- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 02-
PHẨM NGHIỆP TƯƠNG ƯNG
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Đức
Phật du hóa tại Già-lam viên[02],
cùng đại chúng Tỳ-kheo, đến Ki-xá tử[03],
trụ trong vườn Thi-nhiếp-hòa[04],
phía Bắc thôn Ki-xá tử.
- Bấy giờ những
người Già-lam ở Ki-xá tử nghe đồn Sa-môn Cù-đàm thuộc dòng họ
Thích[05],
đã từ bỏ dòng họ Thích, xuất gia học đạo, đang du hóa tại
Già-lam viên cùng chúng Đại Tỳ-kheo đến Ki-xá tử này, trụ
trong rừng Thi-nhiếp-hòa ở phía Bắc thôn Ki-xá tử. Vị Sa-môn
Cù-đàm ấy có tiếng tăm lớn, truyền khắp mười phương rằng:
‘Sa-môn Cù-đàm là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh
Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp
Ngự[06],
Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Vị ấy ở trong thế gian này
giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ loài người cho
đến loài trời, tự tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu và an
trụ. Pháp mà vị ấy thuyết, khoảng đầu thiện, khoảng giữa
thiện, cứu cánh cũng thiện, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm
hạnh thanh tịnh trọn đủ[07]’.
Nếu gặp được Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác để tôn
trọng, lễ bái cúng dường, thừa sự, thì sẽ được nhiều thiện
lợi. Chúng ta hãy cùng nhau đến gặp Sa-môn Cù-đàm để lễ bái,
cúng đường”.
- Những người
Già-lam ở Ki-xá tử, nghe như vậy rồi, mỗi người cùng với quyến
thuộc của mình kéo nhau ra khỏi Ki-xá tử, đi về phía Bắc, tới
rừng Thi-nhiếp-hòa, họ muốn gặp Đức Thế Tôn để lễ bái cúng
dường.
- Đi đến chỗ Phật
ngụ, những người Già-lam ấy hoặc có người lễ bái cúi đầu dưới
chân Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người chào hỏi Đức
Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người chắp tay hướng đến
Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người từ đàng xa thấy Đức
Phật rồi im lặng ngồi xuống.
- Lúc đó, những
người Già-lam đều ngồi yên. Đức Phật thuyết pháp cho họ,
khuyến phát, khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ[08].
Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp, khuyến phát,
khát ngưỡng thành tựu hoan hỷ, Ngài ngồi im lặng.
- Bấy giờ những
người Già-lam sau khi được Đức Phật thuyết pháp, khuyến phát,
khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ, họ đều từ chỗ ngồi đứng dâïy,
sửa áo trịch vai bên hữu, chắp tay đến hướng Đức Phật, rồi
bạch Đức Thế Tôn rằng:
- “Thưa Cù-đàm,
có một vị Sa-môn, Phạm chí đi đến Già-lam chỉ tự khen ngợi tri
kiến của mình mà chê bai tri kiến của người khác. Thưa Cù-đàm,
lại có một vị Sa-môn, Phạm chí đi đến Già-lam cũng chỉ tự khen
ngợi tri kiến của mình mà chê bai tri kiến của kẻ khác. Thưa
Cù-đàm, chúng tôi nghe vậy liền sanh ngờ vực: Những vị Sa-môn,
Phạm chí ấy, vị nào thật? Vị nào hư?”
- Đức Thế Tôn nói
rằng:
- “Này các người
Già-lam, các người chớ sanh lòng ngờ vực. Vì sao vậy? Vì nhân
có ngờ vực liền sanh ra do dự[09].
Này các người Già-lam, các ngươi tự mình không có tịnh trí để
biết có đời sau hay không có đời sau. Này các người Già-lam,
các người cũng không có tịnh trí để biết điều đã làm có tội
hay không có tội. Này các người Già-lam, nên biết các nghiệp
vốn sẵn có ba tập nhân[10].
