- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 02-
PHẨM NGHIỆP TƯƠNG ƯNG
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa ở Câu-lệ-sấu[02],
cùng với chúng Đại Tỳ-kheo, đi đến Bắc thôn[03],
trú ở phía Bắc của thôn trong rừng Thi-nhiếp-hòa[04].
- Bấy giờ
Ba-la-lao Già-di-ni[05]
nghe rằng: “Sa-môn Cù-đàm thuộc dòng họ Thích, đã từ bỏ dòng
họ Thích, xuất gia học đạo, đang du hóa tại Câu-lệ-sấu cùng
chúng Đại Tỳ-kheo đi đến Bắc thôn, trú ở phía Bắc của thôn
trong rừng Thi-nhiếp-hòa. Vị Sa-môn Cù-đàm ấy có tiếng tăm
lớn, truyền khắp mười phương rằng: ‘Sa-môn Cù-đàm là Như Lai,
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật,
Chúng Hựu. Vị ấy ở trong thế gian này giữa chư Thiên, Ma,
Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ loài người cho đến loài trời, tự
tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu và an trụ. Pháp mà vị ấy
thuyết, khoảng đầu thiện, khoảng giữa thiện, cứu cánh cũng
thiện, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh thanh tịnh trọn
đủ’. Nếu gặp được Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác,
để tôn trọng, lễ bái cúng dường, thừa sự, thì sẽ được nhiều
thiện lợi”. Người kia suy nghĩ rằng: “Ta nên đến yết kiến
Sa-môn Cù-đàm để lễ bái, cúng dường”.
- Ba-la-lao
Già-di-ni nghe vậy rồi, ra khỏi Bắc thôn, đi về hướng Bắc, đến
rừng Thi-nhiếp-hòa, muốn yết kiết Thế Tôn để lễ bái cúng
dường. Ba-la-lao Già-di-ni từ xa trông thấy Thế Tôn ở trong
rừng cây, đoan nghiêm đẹp đẽ, như mặt trăng giữa đám tinh tú
sáng ngời chói lọi, rực rỡ như tòa núi vàng, đầy đủ tướng hảo,
uy thần vời vợi, các căn tịch tịnh, không gì ngăn che, thành
tựu sự điều ngự, tâm yên tĩnh lặng. Ba-la-lao Già-di-ni từ xa
trông thấy Đức Thế Tôn rồi, đến trước chỗ Thế Tôn, cùng chào
hỏi rồi ngồi xuống một phía, thưa với Thế Tôn rằng:
- “Tôi nghe
Sa-môn Cù-đàm biết huyễn thuật, là nhà huyễn thuật[06].
Thưa Cù-đàm, nếu ai nói như vậy: ‘Sa-môn Cù-đàm biết huyễn
thuật, là nhà huyễn thuật’, người ấy không hủy báng Sa-môn
Cù-đàm chăng? Người ấy có nói đúng sự thật không? Người ấy nói
có đúng pháp chăng? Người ấy nói đúng pháp và như pháp[07]
chăng? Đối với như pháp, không có sai lầm và không bị chỉ
trích chăng?”
- Đức Thế Tôn
đáp:
- “Này Già-di-ni,
nếu có ai nói như vầy, ‘Sa-môn Cù-đàm biết huyễn thuật, là nhà
huyễn thuật’, thì người ấy không hủy báng Sa-môn Cù-đàm, người
ấy nói chân thật, ngươi ấy nói đúng pháp, người ấy nói pháp
như pháp, đối với pháp không có lỗi lầm, không bị chỉ trích.
Vì sao thế? Này Già-di-ni, Ta biết huyễn thuật ấy, nhưng chính
Ta không phải là nhà huyễn thuật”.
- Già-di-ni nói
rằng:
- “Những điều các
Sa-môn, Phạm chí kia nói là chân thật, nhưng tôi không tin họ
nói rằng ‘Sa-môn Cù-đàm biết huyễn thuật và là nhà huyễn
thuật”.
- Thế Tôn nói:
- “Này Già-di-ni,
nếu người nào biết huyễn thuật thì người đó là nhà huyễn thuật
chăng?”
- Già-di-ni thưa
rằng:
- “Quả thật vậy,
Thế Tôn. Quả thật vậy, Thiện Thệ”.
- Thế Tôn bảo
rằng:
- “Này Già-di-ni,
ông đừng tự lầm lẫn mà hủy báng Ta. Nếu hủy báng Ta thì chỉ tự
gây tổn hại, có sự não hại, có xúc phạm, điều mà Hiền Thánh
ghét bỏ, và bị tội lớn. Vì sao thế? Này Già-di-ni, điều ấy
thật ra không đúng như lời ông nói. Này Già-di-ni, ông có nghe
Câu-lệ-sấu có binh tốt[08]
chăng?
- Già-di-ni đáp
rằng:
- “Tôi nghe rằng
có”.
- “Này Già-di-ni,
ông nghĩ thế nào, Câu-lệ-sấu có binh tốt ấy để làm gì?”
- Già-di-ni đáp:
- “Thưa Cù-đàm,
để làm thông sứ và giết giặc cướp. Vì việc đó nên Câu-lệ-sấu
nuôi các binh tốt ấy”.
- “Này Già-di-ni,
ông nghĩ thế nào, binh tốt Câu-lệ-sấu có giữ giới cấm hay
không giữ giới cấm?”
