- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 03. PHẨM XÁ-LÊ TỬ TƯƠNG
ƯNG
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
- Bấy giờ Tỳ-kheo
Mâu-lợi-phá-quần-nậu[02]
xả giới, bỏ đạo. Tỳ-kheo Hắc Xỉ[03]
nghe Tỳ-kheo Mâu-lợi-phá-quần-nậu, xả giới, bỏ đạo, liền đến
chỗ Tôn giả Xá-lê Tử, cúi đầu lạy dưới chân rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xong, thưa rằng:
- “Thưa Tôn giả
Xá-lê Tử, ngài nên biết Tỳ-kheo Mâu-lợi-phá-quần-nậu, xả giới,
bỏ đạo”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nói rằng:
- “Tỳ-kheo
Mâu-lợi-phá-quần-nậu ở trong giáo pháp này mà có sự ái lạc
chăng?”
- Tôn giả Hắc Xỉ
hỏi lại rằng:
- “Tôn giả Xá-lê
Tử ở trong giáo pháp này có sự ái lạc chăng?”
- Tôn giả Xá-lê
Tử trả lời rằng:
- “Này Hắc Xỉ, ta
không hề có sự nghi hoặc đối với giáo pháp này”.
- Tỳ-kheo Hắc Xỉ
lại hỏi rằng:
- “Tôn giả Xá-lê
Tử đối với những việc trong tương lai thì như thế nào?”
- Tôn giả Xá-lê
Tử trả lời rằng:
- “Ta đối với
những việc trong tương lai thì cũng không có gì do dự”.
- Tỳ-kheo Hắc Xỉ
nghe vậy rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ Phật cúi
đầu lễ dưới chân Phật, rồi ngồi xuống một bên, bạch rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
Tôn giả Xá-lê Tử vừa rồi tự tuyên bố là chứng đắc trí[04],
biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc
cần làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa’.”
- Đức Thế Tôn
nghe xong bảo một vị Tỳ-kheo:
- “Ngươi hãy đến
chỗ Xá-lê Tử nói rằng ‘Đức Thế Tôn muốn gọi ngài.’”
- Tỳ-kheo ấy
vâng lời Phật dạy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lạy Phật rồi đi
đến chỗ Tôn giả Xá-lê Tử thưa rằng:
- “Đức Thế Tôn
gọi Tôn giả Xá-lê Tử”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi liền đi đến trước Phật, cúi đầu lễ rồi ngồi xuống
một bên. Đức Thế Tôn hỏi rằng:
- “Này
Xá-lợi-phất, có thật vừa rồi thầy tự tuyên bố là chứng đắc
trí, biết như thật, rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững,
việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’ chăng?”
- Tôn giả Xá-lê
Tử bạch rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
không phải với lời văn ấy, không phải đi với câu ấy mà con nói
về nghĩa ấy”.
- Đức Thế Tôn
bảo:
- “Này Xá-lê Tử,
một thiện nam tử tùy phương tiện[05]
mà tuyên thuyết, hễ có chứng đắc trí, thì tuyên bố chứng đắc
trí”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử bạch rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
con vừa nói không phải với lời ấy, không phải với câu ấy mà
con nói về nghĩa ấy”.
- Đức Thế Tôn
hỏi:
- “Này Xá-lê Tử
nếu có vị phạm hạnh nào đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả
Xá-lê Tử, biết thế nào, thấy thế nào, để có thể tự tuyên bố là
chứng đắc trí, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh
đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa?’
Này Xá-lê Tử nghe như vậy thầy sẽ trả lời sao?”
- Tôn giả Xá-lê
Tử trả lời rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
nếu có vị phạm hạnh đến hỏi con rằng: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử,
biết thế nào, thấy thế nào, để có thể tự tuyên bố là chứng đắc
trí, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững,
việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa?’ Bạch Thế
Tôn, nếu có người phạm hạnh đến hỏi con như vậy, con sẽ trả
lời như vầy: ‘Chư Hiền, sanh có nhân. Nhân của sự sanh ấy diệt
tận, thì biết nhân của sự sanh diệt tận; tôi tự tuyên bố là
chứng đắc trí, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh
đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa?’
Bạch Thế Tôn nếu có người phạm hạnh đến hỏi con như vậy, con
sẽ trả lời như thế”.
