lượng’. Đa văn Thánh đệ tử đối với tâm vô lường, khéo tu tập
như vậy, nếu trước kia nhân có ác tri thức, vì đã phóng dật mà
tạo nghiệp bất thiện, nay những thứ ấy không thể lôi kéo,
không thể làm ô uế, không còn đi theo nữa. Giả sử có một trẻ
thơ hoặc trai hay gái được sanh ra, liền có thể tu hành từ tâm
giải thoát[06],
về sau thân, miệng và ý có còn tạo những nghiệp bất thiện nữa
chăng?”
- Các Tỳ-kheo
thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
không thể”.
- “Vì sao vậy? Tự
mình không làm nghiệp ác thì nghiệp ác ấy do đâu mà sanh? Do
đó, người tại gia hay xuất gia, nam hay nữ, thường phải siêng
tu từ tâm giải thoát. Nếu người tại gia hay xuất gia, nam hay
nữ ấy, tu từ tâm giải thoát, thì không còn mang thân này đi
đến đời sau mà chỉ theo tâm đi khỏi cõi này. Tỳ-kheo nên nghĩ
như vầy: ‘Ta vốn vì buông lung mà tạo nghiệp bất thiện. Tất cả
nghiệp ấy có thể thọ báo trong đời này, chớ không thể đi đến
đời sau nữa’. Nếu có người thực hành từ tâm giải thoát rộng
lớn vô lượng, khéo tu tập như vậy, chắc chắn chứng quả
A-na-hàm, hoặc chứng cao hơn nữa.
- “Cũng vậy, tâm
bi và hỷ; tâm câu hữu với xả, không kết, không oán, không sân
nhuế, không não hại, quảng đại vô lượng, khéo tu tập, biến mãn
tất cả thế gian, thành tựu và an trụ. Người ấy suy nghĩ như
vầy: ‘Tâm ta trước vốn nhỏ hẹp, không khéo tu tập. Tâm ta nay
đây rộng lớn vô lượng, được khéo tu tập’. Đa văn Thánh đệ tử
đối với tâm vô lượng, khéo tu tập như vậy, nếu trước kia nhân
có ác tri thức, vì đã phóng dật mà tạo nghiệp bất thiện, nay
những thứ ấy không thể lôi kéo, không thể làm ô uế, không còn
đi theo nữa. Giả sử có một trẻ thơ hoặc trai hay gái được sanh
ra, liền có thể tu hành xả tâm giải thoát, về sau thân, miệng
và ý có còn tạo những nghiệp bất thiện nữa chăng?”
- Các Tỳ-kheo
thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
không thể”.
- “Vì sao vậy? Tự
mình không làm nghiệp ác thì nghiệp ác ấy do đâu mà sanh? Do
đó, người tại gia hay xuất gia, nam hay nữ, thường phải siêng
tu xả tâm giải thoát. Nếu người tại gia hay xuất gia, nam hay
nữ ấy, tu xả tâm giải thoát, thì không còn mang thân này đi
đến đời sau mà chỉ theo tâm đi khỏi cõi này. Tỳ-kheo nên nghĩ
như vầy: ‘Ta vốn vì buông lung mà tạo nghiệp bất thiện. Tất cả
nghiệp ấy có thể thọ báo trong đời này, chớ không thể đi đến
đời sau nữa’. Nếu có người thực hành xả tâm giải thoát rộng
lớn vô lượng, khéo tu tập như vậy, chắc chắn chứng quả
A-na-hàm, hoặc chứng cao hơn nữa”.
- Phật thuyết như
vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Không có Pāli
tương đương, chỉ một ít điểm tương đồng, A.X 207 Cetanā, X.
208 Karaja-kāya.
-
[02] Hán: cố tác
nghiệp. Pāli: sañcetanika kamma.
-
[03] Hán: phụ phụ mẫu. Có lẽ muốn nói “cha mẹ của nàng dâu” tức cha mẹ chồng.
-
[04] Nghĩa là, được
pháp luật bảo vệ.
-
[05] Hán: bất chỉ tức
thuyết.
-
[06] Hán: từ tâm giải
thoát. Pāli: metta cetovimutti, tâm giải thoát với
từ.
|