- Già-di-ni đáp:
- “Thưa Cù-đàm,
nếu trên thế gian này có những người không giữ giới cấm, vẫn
không thể quá hơn binh tốt Câu-lệ-sấu. Vì sao thế? Vì binh tốt
Câu-lệ-sấu phạm rất nhiều giới cấm, chỉ làm các ác pháp”.
- Lại hỏi:
- “Ông thấy như
vậy, biết như vậy, ta không hỏi ông. Nếu có người khác hỏi
ông, ‘Vì Già-di-ni biết rằng binh tốt Câu-lệ-sấu phạm rất
nhiều những giới cấm, chỉ làm những ác pháp; nhân việc đó nên
Già-di-ni cũng phạm rất nhiều cấm giới, chỉ làm các ác pháp’.
Nên nói như vậy, là lời nói đúng sự thật chăng?”
- Già-di-ni đáp:
- “Không phải
vậy, thưa Cù-đàm. Vì sao thế? Vì binh tốt Câu-lệ-sấu có tri
kiến khác, có sở nguyện khác, nên binh tốt Câu-lệ-sấu phạm rất
nhiều cấm giới, chỉ làm các ác pháp. Còn tôi thì rất trì giới,
không làm các ác pháp”.
- Lại hỏi:
- “Già-di-ni, ông
biết binh tốt Câu-lệ-sấu phạm rất nhiều cấm giới, chỉ làm các
ác pháp, nhưng ông không do đó mà phạm cấm giới, chỉ làm các
ác pháp. Vậy thì vì sao không thể rằng Như Lai biết huyễn
thuật, trong khi chính mình không phải là nhà huyễn thuật. Vì
sao thế? Ta biết huyễn thuật, biết người huyễn thuật, biết quả
báo của huyễn thuật, biết đoạn trừ huyễn thuật.
- “Này Già-di-ni,
Ta cũng biết sát sanh, biết người sát sanh, biết sự đoạn trừ
sát sanh. Này Già-di-ni, Ta biết việc lấy của không cho, biết
người lấy của không cho, biết quả báo việc lấy của không cho,
biết sự đoạn trừ việc lấy của không cho. Này Già-di-ni, Ta
biết việc nói dối, biết người nói dối, biết quả báo việc nói
dối, biết đoạn trừ sự nói dối. Này Già-di-ni, Ta biết như vậy,
thấy như vậy. Ai nói như vầy: ‘Sa-môn Cù-đàm biết huyễn thuật
tức là nhà huyễn thuật’, nếu người ấy chưa đoạn trừ lời nói
này, mà nghe tâm ấy, dục ấy, nguyện ấy, văn ấy, niệm ấy, quán
ấy, thì trong khoảnh khắc như co duỗi cánh tay, mạng chung
sanh vào địa ngục”.
- Già-di-ni nghe
vậy, kinh hãi khủng khiếp, lông trên mình dựng đứng lên, liền
từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật, quỳ mọp, chắp tay
hướng về Thế Tôn mà bạch rằng:
- “Cù-đàm, tôi ăn
năn tội lỗi. Thiện Thệ, tôi tự thú[09].
Tôi như ngu, như si, như bất định, như bất thiện. Vì sao thế?
Vì tôi nói quấy rằng Sa-môn Cù-đàm là nhà huyễn thuật. Mong
Thiện Thệ cho tôi được ăn năn tội lỗi, thấy tội thì bày tỏ.
Tôi đã ăn năn tội rồi, sẽ giữ gìn không để tái phạm nữa”.
-
Thế Tôn bảo rằng:
- “Thật như vậy,
Già-di-ni, ông quả thật ngu, như si, như bất định, như bất
thiện. Vì sao thế? Vì ông đối với Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, mà nói quấy là nhà huyễn thuật. Nhưng ông có thể
ăn năn tội lỗi, thấy tội thì nên bày tỏ, giữ gìn không để tái
phạm nữa. Như vậy, này Già-di-ni, nếu có người ăn năn tội lỗi,
thấy tội nên bày tỏ, hộ trì mà không tạo lại nữa, thì trưởng
dưỡng Thánh pháp, không còn có sự sai lầm nữa”.
- Lúc đó
Già-di-ni chắp tay hướng về Đức Thế Tôn mà bạch rằng:
- “Thưa Cù-đàm,
có Sa-môn, Phạm chí, thấy thế này, nói thế này: ‘Nếu kẻ nào
sát sanh, kẻ ấy nhất thiết thọ báo ngay trong đời này; nhân đó
mà sanh ra ưu khổ. Nếu kẻ nào lấy của không cho, nói dối, kẻ
ấy nhất thiết thọ báo; nhân đó mà sanh ra ưu khổ’. Thưa Sa-môn
Cù-đàm, ý Ngài nghĩ sao?”
- Đức Thế Tôn bảo
rằng:
- Này Già-di-ni,
nay Ta hỏi ông, tùy sự hiểu biết mà trả lời. Này Già-di-ni, ý
ông nghĩ sao? Nếu trong thôn ấp, hoặc có một người đầu đội
tràng hoa, dùng nhiều loại hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc,
ca vũ, tự mình thỏa thích, vui cười nữ sắc, hoan lạc như vua.
