- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 02-
PHẨM NGHIỆP TƯƠNG ƯNG
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại Thích-ki-sấu[02],
trong Thiên ấp[03].
- Bấy giờ Đức Thế
Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
- “Các Ni-kiền[04]
thấy như vậy, nói như vậy: ‘Những gì mà con người cảm thọ[05]
đều do nhân đã tạo tác từ trước[06].
Nếu những nghiệp cũ của chúng do nhân khổ hạnh mà diệt và
không tạo tác cái mới nữa, thì các nghiệp ấy dứt sạch. Các
nghiệp đã dứt sạch thì các khổ được dứt sạch. Các khổ đã được
dứt sạch thì đã đạt đến khổ biên[07]’.
- “Ta liền đến
các vị ấy; đến rồi liền hỏi:
- “– Này các
Ni-kiền, phải chăng các vị thấy như vầy, nói như vầy: ‘Những
gì mà con người cảm thọ đều do nhân đã tạo tác từ trước. Nếu
những nghiệp cũ của chúng do nhân khổ hạnh mà diệt và không
tạo tác cái mới nữa, thì các nghiệp ấy dứt sạch. Các nghiệp đã
dứt sạch thì các khổ được dứt sạch. Các khổ đã được dứt sạch
thì đã đạt đến khổ biên?’
- “Họ trả lời
rằng:
- “– Đúng như
vậy, Cù-đàm.
- “Ta lại hỏi các
vị Ni-kiền kia rằng:
- “– Các vị tự có
tịnh trí hay không, để biết rằng, trước kia ta có hay không
có? Trước kia ta tạo ác hay không tạo ác? Ta chừng ấy khổ đã
diệt tận, hay chừng ấy khổ chưa diệt tận; và nếu đã diệt tận
thì sẽ được đã diệt tận vĩnh viễn[08]?
Chính ngay trong đời này mà đoạn các pháp bất thiện và tạo tác
các thiện pháp, tu tập và tác chứng chăng?’
- “Họ trả lời
rằng:
- “– Không phải
vậy, Cù-đàm!
- “Ta lại hỏi các
Ni-kiền kia rằng:
- “– Các vị tự
mình không có tịnh trí để biết rằng: ‘Trước kia ta có hay
không có? Trước kia ta tạo ác hay không tạo ác? Ta chừng ấy
khổ đã diệt tận, hay chừng ấy khổ chưa diệt tận; và nếu đã
diệt tận thì sẽ được đã diệt tận vĩnh viễn? Chính ngay trong
đời này mà đoạn các pháp bất thiện và tạo tác các thiện pháp,
tu tập và tác chứng chăng?’ Nhưng các vị lại nói rằng: ‘Những
gì mà con người cảm thọ đều do nhân đã tạo tác từ trước. Nếu
những nghiệp cũ của chúng do nhân khổ hạnh mà diệt và không
tạo tác cái mới nữa, thì các nghiệp ấy dứt sạch. Các nghiệp đã
dứt sạch thì các khổ được dứt sạch. Các khổ đã được dứt sạch
thì đã đạt đến khổ biên’.
- “– Này các vị
Ni-kiền, nếu các vị tự có tịnh trí để biết rằng: ‘Trước kia ta
có hay không có? Trước kia ta tạo ác hay không tạo ác? Ta
chừng ấy khổ đã diệt tận, hay chừng ấy khổ chưa diệt tận; và
nếu đã diệt tận thì sẽ được đã diệt tận vĩnh viễn? Chính ngay
trong đời này mà đoạn các pháp bất thiện và tạo tác các thiện
pháp, tu tập và tác chứng chăng?’ Thì này các Ni-kiền, các vị
mới có thể nói như vầy: ‘Những gì mà con người cảm thọ đều do
nhân đã tạo tác từ trước. Nếu những nghiệp cũ của chúng do
nhân khổ hạnh mà diệt và không tạo tác cái mới nữa, thì các
nghiệp ấy dứt sạch. Các nghiệp đã dứt sạch thì các khổ được
dứt sạch. Các khổ đã được dứt sạch thì đã đạt đến khổ biên’.
- “– Này Ni-kiền,
cũng như có người mà thân thể bị trúng tên độc. Vì trúng tên
độc nên rất đau đớn. Người ấy được quyến thuộc yêu mến xót
thương, muốn đem lại sự thiện ích, an ổn, nên lập tức mời vị y
sư nhổ tên đến[09].
Vị y sư liền lấy dao bén để giải phẫu vết thương; do sự phẫu
thuật vết thương nên lại rất đau đớn. Sau khi giải phẫu vết
thương, liền tìm mũi tên[10];
khi tìm mũi tên, lại càng rất đau đớn. Tìm được mũi tên, liền
lập tức nhổ ra; lúc nhổ ra y lại càng đau đớn thêm. Nhổ mũi
tên ra rồi, đậy vết thương lại và băng bó. Khi băng bó vết
thương, lại càng đau đớn hơn. Sau khi nhổ được mũi tên ra,
người ấy khỏe mạnh, không bệnh hoạn, các căn không hư hoại,
bình phục như cũ.