Những gì là ba? Này các người Già-lam, tham là tập nhân sẵn có
của các nghiệp. Này các người Già-lam, nhuế và si là tập nhân
sẵn có của các nghiệp.
- “Này các người
Già-lam, người có tham bị tham che lấp, tâm không nhàm đủ,
hoặc sát sanh, hoặc lấy của không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc
biết mà nói dối, hoặc lại uống rượu. Này các người Già-lam,
người có nhuế bị nhuế che lấp, tâm không nhàm đủ, hoặc sát
sanh, hoặc lấy của không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc biết mà
nói dối, hoặc lại uống rượu. Này các người Già-lam, người có
si bị si che lấp, tâm không nhàm đủ, hoặc sát sanh, hoặc lấy
của không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc biết mà nói dối, hoặc
lại uống rượu.
- “Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc giết hại, dứt bỏ sự
giết hại, dẹp bỏ dao gậy; có tàm, có quý, có tâm từ bi, làm
lợi ích cho tất cả, cho đến côn trùng. Vị ấy đối với sự sát
sanh, tâm đã trừ sạch.
- “Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc lấy của không cho,
đoạn trừ việc lấy của không cho; vui thích trong việc lấy của
đã cho, thường ưa sự bố thí, vui vẻ không keo kiệt, không mong
người kia đền trả. Vị ấy đối với việc lấy của không cho, tâm
đã trừ sạch.
- “Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc phi phạm hạnh, đoạn
trừ việc phi phạm hạnh; siêng tu phạm hạnh, siêng tu diệu
hạnh, thanh tịnh, không uế, ly dục, đoạn dâm. Vị ấy đối với
việc việc phi phạm hạnh, tâm đã trừ sạch.
- “Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc nói dối, đoạn trừ sự
nói dối; nói lời chân thật, ưa thích sự chân thật, an trụ nơi
chân thật không di động, tất cả những điều vị ấy nói đều đáng
tin, không lừa gạt thế gian. Vị ấy đối với việc nói dối, tâm
đã trừ sạch.
- “Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa sự nói hai lưỡi, đoạn trừ
việc nói hai lưỡi, không phá hoại kẻ khác, không nghe nơi
người này nói lại người kia muốn phá hoại người này, không
nghe nơi người kia nói lại với người này muốn phá hoại người
kia; những người xa lìa nhau thì muốn kết hợp lại, thấy người
kết hợp lại thì vui vẻ, không kết bè đảng, không khen việc kết
bè đảng. Vị ấy đối với việc việc nói hai lưỡi, tâm đã trừ
sạch.
- “Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc nói thô ác, đoạn trừ
việc nói thô ác. Nếu có những lời mà từ khí thô bạo, âm thanh
hung dữ trái tai, mọi người không vui, mọi người không ưa, làm
cho người khác khổ não, làm cho họ không được an ổn, vị ấy
đoạn trừ những lời nói như vậy. Nếu có những lời hòa nhã dịu
dàng, xuôi tai, đi sâu vào lòng người, đáng thích, đáng yêu,
làm cho người kia an lạc, âm thânh vừa đủ rõ ràng, không làm
cho người kia sợ sệt, làm cho người kia được an ổn, vị ấy nói
những lời như vậy. Vị ấy đối với việc nói lời thô ác, tâm đã
tịnh trừ.
- “Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa lời nói thêu dệt[11],
đoạn trừ lời nói thêu dệt; nói đúng lúc, đúng sự thật, nói về
pháp, nói về nghĩa, nói về tịch tĩnh, ưa nói về tịch tĩnh, hợp
việc, hợp thời, thích nghi, khéo dạy dỗ, khéo quở rầy. Vị ấy
đối với việc nói lời thêu dệt, tâm đã tịnh trừ.
- “Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa tham lam, đoạn trừ tham
lam, không ôm lòng não hại, thấy của cải và các nhu cầu sinh
sống của người khác không móng lòng tham lam, muốn cho được
trở về mình. Vị ấy đối với việc tham lam tâm đã tịnh trừ.