Nếu có người hỏi rằng: ‘Người này trước kia làm những gì mà
nay đầu đội tràng hoa, hoặc dùng nhiều loại hương xoa vào thân
rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích, vui cười nữ sắc,
hoan lạc như vua?’ Hoặc có người trả lời rằng: ‘Người ấy vì
Quốc vương mà giết hại kẻ thù. Quốc vương sau khi vui vẻ liền
ban thưởng cho. Do đó người ấy đầu đội tràng hoa, dùng nhiều
loại hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa
thích, vui cười nữ sắc, hoan lạc như vua. “Này Già-di-ni, ông
có thấy như vậy, nghe như vậy chăng?”
- Già-di-ni đáp:
- “Tôi có thấy
như vậy, nghe như vậy, Cù-đàm. Tôi đã nghe và sẽ được nghe
nữa”.
- “Già-di-ni, rồi
lại thấy Quốc vương bắt bớ tội nhân, trói quặt hai tay lại,
đánh trống, xướng lệnh, kéo ra cửa thành phía Nam, để ngồi
dưới cây nêu cao, rồi chém bêu đầu. Nếu có người hỏi rằng:
‘Người này phạm tội gì mà bị Quốc vương giết nhỉ?’ Hoặc có
người trả lời rằng: ‘Người này giết lầm người vô tội trong
Vương gia, do đó Quốc vương ra lệnh hành hình như vậy’. Này
Già-di-ni, ông có thấy như vậy, nghe như vậy chăng?”
- Già-di-ni trả
lời:
- “Tôi có thấy
như vậy, Cù-đàm, tôi đã nghe và sẽ được nghe nữa”.
- “Này Già-di-ni,
nếu có Sa-môn, Phạm chí, thấy như vậy, nói như vậy: ‘Nếu có
người nào sát sanh người ấy nhất thiết phải thọ báo ngay trong
hiện tại này; nhân đó mà sanh ra ưu khổ’, thì đó là lời nói
chân thật hay lời nói hư dối?”
- Già-di-ni đáp:
- “Đó là lời nói
hư dối, thưa Cù-đàm”.
- “Nếu người ấy
nói hư vọng, ông có tin chăng?”
- Già-di-ni đáp:
- “Tôi không tin,
thưa Cù-đàm”.
- Đức Thế Tôn
khen rằng:
- “Lành thay,
Già-di-ni, Ta lại hỏi ông, ông nghĩ thế nào? Nếu trong thôn
ấp, hoặc có người đầu đội tràng hoa, dùng nhiều thứ hương xoa
vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích, vui chơi
nữ sắc, hoan lạc như vua. Nếu có người hỏi rằng: ‘Người này
trước kia đã làm những việc gì mà nay đầu đội tràng hoa, dùng
nhiều thứ hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình
thỏa thích vui chơi nữ sắc, hoan lạc như vua?’ Hoặc có người
trả lời rằng, “Người ấy ở nước khác, vì lấy của không cho, do
đó người ấy đầu đội tràng hoa, dùng nhiều thứ hương xoa vào
thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích vui chơi nữ
sắc, hoan lạc như vua’. Này Già-di-ni, ông có thấy như vậy,
nghe như vậy chăng?”
- Già-di-ni thưa:
- “Tôi có thấy
như vậy, thưa Cù-đàm, tôi đã nghe và sẽ được nghe nữa”.
- “Này Già-di-ni,
rồi lại thấy Quốc vương bắt bớ tội nhân trói quặt hai tay ra
sau, đánh trống, xướng lệnh kéo ra cửa phía Nam, để ngồi dưới
gốc cây nêu cao rồi chém bêu đầu. Nếu có người hỏi rằng:
‘Người này mắc tội gì mà bị Quốc vương giết chết?’ Hoặc có
người trả lời rằng: ‘Người ấy lấy của không cho trong Vương
gia, do đó Quốc vương ra lệnh hành hình như vậy’. Này
Già-di-ni, ông có thấy như vậy, nghe như vậy chăng?”
- Già-di-ni trả
lời rằng:
- “Tôi có thấy
như vậy, Cù-đàm, tôi đã nghe và sẽ được nghe nữa”.
- “Này Già-di-ni,
nếu có Sa-môn, Phạm chí thấy và nói như vậy: ‘Nếu có kẻ nào
lấy của không cho, kẻ ấy nhất thiết phải thọ báo ngay trong
đời hiện tại này, nhân đó mà sanh ra ưu khổ’, thì lời nói đó
chân thật hay lời nói hư dối?”
- Già-di-ni đáp:
- “Đó là lời nói
hư dối, thưa Cù-đàm”.
- “Nếu người ấy
nói hư vọng, ông có tin chăng?”
- Già-di-ni đáp:
- “Tôi không tin,
thưa Cù-đàm!”
- Đức Thế Tôn
khen rằng.
- “Lành thay!
Lành thay! Già-di-ni!”
- Lại hỏi
Già-di-ni:
- “Già-di-ni, ông
nghĩ thế nào, nếu trong thôn ấp hoặc có người đầu đội tràng
hoa, dùng nhiều thứ hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ,
tự mình thỏa thích vui chơi nữ sắc, hoan lạc như vua. Nếu có
người hỏi rằng: ‘Người ấy trước kia làm những việc gì mà nay
đầu đội tràng hoa, dùng nhiều thứ hương xoa vào thân, rồi
xướng nhạc ca vũ, tự mình thỏa thích vui chơi nữ sắc, hoan lạc
như vua?’ Hoặc có người trả lời rằng: ‘Người ấy ca múa để vui
giỡn, cười đùa. Người ấy bằng lời nói dối làm cho Quốc vương
vui vẻ. Sau khi Quốc vương vui vẻ liền ban thưởng cho, do đó
người ấy đầu đội tràng hoa, dùng nhiều thứ hương xoa vào thân,
rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích vui chơi nữ sắc,
hoan lạc như vua’. Này Già-di-ni, ông có thấy như vậy, nghe
như vậy chăng?”