- “– Này các
Ni-kiền, người ấy có sẵn khôn ngoan nên liền suy nghĩ như vầy:
‘Ta trước kia bị trúng tên độc. Vì trúng tên độc nên rất đau
đớn. Ta được quyến thuộc yêu mến xót thương, muốn đem lại sự
thiện ích, an ổn, nên lập tức mời vị y sư nhổ tên đến. Vị y sư
liền lấy dao bén để giải phẫu vết thương; do sự phẫu thuật vết
thương nên lại rất đau đớn. Sau khi giải phẫu vết thương, liền
tìm mũi tên; khi tìm mũi tên, lại càng rất đau đớn. Tìm được
mũi tên, liền lập tức nhổ ra; lúc nhổ ra lại càng đau đớn
thêm. Nhổ mũi tên ra rồi, đậy vết thương lại và băng bó. Khi
băng bó vết thương, lại càng đau đớn hơn. Ta sau khi mổ mũi
tên ra rồi, được khỏe mạnh, không bệnh hoạn, các căn không hư
hoại, trở lại bình thường như cũ’.
- “– Cũng vậy,
này Ni-kiền, nếu các vị có tịnh trí, vậy có biết rằng: ‘Trước
kia ta có hay không có, trước kia ta tạo ác hay không tạo ác?
Ta bị chừng ấy khổ là hết hay bị chừng ấy khổ vẫn chưa hết.
Nếu hết rồi sẽ được hết khổ vĩnh viễn? Chính ngay trong đời
này mà đoạn các pháp bất thiện và tạo được các thiện pháp tu
tập và tác chứng chăng?’ Thì này các Ni-kiền, các vị mới có
thể nói rằng: ‘Những gì mà con người cảm thọ đều do nhân đã
tạo tác từ trước. Nếu những nghiệp cũ của chúng do nhân khổ
hạnh diệt mà không tạo nghiệp mới nữa, thì các nghiệp ấy sẽ
chấm dứt. Các nghiệp đã chấm dứt thì các khổ sẽ chấm dứt, các
khổ đã được chấm dứt thì đã đạt đến khổ biên’.
- “Ta hỏi như vậy
mà không thấy các Ni-kiền có thể trả lời Ta rằng: ‘Này Cù-đàm,
đúng như vậy’ hay ‘không đúng như vậy’.
- “Lại nữa, Ta
hỏi các Ni-kiền rằng:
- “– Nếu các vị
Ni-kiền có sự tinh cần bậc thượng, có sự khổ hành bậc thượng[11];
bấy giờ các Ni-kiền có phát sanh sự khổ bậc thượng[12]
chăng?
- “Họ trả lời Ta
rằng:
- “– Đúng vậy,
Cù-đàm.
- “– Nếu có sự
tinh cần bậc trung, có sự khổ hành bậc trung; bấy giờ các
Ni-kiền có phát sanh sự khổ bậc trung chăng?
- “Họ trả lời Ta
rằng:
- “– Đúng vậy,
Cù-đàm.
- “– Nếu có sự
tinh cần bậc hạ, có sự khổ hành bậc hạ; bấy giờ các Ni-kiền có
phát sanh sự khổ bậc hạ chăng?
- “Họ trả lời Ta
rằng:
- “– Đúng vậy,
Cù-đàm.
- “– Như vậy là,
nếu các vị Ni-kiền có sự tinh cần bậc thượng, có sự khổ hành
bậc thượng; bấy giờ các Ni-kiền có phát sanh sự khổ bậc
thượng. Nếu có sự tinh cần bậc trung, có sự khổ hành bậc
trung; bấy giờ các Ni-kiền có phát sanh sự khổ bậc trung. Nếu
có sự tinh cần bậc hạ, có sự khổ hành bậc hạï; bấy giờ các
Ni-kiền có phát sanh sự khổ bậc hạ.
- “Nếu giả sử các
Ni-kiền có sự tinh cần bậc thượng và khổ hành bậc thượng, bấy
giờ các Ni-kiền ấy dập tắt sự khổ bậc thượng. Có sự tinh cần
bậc trung và khổ hành bậc trung, bấy giờ các Ni-kiền ấy dập
tắt sự khổ bậc trung. Có sự tinh cần bậc hạ và khổ hành bậc
hạ, bấy giờ các Ni-kiền ấy dập tắt sự khổ bậc hạ. Hoặc làm như
vậy, hoặc không làm như vậy, mà dập tắt khổ cùng cực và các
nỗi khổ rất nặng nề, thì nên biết các Ni-kiền ngay trong đời
này mà gây ra khổ. Nhưng các Ni-kiền bị si mê che lấp, bị si
mê trói buộc, nên nói thế này: ‘Những gì mà con người cảm thọ
đều do nhân đã tạo tác từ trước. Nếu những nghiệp cũ của chúng
do nhân khổ hạnh diệt mà không tạo nghiệp mới nữa, thì các
nghiệp ấy sẽ chấm dứt. Các nghiệp đã chấm dứt thì các khổ sẽ
chấm dứt, các khổ đã được chấm dứt thì đã đạt đến khổ biên’.