- “Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa giận dữ, đoạn trừ giận dữ,
có tàm, có quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến
loài côn trùng. Vị ấy đối với sự giận dữ tâm đã tịnh trừ.
- “Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa tà kiến, đoạn trừ tà kiến,
thực hành chánh kiến, không điên đảo; thấy như vậy, nói như
vậy: ‘Có sự bố thí, có sự trai phước, và cũng có chú thuyết,
có nghiệp thiện ác, có nghiệp báo thiện ác. Có đời này và đời
sau. Có cha, có mẹ, trên đời có những bậc chân nhân đi đến
thiện xứ, khéo vượt qua, khéo hướng đến, trong đời này và đời
sau mà tự tri tự giác, tự tác chứng thành tựu và an trụ. Vị ấy
đối với việc tà kiến, tâm đã tịnh trừ.
- “Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử thành tựu tịnh nghiệp nơi thân,
thành tựu tịnh nghiệp nơi khẩu và ý. Xa lìa nhuế, xa lìa não
hại, trừ bỏ thùy miên, không trạo cử, cống cao, đoạn trừ nghi,
vượt qua mạn, chánh niệm, chánh trí, không có ngu si; tâm vị
ấy tương ứng với từ, biến mãn một phương, thành tựu và an trụ.
Cũng vậy, trong hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng, hạ, cùng
khắp tất cả, tâm tương ứng với từ, không thù, không oán, không
sân nhuế, không não hại, rất rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập,
biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trụ. Cũng vậy, tâm
bi, hỷ; tâm tương ứng với xả, không thù không oán, không sân
nhuế, không não hại, rộng lớn vô lượng, khéo tu tập, biến mãn
tất cả thế gian, thành tựu và an trụ. Cũng vậy, này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không
sân nhuế, không não hại, liền được bốn trụ xứ an ổn[12].
Những gì là bốn?
- “‘Nếu có đời
này đời sau, có quả báo của nghiệp thiện và ác. Khi ta đã được
nghiệp tương ứng với chánh kiến này rồi, ta thọ trì đầy đủ,
thân hoại mạng chung chắc chắn sanh đến thiện xứ cho đến sanh
lên các cõi trời’. Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn
Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân nhuế, không
não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ nhất.
- “Lại nữa, này
các người Già-lam, ‘Nếu không có đời này và đời sau, không có
quả báo của nghiệp thiện và ác. Như vậy, ta ở ngay trong đời
này không phải do cớ ấy mà bị người khác bài bác; nhưng lại
được bậc chánh trí khen ngợi, người tinh tấn, người có chánh
kiến nói là có’. Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh
đệ tử tâm không kết, không oán, không não hại, đó là được trụ
xứ an ổn thứ hai.
- “Lại nữa, này
các người Già-lam, ‘Nếu có tạo tác gì, chắc chắn ta không có
tạo ác, ta không niệm ác. Vì sao vậy? Vì tự mình không tạo ác,
khổ do đâu mà sanh?’ Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn
Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không não hại; đó là trụ
xứ an ổn thứ ba.
- “Lại nữa, này
các người Già-lam, ‘Nếu có tạo tác, chắc chắn ta không tạo ác,
ta không phạm đời sợ hay không sợ, luôn luôn nên thương xót
tất cả thế gian, tâm ta không tranh chấp với tất cả thế gian,
không vẩn đục, nhưng hân hoan’. Như vậy, này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không
não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ tư.
- “Như vậy, này
các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không
oán, không sân hận, không não hại; đó là được bốn trụ xứ an
ổn”.
- Những người
Già-lam bạch Phật:
- “Thưa Cù-đàm,
đúng vậy, Đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không
sân nhuế, không não hại, liền được bốn trụ xứ an ổn. Những gì
là bốn?