- Già-di-ni trả
lời rằng:
- “Tôi có thấy
như vậy, Cù-đàm, tôi đã nghe và sẽ được nghe nữa”.
- “Này Già-di-ni,
rồi lại thấy Quốc vương bắt bớ tội nhân, dùng gậy đánh đến
chết, rồi bỏ vào củi cây, chở trên xe trống đi ra cửa thành
phía Bắc, vất vào trong rãnh nước, nếu có người hỏi rằng:
‘Người ấy mắc tội gì mà bị quốc vương giết chết đi?’ Hoặc có
người trả lời rằng: ‘Người ấy ở trước Quốc vương nói dối là có
chứng đắc, người ấy do lừa gạt Quốc vương bằng lời nói dối nên
bị Quốc vương ra lệnh bắt làm như thế’. Này Già-di-ni, ông có
thấy như vậy, nghe như vậy không?”
- Già-di-ni trả
lời rằng:
- “Tôi có thấy
vậy, Cù-đàm, tôi đã nghe và sẽ nghe nữa”.
- “Này Già-di-ni,
ông nghĩ thế nào, nếu có Sa-môn, Phạm chí thấy như vậy, nói
như vậy: ‘Nếu có người nào nói dối, người ấy nhất thiết phải
thọ báo ngay trong đời hiện tại này, nhân đó mà sanh ra ưu
khổ’, thì lời nói đó là lời nói chân thật hay hư dối?”
- Già-di-ni đáp:
- “Đó là lời nói
hư dối, thưa Cù-đàm”.
- “Nếu người ấy
nói hư vọng, ông có tin chăng?”
- Già-di-ni đáp:
- “Tôi không tin,
thưa Cù-đàm”.
- Đức Thế Tôn
khen rằng:
- “Lành thay!
Lành thay! Già-di-ni!”
- Lúc đó,
Già-di-ni liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa áo chắp tay
hướng về Thế Tôn mà thưa rằng:
- “Kỳ diệu thay,
những điều Cù-đàm nói rất vi diệu, khéo ví dụ, khéo dẫn chứng.
Bạch Cù-đàm, tôi ở trong Bắc thôn có xây dựng một ngôi nhà cao
lớn, sắp đặt giường nệm, để sẵn đồ chứa nước thắp sáng những
ngọn đèn lớn. Nếu có vị Sa-môn, Phạm chí tinh tấn nào đến nghỉ
ở ngôi nhà cao lớn ấy, tôi sẽ tùy khả năng mà cung cấp những
gì vị ấy cần thiết. Có bốn vị luận sĩ mà sở kiến khác nhau,
cùng đến tập hợp tại ngôi nhà cao lớn ấy. Trong đó có một vị
luận sĩ thấy như vầy, nói như vầy[10]:
‘Không có bố thí, không có trai tếâ, không có chú thuyết,
không có nghiệp thiện, nghiệp ác, không có nghiệp báo thiện
ác, không có đời này đời sau, không có cha, không có mẹ, trên
đời không có bậc chân nhân đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo
hướng[11],
tự tri, tự giác, tự chứng ngộ đời này và đời khác[12],
thành tựu và an trụ’.
- “Vị luận sư thứ
hai lại có sở kiến trái ngược với sở kiến của vị luận sư thứ
nhất. Vị ấy cũng thấy như vầy, nói như vầy: ‘Có bố thí, có
trai tế, có chú thuyết, có nghiệp thiện ác, có nghiệp báo
thiện ác, có đời này đời sau, có cha có mẹ có bậc chân nhân
trên đời này đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo hướng, tự tri, tự
giác, tự chứng ngộ đời này và đời khác, thành tựu và an trụ’.
- “Vị luận sư thứ
ba[13]
thấy như vầy, nói như vầy: ‘Tự mình làm và sai bảo người khác
làm, tự mình chém giết và sai bảo người khác chém giết, tự
mình nấu và sai bảo người khác nấu; ưu sầu[14],
phiền muộn, lo lắng, đấm ngực, áo não, khóc lóc, ngu si; sát
sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói dối, uống rượu; đào vách,
mở kho, đến ngõ hẻm khác để ăn cướp[15],
phá làng hại xóm, phá thành, diệt nước; làm như thế không phải
là làm ác. Lại dùng vòng sắt bén như dao cạo, người ấy đối với
tất cả chúng sanh ở trên cõi đời này, trong vòng một ngày mà
bửa, mà cắt, mà chém, mà chặt, mà lột da, mà lóc xẻ từng mảng
thịt, lách từng phần từng khối; do vậy vẫn không có nghiệp ác,
do vậy vẫn không có nghiệp báo ác. Ở bờ sông Hằng-già phía
Nam, giết rồi cắt, rồi khiến nấu’; và ở bờ sông Hằng-già phía
Bắc mà bố thí, trai tế, chú thuyết. Không do đó mà có tội hay
có phước; không do đó mà có quả báo tội phước. Cấp thí, tự chế
ngự, thủ hộ, nhiếp trì, tán thán, nhiêu ích, ái ngữ lợi hành,
không do đó mà có phước, không do đó mà có quả báo của phước’.