- “Ta hỏi như vậy
mà không thấy các Ni-kiền có thể trả lời Ta rằng: ‘Này Cù-đàm,
đúng như vậy’ hay ‘không đúng như vậy’.
- “Lại nữa, Ta
hỏi các Ni-kiền rằng:
- “– Các vị
Ni-kiền, nếu có nghiệp mang lại lạc báo[13]
thì nghiệp ấy có thể nào nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hành
mà chuyển thành khổ báo chăng? Họ trả lời Ta rằng:
- “– Không thể,
thưa Cù-đàm!
- “– Các vị
Ni-kiền, nếu có nghiệp mang lại khổ báo[14]
thì nghiệp ấy có thể nào nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh
mà chuyển thành lạc báo chăng?
- “Họ trả lời Ta
rằng:
- “– Không thể,
thưa Cù-đàm!
- “– Các vị
Ni-kiền, nếu có nghiệp báo trong đời hiện tại[15],
thì nghiệp ấy có thể nào nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hành
ấy mà chuyển thành quả báo đời sau chăng?
- “Họ trả lời Ta
rằng:
- “– Không thể,
thưa Cù-đàm!
- “– Các vị
Ni-kiền, nếu có nghiệp báo đời sau[16]
thì nghiệp ấy có thể nào nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hành
mà chuyển thành quả báo đời hiện tại chăng?
- “Họ trả lời Ta
rằng:
- “– Không thể,
thưa Cù-đàm!
- “– Các vị
Ni-kiền, nếu có nghiệp báo không chín[17],
nghiệp ấy có thể nào nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh mà
chuyển thành quả báo chín[18]
chăng?
- “Họ trả lời Ta
rằng:
- “– Không thể,
thưa Cù-đàm!
- “– Các vị
Ni-kiền, đó là lạc nghiệp báo, nghiệp ấy không thể nhân sự
tinh cần và nhân sự khổ hành, mà chuyển thành khổ báo được.
Này các Ni-kiền, khổ báo nghiệp; nghiệp ấy không thể nhân sự
tinh cần hay nhân sự khổ hành mà chuyển thành lạc báo được.
Này các Ni-kiền, hiện báo nghiệp; nghiệp ấy không thể nhân sự
tinh tấn và nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành hậu báo được. Này
các Ni-kiền, sanh nghiệp báo; nghiệp ấy không thể nhân sự tinh
cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành hiện báo được. Này các
Ni-kiền, nghiệp không chín, nghiệp ấy không thể nhân sự tinh
cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành quả báo chín. Này các
Ni-kiền, nghiệp báo chín; nghiệp ấy không thể nhân sự tinh cần
và nhân sự khổ hạnh mà chuyển đổi thành khác đi được. Vì vậy,
này các Ni-kiền, sự nỗ lực của quý vị là hư vọng[19],
sự tinh cần ấy là trống rỗng, chẳng đạt được gì cả[20].
- “Các Ni-kiền ấy
liền trả lời Ta rằng:
- “Thưa Cù-đàm,
chúng tôi có tôn sư tên là Thân Tử Ni-kiền[21]
có nói thế này: ‘Các Ni-kiền, nếu các ngươi trước kia đã tạo
tác ác nghiệp; những nghiệp ấy đều có thể nhân sự khổ hành này
mà bị diệt tận. Nếu nay hộ trì thân, khẩu, ý; nhân đó không
còn tạo ác nghiệp nữa’.
- “Ta lại hỏi các
Ni-kiền kia rằng:
- “– Các vị tin
tôn sư Thân Tử Ni-kiền, mà không chút nghi ngờ sao?
- “Họ trả lời ta
rằng:
- “– Cù-đàm,
chúng tôi tin tôn sư Thân Tử Ni-kiền, không hề có nghi hoặc.
- “Ta lại hỏi các
Ni-kiền kia rằng:
- “– Có năm pháp
đem lại hai quả báo trong đời này. Đó là tín, lạc, văn, niệm,
kiến thiện quán[22].
Các Ni-kiền, có phải chăng người ta tự có sự hư dối mà nói
rằng: ‘Điều này đáng tin, đáng nghe theo, đáng suy ngẫm, đáng
chiêm nghiệm kỹ[23]?’
Họ trả lời Ta rằng:
- “– Đúng như
vậy, thưa Cù-đàm!
- “Ta lại bảo các
Ni-kiền kia rằng:
- “– Đó là lời
dối trá, sao đáng tin, sao đáng nghe theo, sao đáng suy ngẫm,
sao đáng chiêm nghiệm? Nghĩa là, người ta tự có sự hư dối mà
nói rằng: ‘Điều này đáng tin, đáng nghe theo, đáng suy ngẫm,
đáng chiêm nghiệm kỹ’.
