- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 02-
PHẨM NGHIỆP TƯƠNG ƯNG
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại Na-lan-đà[02],
ở xóm Tường, rừng Nại[03].
- Bấy giờ A-tư-la
thiên có người con là Già-di-ni[04],
sắc tướng uy nghi, chói sáng rực rỡ, lúc đêm gần về sáng, đi
đến nơi Đức Phật, cúi lạy dưới chân Phật rồi ngồi sang một
bên.
- Già-di-ni, con
trời A-tư-la bạch Phật rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
các người Phạm chí cao ngạo tự cho ngang bằng trời[05].
Họ cho rằng, nếu có chúng sanh nào mạng chung, họ có thể làm
cho tự do qua lại các thiện xứ, sanh lên cõi trời[06].
Thế Tôn là Pháp chủ, mong Thế Tôn làm cho chúng sanh khi mạng
chung đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời”.
- Thế Tôn bảo
rằng:
- “Này Già-di-ni,
nay ta hỏi ông, tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Này
Già-di-ni, ý ông nghĩ thế nào? Nếu ở trong thôn ấp, hoặc có kẻ
nam, người nữ biếng nhác, không tinh tấn, lại hành ác pháp,
thành tựu mười loại nghiệp đạo bất thiện, là sát sanh, lấy của
không cho, tà dâm, nói dối, cho đến tà kiến. Người ấy khi mạng
chung, nếu có số đông người đến, thảy đều chắp tay hướng về
người đó kêu gọi, van lơn, nói như thế này: ‘Các người, nam
hoặc nữ, biếng nhác, không siêng năng, lại hành ác pháp, thành
tựu mười loại nghiệp đạo bất thiện là sát sanh, lấy của không
cho, tà dâm nói dối, cho đến tà kiến. Các người nhân việc này,
duyên việc này, khi thân hoại mạng chung chắc chắn đi đến
thiện xứ, sanh lên cõi trời’. Như vậy, này Già-di-ni, những
người nam hay nữ biếng nhác kia, không siêng năng, lại hành ác
pháp, thành tựu mười loại nghiệp đạo bất thiện là sát sanh,
lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến tà kiến; có thể
nào vì được số đông người đều đến chắp tay hướng về chúng mà
kêu gọi, van lơn, nhân việc ấy, duyên việc ấy mà lúc thân hoại
mạng chung lại được đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời không?”
- Già-di-ni thưa
rằng:
- “Không thể
được, bạch Thế Tôn”.
- Phật khen rằng:
- “Lành thay,
Già-di-ni, vì sao thế? Những người nam hay nữ kia, biếng nhác,
không siêng năng, lại thực hành ác pháp, thành tựu mười loại
nghiệp đạo bất thiện là sát sanh, lấy của không cho, tà dâm,
nói dối, cho đến tà kiến. Nếu được số đông người đến chắp tay
hướng về chúng, mà kêu gọi, van lơn, nhân việc ấy, duyên việc
ấy khi thân hoại mạng chung lại được đi đến thiện xứ sanh lên
cõi trời. Việc đó không thể có.
- “Này Già-di-ni,
cũng như cách thôn không bao xa, có vực nước sâu, nơi đó có
một người ôm tảng đá lớn và nặng ném vào trong nước. Nếu có số
đông người đến đều chắp tay hướng về tảng đá mà kêu gọi van
lơn, nói như thế này: ‘Mong tảng đá nổi lên, mong tảng đá nổi
lên’. Này Già-di-ni, ông nghĩ thế nào? Tảng đá lớn nặng ấy có
thể nào vì được số đông người đến đều chắp tay hướng về nó và
kêu gọi van lơn, nhân việc đó, duyên việc đó mà sẽ nổi lên
không?”
- Già-di-ni trả
lời rằng:
- “Không thể
được, bạch Thế Tôn!”
- “Cũng vậy, này
Già-di-ni, những người nam hay nữ kia biếng nhác, không tinh
tấn, lại thực hành ác pháp, thành tựu mười loại nghiệp đạo bất
thiện là sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến
tà kiến, nếu được số đông người đều đến chắp tay hướng về
chúng mà kêu gọi, van lơn, nhân việc đó, duyên việc đó mà lúc
thân hoại mạng chung, được đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời;
điều đó không thể có được.
- “Vì sao thế?
Bởi vì mười loại nghiệp đạo bất thiện này vốn đen, có quả báo
đen, tự nhiên đi thẳng xuống, chắc chắn đi đến ác xứ.
- Này Già-di-ni,
ông nghĩ thế nào? Nếu như trong thôn ấp hoặc có người nam hay
nữ, tinh tấn siêng tu, lại thực hành diệu pháp thành tựu mười
nghiệp đạo thiện là xa lìa việc giết, đoạn trừ việc giết, xa
lìa lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến xa lìa tà
kiến, được chánh kiến. Người ấy khi mạng chung nếu có số đông
người đến đều chắp tay hướng về người đó mà kêu gọi van lơn,
nói như thế này: ‘Này các người, nam hoặc nữ, các người đã
tinh tấn siêng tu, lại thực hành diệu pháp, thành tựu mười
nghiệp đạo thiện là xa lìa việc giết, đoạn trừ việc giết, lấy
của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến tà kiến cũng đều xa
lìa, đoạn trừ tà kiến, được chánh kiến. Các người nhân việc
đó, duyên việc đó mà khi thân hoại mạng chung, hãy đi đến ác
xứ, sanh vào địa ngục’. Này Già-di-ni, ông nghĩ thế nào? Các
người nam nữ kia, tinh tấn siêng tu lại thực hành diệu pháp,
thành tựu mười nghiệp đạo thiện là xa lìa việc giết, đoạn trừ
việc giết, lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến tà
kiến, đoạn trừ tà kiến, được chánh kiến. Có thể nào vì bị số
đông người đến chắp tay hướng về người đó mà ca ngợi cầu xin,
nhân việc đó, duyên việc đó, mà khi thân hoại mạng chung sẽ đi
đến ác xứ, sanh vào địa ngục không?”