- Luận sĩ thứ tư
lại có sở kiến trái ngược sở kiến vị luận chủ thứ ba. Vị ấy
thấy như vầy, nói như vầy: ‘Tự mình làm và sai bảo người khác
làm, tự mình chém giết và sai bảo người khác chém giết, tự
mình nấu và sai bảo người khác nấu; ưu sầu, phiền muộn, lo
lắng, đấm ngực, áo não, khóc lóc, ngu si; sát sanh, lấy của
không cho, tà dâm, nói dối, uống rượu; đào vách, mở kho, đến
ngõ hẻm khác để ăn cướp, phá làng hại xóm, phá thành, diệt
nước; làm như thế chính là làm ác. Lại dùng vòng sắt bén như
dao cạo, người ấy đối với tất cả chúng sanh ở trên cõi đất
này, trong vòng một ngày mà bửa, mà cắt, mà chém, mà chặt, mà
lột da, mà lóc xẻ từng mảng thịt, lách từng phần từng khối; do
vậy vẫn không có nghiệp ác, do vậy vẫn không có nghiệp báo ác.
Ở bờ sông Hằng-già phía Nam, giết rồi cắt, rồi khiến nấu’; và
ở bờ sông Hằng-già phía Bắc mà bố thí, trai tế, chú thuyết. Do
đó có tội có phước; do đó mà có quả báo tội phước. Cấp thí, tự
chế, thủ hộ, nhiếp trì, tán thán, nhiêu ích, ái ngữ, lợi hành,
do đó mà có quả báo tội phước.
- “Thưa Cù-đàm,
tôi nghe như vậy liền sanh nghi hoặc: ‘Những vị Sa-môn, Phạm
chí đó, ai nói chân thật, ai nói hư dối?’.”
- Đức Thế Tôn trả
lời:
- “Này Già-di-ni,
ông chớ sanh nghi hoặc. Vì sao thế? Vì do có nghi hoặc mà sanh
ra do dự. Này Già-di-ni, ông tự mình không có tịnh trí, để
biết là có đời sau hay không có đời sau. Này Già-di-ni, ông
lại cũng không có tịnh trí để biết điều được làm là ác hay
điều được làm là thiện? Này Già-di-ni, có một pháp định[16]
được gọi là “Viễn ly”. Ông nhờ định ấy sẽ có thể được chánh
niệm, có thể đạt tới nhất tâm; như vậy, ở trong đời hiện tại
ông sẽ đoạn trừ sự nghi hoặc, và được thăng tấn[17]“.
- Lúc đó
Già-di-ni từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa áo, chắp tay
hướng về Đức Thế Tôn mà bạch rằng:
- “Thưa Cù-đàm,
thế nào là có một pháp định được gọi là “Viễn ly”. Tôi nhờ
định ấy sẽ có thể được chánh niệm, có thể đạt tới nhất tâm;
như vậy, ở trong đời hiện tại tôi có thể đoạn trừ sự nghi
hoặc, và được thăng tấn[18]?”
- Đức Thế Tôn bảo
rằng:
- “Thánh đệ tử đa
văn xa lìa sự giết, đoạn trừ sự giết; đoạn trừ sự lấy của
không cho, tà dâm, nói dối, cho đến đoạn trừ tà kiến và được
chánh kiến. Vị ấy ban ngày cày ruộng, và gieo giống; đến chiều
nghỉ ngơi và vào nhà ngồi thiền định; qua đêm, lúc hừng sáng
suy nghĩ như vầy: ‘Ta xa lìa sự giết, đoạn trừ sự giết; đoạn
trừ sự lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến đoạn trừ tà
kiến và được chánh kiến. Vị ấy liền tự thấy: ‘Ta đã đoạn trừ
mười nghiệp đạo ác và niệm mười nghiệp đạo thiện’. Vị ấy sau
khi tự thấy: ‘Ta đã đoạn trừ mười nghiệp đạo ác và niệm mười
nghiệp đạo thiện’, liền sanh ra hân hoan. Sau khi sanh ra hân
hoan liền phát sanh hỷ; sau khi phát sanh hỷ, thân liền an
định; sau khi thân được an định, thân liền cảm giác lạc. Sau
khi thân cảm giác lạc thì được nhất tâm. Này Già-di-ni, sau
khi Thánh đệ tử Đa văn được nhất tâm rồi thì tâm câu hữu với
từ, biến khắp một phương, thành tựu và an trụ. Cũng thế hai,
ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, biến khắp tất cả, tâm câu
hữu với từ, không kết không oán, không sân, không nhuế, không
não hại, quảng đại vô biên, vô lượng, khéo tu tập biến mãn tất
cả thế gian, thành tựu và an trụ.
- “Vị ấy suy nghĩ
như vầy: “Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào thấy như vầy, nói như
vầy: ‘Không có sự bố thí, không có trai tế, không có chú
thuyết, không có nghiệp thiện ác, không có nghiệp báo thiện
ác, không có đời này đời sau, không có cha, không có mẹ trên
đời, không có bậc thiện nhân đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo
hướng, tự tri, tự giác, tự chứng ngộ đời này và đời khác,
thành tựu và an trụ’. Nếu điều vị Sa-môn, Phạm chí kia nói ra
là chân thật, ta không xâm phạm đời, dù sợ hãi hay không sợ
hãi[19],
thường thương mến tất cả thế gian. Tâm ta không cùng thế gian
tranh cãi, cũng không có sự hân hoan thô trược. Nay ta được
pháp của bậc Vô thượng, thăng tấn đến trú xứ an lạc. Đó là
pháp định viễn ly. Những gì Sa-môn, Phạm chí kia nói, không
cho là đúng, không cho là sai. Sau khi không cho là đúng,
không cho là sai, liền được nội tâm tĩnh chỉ.