- “‘Nếu có đời
này đời sau, có quả báo của nghiệp thiện và ác. Khi ta đã được
nghiệp tương ứng với chánh kiến này rồi, ta thọ trì đầy đủ,
thân hoại mạng chung chắc chắn sanh đến thiện xứ cho đến sanh
lên các cõi trời’. Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử
tâm không kết, không oán, không sân nhuế, không não hại; đó là
trụ xứ an ổn thứ nhất.
- “Lại nữa, thưa
Cù-đàm, ‘Nếu không có đời này và đời sau, không có quả báo của
nghiệp thiện và ác. Như vậy, ta ở ngay trong đời này không
phải do cớ ấy mà bị người khác bài bác; nhưng lại được bậc
chánh trí khen ngợi, người tinh tấn, người có chánh kiến nói
là có’. Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không
kết, không oán, không não hại, đó là được trụ xứ an ổn thứ
hai.
- “Lại nữa, thưa
Cù-đàm, ‘Nếu có tạo tác gì, chắc chắn ta không có tạo ác, ta
không niệm ác. Vì sao vậy? Vì tự mình không tạo ác, khổ do đâu
mà sanh?’ Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không
kết, không oán, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ ba.
- “Lại nữa, thưa
Cù-đàm, ‘Nếu có tạo tác, chắc chắn ta không tạo ác, ta không
phạm đời sợ hay không sợ, luôn luôn nên thương xót tất cả thế
gian, tâm ta không tranh chấp với tất cả thế gian, không vẩn
đục, nhưng hân hoan’. Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử
tâm không kết, không oán, không não hại; đó là trụ xứ an ổn
thứ tư.
- “Như vậy, thưa
Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân
hận, không não hại; đó là được bốn trụ xứ an ổn.
- “Thưa Cù-đàm,
chúng con đã biết. Bạch Thiện Thệ, chúng con đã hiểu. Bạch Thế
Tôn, chúng con trọn đời tự quy y với Phật, Pháp và Chúng
Tỳ-kheo. Duy nguyện Thế Tôn chấp nhận cho chúng con làm
Ưu-bà-tắc, bắt đầu từ hôm nay, trọn đời tự quy y, cho đến lúc
mạng chung”.
- Phật thuyết như
vậy. Tất cả những người Già-lam và các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú
Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: A.III 65 Kesaputtiyā.
-
[02] Già-lam viên. Pāli: Kesaputta nāma Kālāna nigamo, thị trấn của những
người Kālāma tên là Kesaputta, ở Kosala.
-
[03] Ki-xá tử;
Pāli: Kesaputta, xem cht. trên.
-
[04] Thi-nhiếp-hòa
lâm. Pāli: Sisapā.
-
[05] Hán: Thích tông
tộc. Pāli: Sakya-kula.
-
[06] Đạo pháp ngự.
Pāli: Damma-sārathi, Điều ngự trượng phu. Bản Hán đọc là
dhamma-(đạo pháp), thay vì là damma- (huấn luyện, điều ngự).
-
[07] Hán: cụ túc
thanh tịnh hiển hiện phạm hạnh. Pāli: kevala-paripua pari-suddha brahmacariya pakāseti, hiển
bày đời sống phạm hạnh thanh tịnh và hoàn hảo tuyệt đối.
-
[08] Hán: khuyến
phát, khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Pāli:
sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṃsetvā, chỉ bày,
khuyên bảo, khích lệ, làm cho hoan hỷ.
-
[09] Hán: nghi
hoặc... sanh do dự. Pāli: kakhāniye...hāne vicikicchā
uppannā, trong trường hợp nghi hoặc, do dự phát sanh.
-
[10] Hán: tập nhân
bản hữu; bản Pāli không có chi tiết này.
-
[11] Hán: ỷ ngữ.
Pāli: samphappalāpa, hư ngữ, tạp uế ngữ; nói bậy bạ.
-
[12] Hán: an ổn trú
xứ. Pāli: assāsa, sự nghỉ ngơi (lấy lại hơi thở quân
bình), sự bình an.
|