- Đức Thế Tôn
khen rằng:
- “Hay thay! Hay
thay! Nếu các vị phạm hạnh đến hỏi như thế, thầy nên trả lời
như vậy. Vì sao thế? Vì nói như thế nên biết đó là nghĩa”.
- Đức Thế Tôn hỏi
rằng:
- “Này Xá-lê Tử,
nếu có vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê
Tử, sự sanh do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì
làm gốc[06]?”
Thầy nghe những câu hỏi đó, trả lời như thế nào?”
- Tôn giả Xá-lê
Tử thưa:
- “Bạch Thế Tôn,
nếu các vị phạm hạnh đến hỏi con rằng: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử,
sự sanh do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm
gốc?” Con nghe như vậy sẽ trả lời rằng: ‘Này chư Hiền, sự sanh
lấy hữu làm nhân, lấy hữu làm duyên, từ hữu mà sanh, lấy hữu
làm gốc’. Bạch Thế Tôn, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi con như
thế, con sẽ trả lời như vậy”.
- Đức Thế Tôn
khen:
- “Hay thay! Hay
thay! Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy như thế,
thầy nên trả lời như thế. Vì sao thế? Vì nói như vậy nên biết
đó là nghĩa”.
- Đức Thế Tôn hỏi
rằng:
- “Này Xá-lê Tử,
nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê
Tử, hữu do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm
gốc?’ Thầy nghe những lời ấy sẽ trả lời thế nào?”
- Tôn giả Xá-lê
Tử thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
nếu các vị phạm hạnh đến hỏi con rằng ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử,
hữu do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm gốc?’
Bạch Thế Tôn con nghe như vậy, con sẽ trả lời thế này: ‘Này
chư Hiền, hữu lấy thủ[07]
làm nhân, lấy thủ làm duyên, từ thủ mà sanh, lấy thủ làm gốc.’
Bạch Thế Tôn, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi con như thế, con sẽ
trả lời như vậy.”
- Đức Thế Tôn
khen rằng:
- “Hay thay! Hay
thay! Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy như thế,
thầy nên trả lời như thế. Vì sao thế? Vì nói như vậy nên biết
đó là nghĩa”.
- Đức Thế Tôn hỏi
rằng:
- “Này Xá-lê Tử,
nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê
Tử, thủ do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm
gốc?’ Thầy nghe những lời ấy sẽ trả lời thế nào?”
- Tôn giả Xá-lê
Tử thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
nếu các vị phạm hạnh đến hỏi con rằng ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử,
thủ do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm gốc?”
Bạch Thế Tôn, con nghe như vậy, con sẽ trả lời thế này: ‘Này
chư Hiền, thủ lấy ái làm nhân, lấy ái làm duyên, từ ái mà
sanh, lấy ái làm gốc’. Bạch Thế Tôn, nếu các vị phạm hạnh đến
hỏi con như thế, con sẽ trả lời như vậy”.
- Đức Thế Tôn
khen rằng:
- “Hay thay! Hay
thay! Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy như thế,
thầy nên trả lời như thế. Vì sao thế? Vì nói như vậy nên biết
đó là nghĩa”.
- Đức Thế Tôn hỏi
rằng:
- “Này Xá-lê Tử,
nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê
Tử, thế nào là ái?’ Thầy nghe những lời ấy sẽ trả lời thế
nào?”
- Tôn giả Xá-lê
Tử thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
nếu các vị phạm hạnh đến hỏi con rằng ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử,
thế nào là ái?” Bạch Thế Tôn, con nghe như vậy, con sẽ trả lời
thế này: ‘Này chư Hiền, có ba cảm thọ[08];
cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ không lạc không khổ. Ở trong
đó mà ham muốn, đắm trước, đó gọi là ái’. Bạch Thế Tôn, nếu
các vị phạm hạnh đến hỏi con như thế, con sẽ trả lời như vậy”.
- Đức Thế Tôn
khen rằng:
- “Hay thay! Hay
thay! Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy như thế,
thầy nên trả lời như thế. Vì sao thế? Vì nói như vậy nên biết
đó là nghĩa”.
- Đức Thế Tôn hỏi
rằng:
- “Này Xá-lê Tử,
nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê
Tử, biết thế nào, thấy thế nào để đối với ba thọ không ham
muốn, đắm trước?” Thầy nghe vậy rồi trả lời thế nào?”