- “Này Già-di-ni,
đó là pháp định, được gọi là viễn ly. Ông có thể nhân định này
mà được chánh niệm, mà được nhất tâm. Như vậy, ông có thể đoạn
hết nghi hoặc trong đời hiện tại mà được thăng tiến.
- “Lại nữa
Già-di-ni: Thánh đệ tử đa văn xa lìa sự giết, đoạn trừ sự
giết; đoạn trừ sự lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến
đoạn trừ tà kiến và được chánh kiến. Vị ấy ban ngày cày ruộng,
và gieo giống; đến chiều nghỉ ngơi và vào nhà ngồi thiền định;
qua đêm, lúc hừng sáng suy nghĩ như vầy: ‘Ta xa lìa sự giết,
đoạn trừ sự giết; đoạn trừ sự lấy của không cho, tà dâm, nói
dối, cho đến đoạn trừ tà kiến và được chánh kiến. Vị ấy liền
tự thấy: ‘Ta đã đoạn trừ mười nghiệp đạo ác và niệm mười
nghiệp đạo thiện’. Vị ấy sau khi tự thấy: ‘Ta đã đoạn trừ mười
nghiệp đạo ác và niệm mười nghiệp đạo thiện’, liền sanh ra hân
hoan. Sau khi sanh ra hân hoan liền phát sanh hỷ; sau khi phát
sanh hỷ, thân liền an định; sau khi thân được an định, thân
liền cảm giác lạc. Sau khi thân cảm giác lạc thì được nhất
tâm. Này Già-di-ni, sau khi Thánh đệ tử đa văn được nhất tâm
rồi thì tâm câu hữu với bi, biến khắp một phương thành tựu và
an trụ; cũng thế hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, biến
khắp tất cả. Tâm câu với bi, không kết, không oán không sân
nhuế, không não hại, quảng đại, vô lượng vô biên, khéo tu tập,
biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trụ.
- “Vị ấy suy nghĩ
như vậy: “Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào thấy như vầy, nói như
vầy: ‘Có sự bố thí, có trai tế, có chú thuyết, có nghiệp thiện
ác, có nghiệp báo thiện ác, có đời này đời sau, có cha, có mẹ
trên đời, có bậc thiện nhân đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo
hướng, tự tri, tự giác, tự chứng ngộ đời này và đời khác,
thành tựu và an trụ’. Nếu điều vị Sa-môn, Phạm chí kia nói ra
là chân thật, ta không xâm phạm đời, dù sợ hãi hay không sợ
hãi, thường thương mến tất cả thế gian. Tâm ta không cùng thế
gian tranh cãi, cũng không có sự hân hoan thô trược. Nay ta
được pháp của bậc Vô thượng, thăng tấn đến trú xứ an lạc. Đó
là pháp định viễn ly. Những gì Sa-môn, Phạm chí kia nói, không
cho là đúng, không cho là sai. Sau khi không cho là đúng,
không cho là sai, liền được nội tâm tĩnh chỉ.
- “Này Già-di-ni,
đó là pháp định, được gọi là viễn ly. Ông có thể nhân định này
mà được chánh niệm, mà được nhất tâm; như vậy, ông có thể đoạn
hết nghi hoặc trong đời hiện tại mà được thăng tiến.
- “Lại nữa
Già-di-ni, Thánh đệ tử đa văn xa lìa sự giết, đoạn trừ sự
giết; đoạn trừ sự lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến
đoạn trừ tà kiến và được chánh kiến. Vị ấy ban ngày cày ruộng,
và gieo giống; đến chiều nghỉ ngơi và vào nhà ngồi thiền định;
qua đêm, lúc hừng sáng suy nghĩ như vầy: ‘Ta xa lìa sự giết,
đoạn trừ sự giết; đoạn trừ sự lấy của không cho, tà dâm, nói
dối, cho đến đoạn trừ tà kiến và được chánh kiến. Vị ấy liền
tự thấy: ‘Ta đã đoạn trừ mười nghiệp đạo ác và niệm mười
nghiệp đạo thiện’. Vị ấy sau khi tự thấy: ‘Ta đã đoạn trừ mười
nghiệp đạo ác và niệm mười nghiệp đạo thiện’, liền sanh ra hân
hoan. Sau khi sanh ra hân hoan liền phát sanh hỷ; sau khi phát
sanh hỷ, thân liền an định; sau khi thân được an định, thân
liền cảm giác lạc. Sau khi thân cảm giác lạc thì được nhất
tâm. Này Già-di-ni, sau khi Thánh đệ tử đa văn được nhất tâm
rồi thì tâm câu hữu với hỷ, biến khắp một phương thành tựu và
an trụ; cũng thế hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, biến
khắp tất cả. Tâm câu với hỷ, không kết, không oán, không sân
nhuế, không não hại, quảng đại, vô lượng vô biên, khéo tu tập,
biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trụ.