- “Nếu các
Ni-kiền nói như thế thì đối với pháp như thật có năm điều đáng
khiển trách[24],
chất vấn, là đáng ghê tởm[25].
Những gì là năm?
- “Nay những điều
khổ, lạc mà chúng sanh này cảm thọ đều do sự tạo tác trước kia[26]
Nếu đúng như vậy thì các Ni-kiền trước kia tạo các ác nghiệp.
Bởi thế nên nay các Ni-kiền phải thọ khổ cực trọng đại. Đó là
điều đáng ghê tởm thứ nhất của các Ni-kiền.
- “Lại nữa, chúng
sanh lãnh thọ sự khổ vui đều do sự hội hợp[27].
Nếu đúng như vậy thì các vị vốn hội hợp các điều ác. Bởi thế
nên nay các Ni-kiền phải thọ khổ cực trọng đại. Đó là điều
đáng ghê tởm thứ hai của các Ni-kiền.
- “Lại nữa, chúng
sanh lãnh thọ sự khổ vui đều do định mạng[28].
Nếu đúng như vậy thì các Ni-kiền có định mạng ác. Bởi vậy cho
nên nay các Ni-kiền phải thọ khổ cực trọng đại. Đó là điều
đáng ghê tởm thứ ba của các Ni-kiền.
- “Lại nữa, chúng
sanh lãnh thọ sự khổ vui đều do kiến[29].
Nếu đúng như vậy thì các Ni-kiền vốn có ác kiến. Bởi vậy cho
nên nay các Ni-kiền phải thọ khổ cực trọng đại. Đó là điều
đáng ghê tởm thứ tư của các Ni-kiền.
- “Lại nữa, chúng
sanh lãnh thọ sự khổ vui đều do Tôn hựu tạo[30].
Nếu đúng như vậy thì các Ni-kiền vốn có một Tôn hựu hung ác.
Bởi vậy cho nên nay các Ni-kiền phải thọ khổ cùng cực. Đó là
điều đáng ghê tởm thứ năm của các Ni-kiền.
- “Nếu các
Ni-kiền vốn do tạo tác nghiệp ác hội hợp, ác định mạng, ác
kiến, ác Tôn hựu, vì thế mà các Ni-kiền nay phải lãnh thọ khổ
cực trọng đại. Đó là vì những việc ấy nên các Ni-kiền là những
người đáng ghê tởm.
- “Pháp mà ta tự
tri, tự giác và nói cho các vị, dù là Sa-môn, Phạm chí, hoặc
Thiên, Ma, Phạm và những kẻ khác trên thế gian đều không thể
hàng phục được, đều không thể chế ngự được.
- “Thế nào là
pháp mà ta tự tri, tự giác và nói cho các vị, không thể bị
Sa-môn, Phạm chí, hoặc Thiên, Ma, Phạm và những kẻ khác trên
thế gian có thể khuất phục được? Có thể làm cho ô uế được, và
có thể chế ngự được?
- “Nếu có Tỳ-kheo
xả bỏ thân nghiệp bất thiện để tu thiện nghiệp nơi thân; xả bỏ
khẩu, ý nghiệp bất thiện, tu thiện nghiệp nơi khẩu, ý. Vị đó
đối với sự khổ đời vị lai liền tự biết ta không có khổ đời vị
lai, được sự an lạc như pháp mà không xả bỏ[31].
Vị ấy hoặc muốn đoạn trừ đối với nguyên nhân của khổ do sự tập
hành bằng dục, hoặc muốn nỗ lực đoạn trừ đối với nguyên nhân
của khổ do sự tập hành bằng xả dục[32].
Vị ấy nếu muốn nỗ lực đoạn trừ đối với nguyên nhân của khổ do
tập hành bằng dục, vị ấy tu tập sự tập hành bởi dục ấy[33]
và sau khi đã nỗ lực thành tựu[34],
sự khổ liền chấm dứt. Vị ấy nếu muốn đoạn trừ đối với nguyên
nhân của khổ bằng sự tập hành bởi xả dục, tức tu tập sự tập
hành bởi xả dục ấy, và sau khi nỗ lực đã thành tựu, sự khổ
liền chấm dứt.
- “Bấy giờ nếu
Tỳ-kheo ấy suy nghĩ như thế này: ‘Tùy theo sự tạo tác, tùy
theo sự thực hành mà pháp bất thiện sanh khởi, thiện pháp bị
tiêu diệt. Nếu tự tinh cần khổ hạnh[35]
mà pháp bất thiện bị tiêu diệt, thiện pháp sinh khởi, thì ta
hãy tự tinh cần khổ hạnh ấy[36]’.
Rồi vị ấy tự tinh cần khổ hạnh. Sau khi đã tinh cần khổ hạnh,
pháp bất thiện bị tiêu diệt, thiện pháp sanh khởi. Bấy giờ vị
ấy không còn tinh cần khổ hạnh nữa. Vì sao thế? Này các
Tỳ-kheo, những gì cần phải làm trước đó, nay mục đích đã thành
tựu, nếu còn tinh cần khổ hạnh, việc ấy không xảy ra.