- Tôn giả Xá-lê
Tử thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
nếu các vị phạm hạnh đến hỏi rằng: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử,
biết thế nào, thấy thế nào để đối với ba thọ không ham muốn,
đắm trước?’ Nghe vậy rồi, con sẽ trả lời rằng: ‘Này chư Hiền,
ba thọ này là pháp vô thường pháp khổ, pháp diệt. Pháp vô
thường tức là khổ; thấy khổ rồi liền không còn ham muốn, đắm
trước đối với ba thọ’. Bạch Thế Tôn, nếu các vị phạm hạnh đến
hỏi như thế, con sẽ trả lời như vậy”.
- Đức Thế Tôn
khen rằng:
- “Hay thay! Hay
thay! Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy như thế,
thầy nên trả lời như thế. Vì sao thế? Vì nói như vậy nên biết
đó là nghĩa”.
- Bấy giờ Đức Thế
Tôn bảo rằng:
- “Này Xá-lê Tử,
lời nói này còn có ý nghĩa nữa để lời nói ấy có thể trả lời
vắn tắt. Này Xá-lê Tử, những gì được cảm thọ, những gì được
tạo tác, thảy đều là khổ[09].
Này Xá-lê Tử, đó gọi là còn một ý nghĩa nữa để lời nói ấy có
thể được trả lời vắn tắt”.
- Đức Thế Tôn hỏi
rằng:
- “Này Xá-lê Tử,
nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê
Tử, bội xả[10]
thế nào để tự tuyên bố là chứng đắc trí, biết như thật, rằng
‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong,
không còn tái sanh nữa?’”
- Tôn giả
Xá-lợi-phất thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, nếu có vị phạm hạnh đến
hỏi con thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, bội xả thế nào để tự
tuyên bố là chứng đắc trí, biết như thật, rằng ‘Sự sanh đã
dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn
tái sanh nữa?’ Con nghe như vậy sẽ trả lời thế này: ‘Này chư
Hiền, tôi do bội xả bên trong[11]
mà diệt tận các ái[12],
không kinh hãi, không sợ sệt, không nghi, không hoặc, thực
hành sự thủ hộ như vậy. Thủ hộ như thế rồi không sanh ra lậu
bất thiện[13]’.
Bạch Thế Tôn, nếu các vị phạm hạnh hỏi con như thế, con sẽ trả
lời như vậy.
- Đức Thế Tôn
khen rằng:
- “Hay thay! Hay
thay! Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy như thế,
thầy nên trả lời như thế. Vì sao thế? Vì nói như vậy nên biết
đó là nghĩa”.
- Đức Phật bảo
rằng:
- “Này Xá-lê Tử,
lời nói này còn có ý nghĩa nữa để lời nói ấy có thể trả lời
vắn tắt. ‘Đối với những kết sử mà Sa-môn nói đến[14],
những kiết sử ấy không tồn tại nơi ta, thực hành sự thủ hộ như
vậy; thủ hộ như thế rồi không còn sanh ra lậu bất thiện nữa’.
Này Xá-lê Tử, đó gọi là còn có ý nghĩa nữa để lời nói ấy có
thể trả lời vắn tắt”.
- Đức Thế Tôn nói
như vậy rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất tĩnh
tọa. Sau khi Đức Thế Tôn đi vào tịnh thất chẳng bao lâu, Tôn
giả Xá-lê Tử bảo các Tỳ-kheo rằng:
- “Này chư Hiền,
thoạt tiên tôi chưa kịp gợi ý mà Đức Thế Tôn lại hỏi ý nghĩa
đó, tôi đã nghĩ rằng sợ không trả lời được. Này chư Hiền, khi
tôi nói ra ý nghĩa thứ nhất liền được Đức Thế Tôn tán thán,
tôi lại nghĩ thế này: ‘Nếu Đức Thế Tôn trong một ngày một đêm,
với những lời khác với những câu khác, mà hỏi tôi về nghĩa
này, thì tôi vẫn có thể trong một ngày một đêm, với những lời
khác, câu khác mà trả lời Đức Thế Tôn về nghĩa ấy. Nếu Đức Thế
Tôn trong hai, ba, bốn ngày cho đến bảy ngày bảy đêm với những
lời khác câu khác mà hỏi tôi về nghĩa này, thì tôi vẫn có thể
trong hai, ba, bốn cho đến bảy ngày bảy đêm với những lời
khác, câu khác mà trả lời Đức Thế Tôn về nghĩa ấy’.”