- “Vị ấy suy nghĩ
như vầy: ‘Tự mình làm và sai bảo người khác làm, tự mình chém
giết và sai bảo người khác chém giết, tự mình nấu và sai bảo
người khác nấu; ưu sầu, phiền muộn, lo lắng, đấm ngực, áo não,
khóc lóc, ngu si; sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói
dối, uống rượu; đào vách, mở kho, đến ngõ hẻm khác để ăn cướp,
phá làng hại xóm, phá thành, diệt nước; làm như thế không phải
là làm ác. Lại dùng vòng sắt bén như dao cạo, người ấy đối với
tất cả chúng sanh ở trên cõi đất này, trong vòng một ngày mà
bửa, mà cắt, mà chém, mà chặt, mà lột da, mà lóc xẻ từng mảng
thịt, lách từng phần từng khối; do vậy vẫn không có nghiệp ác,
do vậy vẫn không có nghiệp báo ác. Ở bờ sông Hằng-già phía
Nam, giết rồi cắt, rồi khiến nấu’; và ở bờ sông Hằng-già phía
Bắc mà bố thí, trai tế, chú thuyết. Không do đó mà có tội hay
có phước; không do đó mà có quả báo tội phước. Cấp thí, tự chế
ngự, thủ hộ, nhiếp trì, tán thán, nhiêu ích, ái ngữ lợi hành,
không do đó mà có phước, không do đó mà có quả báo của phước’.
Nếu điều vị Sa-môn, Phạm chí kia nói ra là chân thật, ta không
xâm phạm đời, dù sợ hãi hay không sợ hãi, thường thương mến
tất cả thế gian. Tâm ta không cùng thế gian tranh cãi, cũng
không có sự hân hoan thô trược. Nay ta được pháp của bậc Vô
thượng, thăng tấn đến trú xứ an lạc. Đó là pháp định viễn ly.
Những gì Sa-môn, Phạm chí kia nói, không cho là đúng, không
cho là sai. Sau khi không cho là đúng, không cho là sai, liền
được nội tâm tĩnh chỉ.
- “Này Già-di-ni,
đó là pháp định, được gọi là viễn ly. Ông có thể nhân định này
mà được chánh niệm, mà được nhất tâm. Như vậy, ông có thể đoạn
hết nghi hoặc trong đời hiện tại mà được thăng tiến.
- “Lại nữa
Già-di-ni, Thánh đệ tử đa văn xa lìa sự giết, đoạn trừ sự
giết; đoạn trừ sự lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến
đoạn trừ tà kiến và được chánh kiến. Vị ấy ban ngày cày ruộng,
và gieo giống; đến chiều nghỉ ngơi và vào nhà ngồi thiền định;
qua đêm, lúc hừng sáng suy nghĩ như vầy: ‘Ta xa lìa sự giết,
đoạn trừ sự giết; đoạn trừ sự lấy của không cho, tà dâm, nói
dối, cho đến đoạn trừ tà kiến và được chánh kiến. Vị ấy liền
tự thấy: ‘Ta đã đoạn trừ mười nghiệp đạo ác và niệm mười
nghiệp đạo thiện’. Vị ấy sau khi tự thấy: ‘Ta đã đoạn trừ mười
nghiệp đạo ác và niệm mười nghiệp đạo thiện’, liền sanh ra hân
hoan. Sau khi sanh ra hân hoan liền phát sanh hỷ; sau khi phát
sanh hỷ, thân liền an định; sau khi thân được an định, thân
liền cảm giác lạc. Sau khi thân cảm giác lạc thì được nhất
tâm. Này Già-di-ni, sau khi Thánh đệ tử đa văn được nhất tâm
rồi thì tâm câu hữu với xả, biến khắp một phương thành tựu và
an trụ; cũng thế hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, biến
khắp tất cả. Tâm câu với xả, không kết, không oán, không sân
nhuế, không não hại, quảng đại, vô lượng vô biên, khéo tu tập,
biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trụ.
- “Vị ấy suy nghĩ
như vầy: ‘Tự mình làm và sai bảo người khác làm, tự mình chém
giết và sai bảo người khác chém giết, tự mình nấu và sai bảo
người khác nấu; ưu sầu, phiền muộn, lo lắng, đấm ngực, áo não,
khóc lóc, ngu si; sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói
dối, uống rượu; đào vách, mở kho, đến ngõ hẻm khác để ăn cướp,
phá làng hại xóm, phá thành, diệt nước; làm như thế thật sự là
làm ác. Lại dùng vòng sắt bén như dao cạo, người ấy đối với
tất cả chúng sanh ở trên cõi đất này, trong vòng một ngày mà
bửa, mà cắt, mà chém, mà chặt, mà lột da, mà lóc xẻ từng mảng
thịt, lách từng phần từng khối; do vậy có nghiệp ác, do vậy có
nghiệp báo ác. Ở bờ sông Hằng-già phía Nam, giết rồi cắt, rồi
khiến nấu; và ở bờ sông Hằng-già phía Bắc mà bố thí, trai tế,
chú thuyết. Do đó mà có tội hay có phước; do đó mà có quả báo
tội phước. Cấp thí, tự chế ngự, thủ hộ, nhiếp trì, tán thán,
nhiêu ích, ái ngữ, lợi hành; do đó mà có phước, do đó mà có
quả báo của phước’. Nếu điều vị Sa-môn, Phạm chí kia nói ra là
chân thật, ta không xâm phạm đời, dù sợ hãi hay không sợ hãi,
thường thương mến tất cả thế gian. Tâm ta không cùng thế gian
tranh cãi, cũng không có sự hân hoan thô trược. Nay ta được
pháp của bậc Vô thượng, thăng tấn đến trú xứ an lạc. Đó là
pháp định viễn ly. Những gì Sa-môn, Phạm chí kia nói, không
cho là đúng, không cho là sai. Sau khi không cho là đúng,
không cho là sai, liền được nội tâm tĩnh chỉ.