- “Này Tỳ-kheo,
cũng như người thợ làm tên, dùng kềm để uốn tên[37].
Khi cây tên đã thẳng thì không còn dùng kềm nữa. Vì sao thế?
Vì việc phải làm trước đó nay đã xong rồi, nếu còn dùng kềm
nữa, việc ấy không đúng.
- “Cũng vậy,
Tỳ-kheo suy nghĩ như thế này: ‘Tùy theo sự tạo tác, tùy theo
sự thực hành mà pháp bất thiện sanh khởi, thiện pháp bị tiêu
diệt. Nếu tự tinh cần khổ hạnh mà pháp bất thiện bị tiêu diệt,
thiện pháp sinh khởi, thì ta hãy tự tinh cần khổ hạnh ấy’. Rồi
vị ấy tự tinh cần khổ hạnh. Sau khi đã tinh cần khổ hạnh, pháp
bất thiện bị tiêu diệt, thiện pháp sanh khởi. Bấy giờ vị ấy
không còn tinh cần khổ hạnh nữa. Vì sao thế? Này các Tỳ-kheo,
những gì cần phải làm trước đó, nay mục đích đã thành tựu, nếu
còn tinh cần khổ hạnh việc ấy không đúng.
- “Này Tỳ-kheo,
cũng như có người thương nhớ, say đắm, trông chờ săn đón một
người nữ kia, nhưng người nữ ấy lại nói chuyện với một người
khác, thăm hỏi lẫn nhau, qua lại chung chạ. Người ấy do đó mà
thân tâm phát sinh khổ não, buồn rầu không?”
- Tỳ-kheo đáp:
- “Thật như vậy,
bạch Thế Tôn!”
- “Vì sao thế? Vì
người kia thương nhớ say đắm và hết sức trông chờ săn đón nữ
nhân mà nữ nhân ấy lại nói chuyện với người khác, thăm hỏi lẫn
nhau, qua lại chung chạ, thân tâm người ấy làm sao khỏi sanh
ra khổ não buồn rầu.
- “Này Tỳ-kheo,
giả sử người kia suy nghĩ thế này: Ta thương nhớ săn đón suông
người nữ kia, nhưng người nữ ấy lại nói chuyện với người khác,
thăm hỏi lẫn nhau, qua lại chung chạ. Nay ta có nên vì việc ấy
tự gây khổ não và tự gây ưu phiền mà dứt trừ sự thương nhớ say
đắm người nữ kia chăng?’ Người ấy sau đó vì sự tự gây khổ, tự
gây sầu não liền dứt trừ sự thương nhớ say đắm người nữ ấy?
Nếu người nữ kia vẫn còn nói chuyện với người khác, thăm hỏi
lẫn nhau, qua lại chung chạ, người ấy sau đó có thể nào sẽ còn
sanh ra khổ não, rất buồn rầu chăng?”
- Tỳ-kheo đáp:
- “Không còn nữa,
bạch Thế Tôn”.
- “Vì sao thế? Vì
người ấy đối với nữ nhân kia không còn tình thương nhớ say đắm
nữa. Giả sử nữ nhân kia vẫn còn nói chuyện với người khác,
thăm hỏi lẫn nhau, qua lại chung chạ; nếu cho rằng người kia
vì thế mà thân tâm lại còn sanh khởi khổ não, rất buồn rầu,
điều ấy không đúng.
- “Cũng thế, bấy
giờ Tỳ-kheo suy nghĩ thế này: ‘Tùy theo sự tạo tác, tùy theo
sự thực hành mà pháp bất thiện sanh khởi, thiện pháp bị tiêu
diệt. Nếu tự tinh cần khổ hạnh mà pháp bất thiện bị tiêu diệt,
thiện pháp sinh khởi, thì ta hãy tự tinh cần khổ hạnh ấy’. Rồi
vị ấy tự tinh cần khổ hạnh. Sau khi đã tinh cần khổ hạnh, pháp
bất thiện bị tiêu diệt, thiện pháp sanh khởi. Bấy giờ vị ấy
không còn tinh cần khổ hạnh nữa. Vì sao thế? Này các Tỳ-kheo
những gì cần phải làm trước đó, nay mục đích đã thành tựu, nếu
còn tinh cần khổ hạnh việc ấy không đúng.
- “Vị ấy lại nghĩ
như thế này: ‘Nếu có những nguyên nhân để đoạn trừ các khổ não
kia, ta liền đã đoạn trừ rồi, nhưng đối với dục ta vẫn còn như
cũ chớ chưa đoạn được. Nay ta hãy tìm cách đoạn được dục. Vị
ấy vì để đoạn dục, bèn sống cô đôïc, ẩn dật nơi rừng vắng,
hoặc đến dưới bóng cây, nơi vắng vẻ, sườn núi, động đá, đất
trống, lùm cây, hoặc đi vào rừng sâu, hoặc ở giữa bãi tha ma.