- Tỳ-kheo Hắc Xỉ
nghe Tôn giả Xá-lê Tử nói những lời ấy rồi, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, vội đến chỗ Phật bạch rằng:
- “Sau khi Thế
Tôn vào tịnh thất chẳng bao lâu, Tôn giả Xá-lê Tử nói rất to
chẳng thua gì tiếng rống của sư tử, rằng: ‘Này chư Hiền, thoạt
tiên tôi chưa kịp gợi ý mà Đức Thế Tôn lại hỏi ý nghĩa đó, tôi
đã nghĩ rằng sợ không trả lời được. Này chư Hiền, khi tôi nói
ra ý nghĩa thứ nhất liền được Đức Thế Tôn tán thán, tôi lại
nghĩ thế này: Nếu Đức Thế Tôn trong một ngày một đêm, với
những lời khác với những câu khác, mà hỏi tôi về nghĩa này,
thì tôi vẫn có thể trong một ngày một đêm, với những lời khác,
câu khác mà trả lời Đức Thế Tôn về nghĩa ấy. Nếu Đức Thế Tôn
trong hai, ba, bốn ngày cho đến bảy ngày bảy đêm với những lời
khác câu khác mà hỏi tôi về nghĩa này, thì tôi vẫn có thể
trong hai, ba, bốn cho đến bảy ngày bảy đêm với những lời
khác, câu khác mà trả lời Đức Thế Tôn về nghĩa ấy’.”
- Đức Thế Tôn bảo
rằng:
- “Này Hắc Xỉ,
thật như vậy! Thật như vậy! Nếu Ta trong một ngày một đêm, với
những lời khác với những câu khác, mà hỏi Tỳ-kheo Xá-lê Tử về
nghĩa này, thì Tỳ-kheo Xá-lê Tử vẫn có thể trong một ngày một
đêm, với những lời khác, câu khác mà trả lời Ta về nghĩa ấy.
Này Hắc Xỉ, nếu Ta trong hai, ba, bốn ngày cho đến bảy ngày
bảy đêm với những lời khác câu khác mà hỏi Tỳ-kheo Xá-lê Tử về
nghĩa này, thì Tỳ-kheo Xá-lê Tử vẫn có thể trong hai, ba, bốn
cho đến bảy ngày bảy đêm với những lời khác, câu khác mà trả
lời Ta về nghĩa ấy. Vì sao thế? Này Hắc Xỉ, Tỳ-kheo Xá-lê Tử
đã thấu đạt sâu xa về pháp giới[15]
vậy”.
- Phật thuyết như
vậy, Tôn giả Xá-lê Tử và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết,
hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: S, XII.32, Kalāra-suttam.
-
[02]
Mâu-lợi-phá-quần-nậu. Pāli: Moliyaphagguna.
-
[03] Hắc Xỉ.
Pāli: Kalārakhattiya.
-
[04] Pāli: aññā
vyākatā, tuyên bố về cứu cánh trí.
-
[05] Hán: tùy kỳ
phương tiện. Pāli: yena kenaci pariyāyena, bằng pháp
môn (phương pháp) nào.
-
[06] Pāli: ki-nidānā
ki-samudayā ki-jātikā ki-bhavā, nguyên nhân gì, tập khởi
gì, chủng loại gì, tự thể gì?
-
[07] Hán: thọ, dịch
ngữ thông dụng là thủ. Pāli: upādāna.
-
[08] Hán: giác, từ
ngữ thông dụng là thọ. Pāli: vedāna.
-
[09] Pāli: ya kiñci
vedayita ta dukkhasmi ti, cái gì được cảm thọ, cái ấy ở
trong khổ.
-
[10] Hán: bối nhi bất
hướng, cũng nói là bối xả. Thông thường nói là giải
thoát; có tâm môn, mà diệt thọ tưởng định là cao nhất. Pāli:
vimokkha.
-
[11] Hán: nội bối nhi
bất hướng. Pāli: ajjhatta vimokkhā, sự giải thoát
bên trong (hay nội tâm).
-
[12] Pāli:
sabbupādānakkhayā, tất cả chấp thủ diệt tận.
-
[13] Pāli: yathā
sata viharanta āsavā ānussavanti, do sống chánh niệm như thế
các lậu không còn rỉ chảy.
-
[14] Pāli: ye āsavā
samanena vuttā, những lậu hoặc mà Sa-môn nói đến.
-
[15] Hán: thâm đạt
pháp giới. Pāli: Dhammadhātu-suppaividha, lý giải sâu
sắc về Pháp giới.
|