- “Này Già-di-ni,
đó là pháp định, được gọi là viễn ly. Ông có thể nhân định này
mà được chánh niệm, mà được nhất tâm. Như vậy, ông có thể đoạn
hết nghi hoặc trong đời hiện tại mà được thăng tiến”.
- Khi Phật nói
bài pháp ấy xong, Già-di-ni viễn ly trần cấu, phát sanh con
mắt thanh tịnh thấy rõ các pháp. Lúc đó, Già-di-ni thấy pháp,
chứng pháp, giác ngộ pháp bạch tịnh, đoạn nghi, vượt qua hoặc[20],
không còn tôn sùng ai khác, không còn do ai khác, không còn do
dự, đã trụ nói quả chứng đạt, được vô sở úy đối với giáo pháp
của Thế Tôn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ dưới chân
Phật mà bạch rằng.
- “Bạch Đức Thế
Tôn, con từ nay xin quy y Phật, quy y Pháp và Chúng Tỳ-kheo;
cúi mong Đức Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc; bắt đầu từ hôm
nay, trọn đời quy y cho đến khi mạng chung”.
- Phật thuyết như
vậy. Ba-la-lao Già-di-ni và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật
thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: S.42.13. Pāṭali-sutta.
-
[02] Câu-lệ-sấu. Pāli: Koliyesu, giữa những người Koliyā, một bộ tộc theo
thể chế cộng hòa trong thời Phật, cư ngụ tại làng Rāmagama
trên bờ sông Hằng, và phần khác sống tại Devadaha, lãnh thổ
của họ và của giòng Sakya được chia đôi bằng sông Rohinin và
một cuộc chiến đẫm máu sắp xảy ra, nếu không có sự can thiệp
của Đức Phật.
-
[03] Bắc thôn.
Pāli: Uttara, tên thôn ở trong Koliyā.
-
[04] Thi-nhiếp-hòa
lâm. Pāli: Simsapavana.
-
[05] Ba-la-lao
Già-di-ni. Pāli: Pātaliya-gāminī thôn trưởng
Pātaliya.
-
[06] Hán: tri huyễn
thị huyễn. Pāli: (...) māyaṃ jānatī ti (...) māyavī
ti, (Sa-môn Gotama) biết huyễn thuật, (vậy Gotama là) nhà
huyễn thuật.
-
[07] Hán: pháp như
pháp. Pāli: dhammassa cānudhamma, và tùy pháp của pháp,
chỉ những vấn đề liên hệ đến pháp.
-
[08] Hán: tốt.
Pāli: lambacūlake bhate, người làm thuê có lọn tóc buông
thỏng.
-
[09] Hán: tự thú.
Bản Cao-li: tự tích (từ trước).
-
[10] Thuyết đoạn diệt
(uccheda-vāda) của Ajita Kesa-kambāli. Xem D.2
Sāmaññaphala-sutta; No.1(21), Trường A-hàm “Kinh số 14, Phạm
Động), Đại 1, tr.88.
-
[11] Hán: thiện khứ
thiện hướng. Pāli: sammagata, sammā-paippanna, chân
chánh hành trì (tám Thánh đạo), chân chánh thú hướng (nhắm
đếùn Niết-bàn).
-
[12] Pāli: na (...)
ye imañ ca loka parañ ca loka saya abhiñīa saccchikatvā
pavedenti, “không có những vị sau khi tự mình thực chứng về
thế giới này và thế giới khác rồi thuyết minh lại”.
-
[13] Thuyết vô tác
dụng (akiriya-vāda) của Pūrana Kassapa, Pāli, D. 2.
Sāmaññaphala-sutta; No.1(21), Trường A-hàm “Kinh số 14, Phạm
Động), Đại 1, tr.88.
-
[14] Tự mình hay
khiến người khác; đoạn sau, văn nghĩa tương tợ.
-
[15] Hán: chí tha
hạng mạch.(bản Cao-li: kiếp). Có lẽ Pāli:
paripanthe (Hán đọc: parapanthe) tiṭihato, chận đường ăn cướp.
-
[16] Hán: hữu pháp
chi định. Pāli: atthi... Dhammasamādhi.
-
[17] Tham chiếu Pāli:
atthi gāmai dhammasamādhi tatra ce tva cittasamādhi
pailabeyyāsi eva tva ima kaikhādhammam pajaheyyāsi, “Này
thôn trưởng, có pháp định (pháp tam-muội), mà nếu trong đó
ngươi có thể đạt được tâm định như vậy ngươi có thể đoạn trừ
pháp nghi hoặc”.
-
[18] Hán: thăng tấn. Pāli: sagga, sanh lên trên; sanh thiên.
-
[19] Hán: bố dữ bất
bố, chỉ người run sợ tức kẻ yếu, và người vững vàng tức
kẻ mạnh. Pāli: tasa vā thāvara.
-
[20] Hán: đoạn nghi
độ hoặc. Pāli: tia-vicikiccho vigata-kathakatho,
vượt qua hoài nghi, dứt trừ do dự.
|