Khi vị ấy đã sống nơi rừng vắng rồi, hoặc là đến dưới bóng
cây, nơi vắng vẻ yên lặng, trải Ni-sư-đàn, ngồi kiết già, dựng
thân ngay thẳng, phản tỉnh không hướng ý niệm ra ngoài[38]
đoạn trừ tham lam[39],
tâm không còn não hại[40];
thấy của cải và tư cụ sinh sống của người khác, không còn móng
khởi tham lam, muốn sao cho được về mình. Vị ấy đối với tham
lam đã tịnh trừ tâm ý. Cũng vậy, đối với sân nhuế, tùy miên,
trạo hối, đoạn trừ nghi, vượt qua hoặc, không còn do dự đối
với các thiện pháp, vị ấy đối với nghi đã tịnh trừ tâm ý.
- “Vị ấy đã đoạn
trừ năm triền cái[41]
vốn làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, ly dục, ly ác bất thiện pháp,
cho đến chứng đệ Tứ thiền, thành tựu và an trụ.
- “Vị ấy đạt được
tịnh tâm thanh tịnh, không nhơ uế và không phiền nhọc như vậy,
nhu nhuyến và khéo léo an trụ, chứng đắc tâm bất động, hướng
thẳng đến lậu tận trí thông. Vị ấy biết như thật rằng: ‘Đây là
Khổ’, ‘đây là Khổ tập’, ‘đây là Khổ diệt’, và biết như thật
‘đây là Khổ diệt đạo’. Cũng biết như thật rằng: Đây là lậu,
đây là lậu tập, đây là lậâu diệt, biết như thật đây là lậu
diệt đạo. Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy thì tâm giải thoát
khỏi dục lậu, hữu lậu, tâm giải thoát vô minh lậu. Giải thoát
rồi liền biết là giải thoát, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã
hết, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn
tái sanh nữa’.
- “Đức Như Lai
với chánh tâm giải thoát như vậy thành tựu được năm điều tán
thán như pháp, không tranh cãi, khả ái, khả kính. Những gì là
năm?
- “Chúng sanh kia
thọ lãnh khổ vui đều do sự tạo tác trước kia. Nếu đúng như vậy
thì Như Lai vốn có nghiệp vi diệu từ trước. Bởi vậy nên nay
Như Lai mới có sự an lạc vô lậu của Bậc Thánh, tịch tịnh, tĩnh
chỉ, cảm thọ lạc. Đó là điều xưng tán thứ nhất mà Như Lai đạt
được.
- “Lại nữa, chúng
sanh thọ lãnh khổ vui đều do hiệp hội. Nếu đúng như vậy thì
Như Lai vốn có sự nghiệp hội vi diệu. Bởi vậy, nên nay Như Lai
mới có sự hiệp hội vi diệu, sự an lạc vô lậu của Bậc Thánh,
tịch tịnh, tĩnh chỉ, cảm thọ lạc. Đó là điều xưng tán thứ hai
mà Đức Như Lai đạt được.
- “Lại nữa, chúng
sanh thọ lãnh khổ vui đều do định mạng. Nếu đúng như vậy thì
Như Lai vốn có định mạng vi diệu. Bởi vậy, nên nay Như Lai mới
có sự an lạc vô lậu của Bậc Thánh, tịch tịnh, tĩnh chỉ, cảm
thọ lạc. Đó là điều xưng tán thứ ba mà Đức Như Lai đạt được.
- “Lại nữa, chúng
sanh thọ lãnh khổ vui đều do kiến. Nếu đúng như vậy thì Như
Lai vốn có kiến vị diệu. Bởi vậy, nên nay Như Lai mới có sự an
lạc vô lậu của Bậc Thánh, tịch tịnh, tĩnh chỉ, cảm thọ lạc. Đó
là điều xưng tán thứ tư mà Đức Như Lai đạt được.
- “Lại nữa, chúng
sanh thọ lãnh khổ vui đều do Đấng Tôn Hựu tạo tác. Nếu đúng
như vậy thì Như Lai vốn có Tôn Hựu vi diệu. Bởi vậy, nên nay
Như Lai mới có sự an lạc vô lậu của bậc Thánh, tịch tịnh, tĩnh
chỉ, cảm thọ lạc. Đó là điều xưng tán thứ năm mà Đức Như Lai
đạt được.
- “Đó là Như Lai
vốn có từ trước nghiệp vi diệu, sự hội họp vi diệu, định mạng
vi diệu, kiến vi diệu và Tôn Hựu vi diệu và tạo tác vi diệu
của Tôn Hựu. Do đó mà Như Lai được năm điều tán thán.
- “Có năm nhân
duyên làm cho tâm sanh ưu khổ. Những gì là năm? Đó là dâm dục
triền, do dâm dục quấn chặt nên tâm sanh ưu khổ. Cũng vậy, đối
với sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi hoặc. Do nghi hoặc
quấn chặt, nên tâm sanh ưu khổ. Đó là năm nhân duyên làm tâm
sanh ưu khổ.