- Già-di-ni trả
lời rằng:
- “Không thể
được, bạch Thế Tôn!”
- Thế Tôn khen
rằng.
- “Lành thay,
Già-di-ni! Vì sao vậy? Này Già-di-ni, những người nam hay nữ
kia siêng năng tinh tấn, lại thực hành diệu pháp, thành tựu
mười nghiệp thiện đạo là xa lìa việc giết, đoạn trừ việc giết,
lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến tà kiến đều xa
lìa, được chánh kiến. Nếu được số đông người đến chắp tay
hướng về người đó mà kêu gọi van lơn, nhân việc đó, duyên việc
đó mà khi thân hoại mạng chung sẽ đi đến ác xứ, sanh vào địa
ngục. Điều này không thể có. Vì sao vậy? Này Già-di-ni, bởi vì
mười nghiệp đạo thiện là trắng, có quả báo trắng, tự nhiên
thăng lên, chắc chắn đến thiện xứ.
- “Này Già-di-ni,
cũng như cách thôn không xa có vực nước sâu, nơi đó có người
đem hủ dầu ném vào nước; hủ bị vỡ, sành cặn chìm xuống, dầu bơ
nổi lên trên. Cũng vậy, này Già-di-ni, những người nam hay nữ
kia tinh tấn siêng tu, lại thực hành diệu pháp, thành tựu mười
nghiệp đạo thiện là xa lìa việc giết, đoạn trừ việc giết, lấy
của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến xa lìa tà kiến, đoạn
trừ tà kiến, được chánh kiến. Người ấy khi mạng chung, thân
thể là sắc thô nặng, thuộc về bốn đại, do cha mẹ sanh, nuôi
lớn bằng cơm áo, chống dựa khi ngồi nằm, chăm sóc bằng tắm
gội, là pháp phá hoại, là pháp diệt tận, là pháp ly tán. Sau
khi mạng chung, hoặc chim quạ rỉa mổ, hoặc hùm sói ăn, hoặc bị
đốt, hoặc bị chôn. Tất cả trở thành cát bụi. Tâm ý thức của
người ấy thường được huân tập bởi tín, tinh tấn, đa văn, bố
thí, trí tuệ. Người ấy, nhân việc ấy, duyên việc ấy mà tự
nhiên thăng lên cao, sanh đến thiện xứ.
- “Này Già-di-ni,
người ấy đối với việc sát sanh, đã xa lìa việc giết, đoạn trừ
việc giết. Đó là con đường vườn hoa[07],
con đường thăng tấn, con đường thiện xứ.
- “Này Già-di-ni,
cũng vậy đối với sự lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho
đến tà kiến, xa lìa tà kiến, được chánh kiến. Đó là con đường
vườn hoa, con đường thăng tấn, con đường thiện xứ.
- “Này Già-di-ni,
lại có con đường vườn hoa, con đường thăng tấn, con đường
thiện xứ. Thế nào là lại có con đường vườn hoa, con đường
thăng tấn, con đường thiện xứ? Đó là tám chi thánh đạo. Từ
chánh kiến cho đến chánh định; đó là tám. Này Già-di-ni, đó là
lại có con đường vườn hoa, con đường thăng tấn, con đường
thiện xứ”.
- Đức Phật thuyết
như vậy. Già-di-ni và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết,
hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: S.2.4.6. Pacchabhūmana-sutta (người phương Tây) hay
Mataka-sutta (người đã chết). Chi tiết này không phù hợp với
Pāli.
-
[02] Bản Cao-li:
Na-nan-đà viên; Tống-Nguyên-Minh: Na-nan-đà quốc; Pāli: Nālandā, một thị trấn gần Rāhagaha.
-
[03] Tường thôn Nại
lâm. Pāli: Pāvarika-ambavana, là một vườn xoài của
Pavārika, một phú hào người Kosambi. Trong vườn xoài tại thị
trấn Nālanda, ông dựng một tịnh xá cúng dường Phật.
-
[04] Hán: A-tư-la
thiên–Già-di-ni. Pāli: Asibandakaputta-Gāmai, thôn trưởng Asibandakaputta. Bản Hán
hiểu gāmai (thôn trưởng) là từ riêng.
-
[05] Hán: sự nhược
can thiên.
-
[06] Bản Pāli nói,
theo tập quán các Bà-la-môn phương Đông (Pacchābhūmaka), nếu
có những người chết họ chỉ cần gọi tên là những người này được
sanh lên cõi trời.
-
[07] Hán: viên quán
chi đạo, có lẽ uyyāna (Pāli, vườn hoa) được do gốc
động từ uyyāti: xuất phát. Sanskrti: udyāna: vườn hoa, cũng có
nghĩa “tiên lên” (ud + YĀ).
-
|