- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 03. PHẨM XÁ-LÊ TỬ TƯƠNG
ƯNG
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại thành Vương xá, trong rừng Trúc lâm, vườn Ca-lan-đa[02].
- Bấy giờ Tỳ-kheo
Cù-ni-sư[03]
cũng trú tại thành Vương xá, ở tại Vô sự thất[04],
cười đùa kiêu ngạo, tháo động, không chánh niệm như khỉ vượn[05].
Tỳ-kheo Cù-ni-sư vì có chút việc nên đến thành Vương xá.
- Bấy giờ Tôn giả
Xá-lê Tử cùng với chúng Tỳ-kheo sau giờ ngọ thực, vì có chút
việc nên vân tập tại giảng đường. Tỳ-kheo Cù-ni-sư sau khi đã
làm xong việc trong thành Vương xá, đi đến giảng đường. Tôn
giả Xá-lê Tử từ đằng xa trong thấy Cù-ni-sư đi đến. Nhân
Cù-ni-sư mà bảo các Tỳ-kheo rằng:
- “Này chư Hiền,
thầy Tỳ-kheo vô sự[06],
sống ở nơi vô sự, phải học sự kính trọng và biết tùy thuận
quán sát[07].
Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự mà phần
nhiều không kính trọng, không biết tùy thuận quán sát, thì sẽ
bị các Tỳ-kheo thường hay chỉ trích cật vấn: ‘Vị Hiền giả này
sống ở nơi vô sự mà làm gì? Vì sao thế? Vị Hiền giả này sống ở
nơi vô sự nhưng phần nhiều lại không biết kính trọng, không
biết tùy thuận quán sát’. Nếu đến ở trong đại chúng, cũng bị
các Tỳ-kheo thường hay chỉ trích, cật vấn. Do đó, này chư
Hiền, thầy Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học kính trọng
và biết tùy thuận quán.
- “Này chư Hiền,
thầy Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học hạnh không cười
giỡn, không tháo động[08].
Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự mà hay cười
giỡn, tháo động, thì sẽ bị các Tỳ-kheo thường hay chỉ trích
cật vấn: ‘Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà làm gì? Vì sao
thế? Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự nhưng hay cười giỡn,
tháo động’. Nếu đến ở trong đại chúng, cũng bị các Tỳ-kheo
thường hay chỉ trích, cật vấn. Do đó, này chư Hiền, Tỳ-kheo vô
sự, sống ở nơi vô sự, nên học hạnh không cười giỡn, không tháo
động.
- “Này chư Hiền,
Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học hạnh không nói những
đề tài súc sanh[09].
Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự mà hay nói
những vấn đề súc sanh, sẽ bị các Tỳ-kheo chỉ trích cật vấn:
‘Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà làm gì? Vì sao thế? Vị
Hiền giả này sống ở nơi vô sự nhưng hay nói những đề tài súc
sanh’. Nếu đến ở trong đại chúng, cũng bị các Tỳ-kheo thường
hay chỉ trích, cật vấn. Do đó, này chư Hiền, Tỳ-kheo vô sự,
sống ở nơi vô sự, nên học không nói những đề tài súc sanh.
- “Này chư Hiền,
Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học không kiêu ngạo và ít
nói năng. Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự mà
hay kiêu ngạo và nói năng nhiều sẽ bị các Tỳ-kheo chỉ trích
cật vấn: ‘Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà làm gì? Vì sao
thế? Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà lại hay kiêu ngạo và
nói năng nhiều’. Nếu đến ở trong đại chúng, cũng bị các
Tỳ-kheo thường hay chỉ trích, cật vấn. Do đó, này chư Hiền,
Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự nên học không kiêu ngạo và ít
nói năng.
- “Này chư Hiền,
Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học thủ hộ các căn. Này
chư Hiền, nếu Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự mà phần nhiều
không chịu thủ hộ các căn, sẽ bị các Tỳ-kheo chỉ trích cật
vấn: ‘Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà làm gì? Vì sao thế?
Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà phần nhiều không chịu thủ
hộ các căn. Nếu đến ở trong đại chúng, cũng bị các Tỳ-kheo
thường hay chỉ trích, cật vấn. Do đó, này chư Hiền, Tỳ-kheo vô
sự, sống ở nơi vô sự nên học thủ hộ các căn.
- “Này chư Hiền,
thầy Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học biết đủ trong sự
ăn uống. Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự mà
ham ăn quá dư, quá nhiều, không biết đủ, sẽ bị các Tỳ-kheo chỉ
trích cật vấn: ‘Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà làm gì? Vì
sao thế? Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà mà ham ăn quá dư,
quá nhiều, không biết đủ’. Nếu đến ở trong đại chúng, cũng bị
các Tỳ-kheo thường hay chỉ trích, cật vấn. Do đó, này chư
Hiền, Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự nên học biết đủ trong sự
ăn uống.
- “Này chư Hiền,
thầy Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học tinh tấn không
giải đãi. Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự mà
lại thường không tinh tấn, hay giải đãi, sẽ bị các Tỳ-kheo chỉ
trích cật vấn: ‘Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà làm gì? Vì
sao thế? Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà thường không tinh
tấn, trái lại còn giải đãi’. Nếu đến ở trong đại chúng, cũng
bị các Tỳ-kheo thường hay chỉ trích, cật vấn. Do đó, này chư
Hiền, Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự nên học tinh tấn, không
giải đãi.