- “Có năm nhân
duyên để tâm diệt ưu khổ. Những gì là năm? Như do dâm dục
triền nên tâm sinh ưu khổ, trừ dâm dục triền rồi thì ưu khổ
liền bị tiêu diệt. Vì dâm dục triền nên tâm sanh ra ưu khổ,
ngay trong đời hiện tại mà chứng đắc cứu cánh, không phiền,
không nhiệt và thường trụ bất biến; đó là sở tri của bậc
Thánh, sở kiến của bậc Thánh. Cũng vậy, với sân nhuế, thùy
miên, nghi hoặc triền; do nghi hoặc quấn chặt nên tâm sanh ra
ưu khổ. Nếu trừ được nghi hoặc triền rồi thì ưu khổ liền bị
tiêu diệt. Vì nghi hoặc quấn chặt nên tâm sanh ra ưu khổ,
trong đời hiện tại mà chứng đắc cứu cánh, không phiền, không
nhiệt, thường trụ bất biến. Đó là sở tri của Bậc Thánh, sở
kiến của Bậc Thánh. Ấy là năm nhân duyên để tâm diệt trừ ưu
khổ.
- “Lại nữa, còn
có pháp khác ngay trong đời hiện tại mà chứng đắc cứu cánh,
không phiền, không nhiệt, thường trụ và bất biến, là sở tri
của bậc Thánh, là sở kiến của bậc Thánh. Thế nào là còn có
pháp khác ngay trong đời hiện tại mà chứng đắc cứu cánh không
phiền, không nhiệt, thường trụ và bất biến, là sở tri của bậc
Thánh, sở kiến của Bậc Thánh? Đó là tám chi thánh đạo, tức từ
chánh kiến đến chánh định. Ấy là còn có pháp ngay trong đời
hiện tại mà chứng đắc cứu cánh, không phiền, không nhiệt,
thường trú và bất biến, là sở tri của Bậc Thánh, sở kiến của
bậc Thánh.
- Phật thuyết như
vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: M.101. Devadaha-sutta.
-
[02] Thích-ki-sấu,
xem cht.192, kinh số 12.
-
[03] Thiên ấp,
sinh quán thân mẫu của Đức Thích Tôn; vườn Lâm-tỳ-ni cũng gần
đó. Pāli: Devadaha nāma Sakyāna nigamo, trong một tụ lạc tên
là Devadaha (Thiên tí, cánh tay trời) của người họ Thích.
-
[04] Ni-kiền, Pāli:
Nigaha, xem chú thích? Bản Pāli: santi... eke samaabrāhmaā
evavādino evadihino... evavādino... Nigahā, “Có một số
Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương như vầy, kiến giải như vầy...
Những người Nigantha chủ trương như vậy”.
-
[05] Pāli: ya
kiñcāya purisapuggalo paisavedeti sukha vā dukkha vā
adukkham asukha vā, những gì mà con người cảm thọ như khổ,
lạc, phi khổ phi lạc.
-
[06] Nhân bổn tác. Pāli: pubbekatahetu, nguyên nhân được làm đời trước.
-
[07] Pāli:
dukkhakkhayā vedanākkhayo; vedanākkhayā sabba dukkha
nijjia bhavisatī ti, “do khổ diệt tận nên thọ diệt tận; do
thọ diệt tận nên hết thảy khổ tuyệt diệt”.
-
[08] Hán: nhược tận
dĩ, tiện đắc tận. Với sự diệt tận khổ mức độ như
thế này, tất cả khổ sẽ được diệt tận.
-
[09] Hán: bạt tiễn
kim y. Pāli: bhisakko sallakatto, y sĩ nhổ tên, hay y
sĩ giải phẫu.
-
[10] Hán: tiễn kim.
-
[11] Hán: thượng đoạn
thượng khổ hành, đoạn ở đây được hiểu là tinh cần.
Pāli: tibbo uppakkamo, tibba padhāna, “tiến hành một cách
căng thẳng, tinh cần một cách căng thẳng”. Trong bản Hán,
padhāna (tinh cần) được đọc là pahāna (đoạn).
-
[12] Sanh thượng khổ, lãnh thọ cảm thọ tối thượng khổ. Pāli: tibbā opakkamikā
dukkhā, những (cảm giác) khổ đột nhiên và kịch liệt.
-
[13] Hán: lạc báo
nghiệp. Pāli: kamma sukhavedanīya, nghiệp dẫn đến cảm
thọ lạc.
-
[14] Hán: khổ báo
nghiệp. Pāli: kamma dukkhavedanīya.
-
[15] Hán: hiện pháp
báo nghiệp. Pāli: dihadhammavedanīya kamma.
-
[16] Hán: hậu sanh
báo nghiệp. Pāli: samparāyavedanya kamma.
-
[17] Hán: bất thục
báo nghiệp. Pāli: aparipakkavedanīya kamma.
-
[18] Hán: thục báo
nghiệp. Pāli: paripakkavedanīya kamma.
-
[19] Hán: hư vọng
phương tiện. Pāli: aphalo upakkamo, nỗ lực không kết
quả.
-
[20] Hán: không đoạn
vô hoạch. Pāli: aphala padhāna, sự chuyên cần không
kết quả.
-
[21] Thân Tử Ni-kiền. Pāli: Nigaha Nātaputta.
-
[22] Tín (saddhā),
lạc (ruci: hoan hỷ), văn (anussava: tùy văn, nghe tường
thuật), niệm 念 (ākārāparivitakka: tướng tĩnh lự, suy xét các
dấu hiệu hay điều kiện hay lý do), và kiến thiện quán
(dithinijhānakhanti: nhẫn thọ tà kiến).
-
[23] Hán: năm điều,
tín, lạc, văn, niệm, kiến thiện quán. Bản Pāli: “Lòng tin của
các Tôn giả Nigaha đối với Tôn sư quá khứ như là thế nào? Sự
hoan hỷ, tùy văn, thẩn sấn và nhẫn thọ như thế nào?” (diễn
giải về năm pháp nói trên).
-
[24] Hán: ngũ trách
cật. Pāli: dasa vādānuvādā, mười luận đề (của các học thuyết).
-
[25] Hán: khả tắng ố.
-
[26] Hán: nhân bản
tác. Pāli: pubbekatahetu.
-
[27] Hán: nhân hiệp
hội . Pāli: sagātibhava.
-
[28] Hán: nhân vi
mạng. Pāli: abhijātihetu, nhân là chủng loại thọ sanh.
Tức do sự khác biệt da màu hay huyết thống.
-
[29] Hán: nhân kiến. Pāli: dihadhammupakkamahetu, nguyên nhân là sự nỗ lực
trong đời hiện tại. Bản Hán hình như chỉ đọc: diha-hetu.
-
[30] Hán: Tôn hựu tạo. Pāli: Issaranimmānahetu, nguyên nhân là sự sáng tạo của
Thượng đế (Tự tại thiên).
-
[31] Pāli: dhammika
ca sukha na pariccajati, tasmi ca sukhe anadhimucchito, vị
ấy không từ bỏ lạc thọ phù hợp chánh pháp, nhưng cũng không bị
buộc chặt vào lạc thọ đó.
-
[32] Hán: Bỉ hoặc dục
đoạn khổ nhân hành dục, hoặc dục đoạn khổ nhân hành xả dục. Dục đoạn hành tức khát vọng đoạn
trừ bất thiện bằng tinh cần trong khổ hạnh. Dục đoạn này được
phát triển trong tinh tấn, khinh an, niệm, chánh tri, và do tư
duy xả. Trong bản Hán này có hai phương pháp tu tập, hoặc bằng
dục đoạn hành thuần tuý, hoặc dục đoạn hành đi đôi với xả.
Pāli: imassa kho me dukkhanidānassa sakhāra padahato
sakhātappadhānā virāgo hoti; imassa pana me dukkha-nidānassa
ajjhupekkhato upekha bhāvayato virago hoti, ta đối với nguyên
nhân đau khổ này tinh cần hành; do tinh cần hành mà ly nhiễm;
lại nữa, ta đối với nguyên nhân đau khổ này mà xả (không quan
tâm); do tu tập xả mà ly nhiễm. (Nghĩa là, không cần đến sự
tinh cần khổ hạnh nữa; Tự đoạn khổ).
-
[33] Hán: tu kỳ hành
dục. Pāli: sakhāra tattha padahati, ở đây vị ấy tập
trung nỗ lực trên hành.
-
[34] Hán: dĩ đoạn, tinh cần tới mức tuyệt đỉnh.
-
[35] Hán: tự đoạn khổ. Pāli: dukkhāya attāna padahato, tập trung tự ngã để
hành trì khổ.
-
[36] Đại ý đoạn này
theo Pāli: vị Tỳ-kheo trong khi sống với cảm thọ lạc, nhận
thấy pháp thiện suy giảm và bất thiện tăng trưởng, bèn áp dụng
sự thực hành với cảm thọ khổ (tức áp dụng lối khổ tu), khi ấy
pháp thiện tăng trưởng và pháp bất thiện suy giảm.
-
[37] Hán: dụng kiểm
(sic) nạo tiễn. Pāli: tejana dvisu alātesu ātāpita,
hơ nóng cây tên giữa hai ngọn lửa.
-
[38] Hán: phản niệm
bất hướng. Pāli: parimukha sati upahapetvā, sau
khi đặt niệm tưởng ngay trước mặt (hệ niệm tại tiền).
-
[39] Hán: tham tứ; Pāli: abhijjha loke, ham muốn trần tục.
-
[40] Hán: tâm vô hữu
tránh .
-
[41] Hán: ngũ cái, vừa kể đoạn trên. Pāli: pañca nivāraā.
-
|