- “Này chư Hiền,
Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học chánh niệm và chánh
trí. Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự mà
không học chánh niệm chánh trí, sẽ bị các Tỳ-kheo chỉ trích
cật vấn: ‘Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà làm gì? Vì sao
thế? Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà thường không có chánh
niệm chánh trí’. Nếu đến ở trong đại chúng, cũng bị các
Tỳ-kheo thường hay chỉ trích, cật vấn. Do đó, này chư Hiền,
Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự nên học chánh niệm chánh trí.
- “Này chư Hiền,
Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học biết thời và đúng
thời; không đi vào thôn khất thực quá sớm, cũng chẳng trở về
quá trễ. Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự mà
vào thôn khất thực quá sớm và trở về quá trễâ, sẽ bị các
Tỳ-kheo chỉ trích cật vấn: ‘Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự
mà làm gì? Vì sao thế? Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà vào
thôn khất thực quá sớm và trở về quá trễ’. Nếu đến ở trong đại
chúng, cũng bị các Tỳ-kheo thường hay chỉ trích, cật vấn. Do
đó, này chư Hiền, Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự nên học biết
thời và đúng thời.
- “Này chư Hiền,
Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học biết ngồi và ngồi
đúng chỗ; không lấn chỗ ngồi của vị Trưởng lão, bị Tỳ-kheo nhỏ
khiển trách[10].
Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự mà chiếm chỗ
ngồi của bậc trưởng lão, bị các Tỳ-kheo nhỏ quở trách, sẽ bị
các Tỳ-kheo chỉ trích cật vấn: ‘Vị Hiền giả này sống ở nơi vô
sự mà làm gì? Vì sao thế? Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà
chiếm chỗ ngồi của các bậc trưởng lão, bị các Tỳ-kheo nhỏ quở
trách’. Nếu đến ở trong đại chúng, cũng bị các Tỳ-kheo thường
hay chỉ trích, cật vấn. Do đó, này chư Hiền, Tỳ-kheo vô sự,
sống ở nơi vô sự nên học biết ngồi và ngồi đúng chỗ.
- “Này chư Hiền,
Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học thảo luận về Luật và
A-tì-đàm[11].
Vì sao thế. Này chư Hiền, khi Tỳ-kheo vô sự sống ở nơi vô sự,
hoặc có người đến hỏi về Luật và A-tì-đàm. Này chư Hiền, nếu
Tỳ-kheo vô sự sống ở nơi vô sự mà không biết trả lời về Luật
và A-tì-đàm, thì làm cho các Tỳ-kheo khác thường quở trách cật
vấn: ‘Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự mà làm gì? Vì sao thế?
Vị Hiền giả vô sự này sống ở nơi vô sự nhưng không biết trả
lời về Luật và A-tì-đàm’. Nếu đến ở giữa đại chúng cũng làm
cho các Tỳ-kheo thường chỉ trích cật vấn. Do đó, này chư Hiền,
Tỳ-kheo vô sự sống ở nơi vô sự nên học thảo luận về Luật và
A-tì-đàm.
- “Này chư Hiền,
thầy Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học thảo luận về
tịch tĩnh giải thoát[12]
và ly sắc[13]
cho đến vô sắc định[14].
Vì sao thế? Này chư Hiền, khi Tỳ-kheo vô sự sống ở nơi vô sự,
hoặc có người đến hỏi về tịch tĩnh giải thoát và ly sắc cho
đến vô sắc định. Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo vô sự sống ở nơi vô
sự mà không biết trả lời về tịch tĩnh giải thoát và ly sắc cho
đến vô sắc định thì làm cho các Tỳ-kheo khác thường quở trách
cật vấn: ‘Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự này mà làm gì? Vì
sao thế? Vị Hiền giả vô sự này sống ở nơi vô sự nhưng không
biết trả lời về tịch tĩnh giải thoát và ly sắc cho đến vô sắc
định’. Nếu đến ở giữa đại chúng cũng làm cho các Tỳ-kheo
thường chỉ trích cật vấn. Do đó, này chư Hiền, Tỳ-kheo vô sự
sống ở nơi vô sự nên học thảo luận về tịch tĩnh giải thoát và
ly sắc cho đến vô sắc định.
- “Này chư Hiền,
thầy Tỳ-kheo vô sự, sống ở nơi vô sự, nên học thảo luận về lậu
tận trí thông. Vì sao thế. Này chư Hiền, khi Tỳ-kheo vô sự
sống ở nơi vô sự, hoặc có người đến hỏi về lậu tận trí thông.
Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo vô sự sống ở nơi vô sự mà không biết
trả lời về lậu tận trí thông, thì làm cho các Tỳ-kheo khác
thường quở trách cật vấn: ‘Vị Hiền giả này sống ở nơi vô sự
này mà làm gì? Vì sao thế? Vị Hiền giả vô sự này sống ở nơi vô
sự nhưng không biết trả lời về lậu tận trí thông’. Nếu đến ở
giữa đại chúng cũng làm cho các Tỳ-kheo thường chỉ trích cật
vấn. Do đó, này chư Hiền, Tỳ-kheo vô sự sống ở nơi vô sự nên
học thảo luận về lậu tận trí thông”.
- Lúc ấy, Tôn giả
Đại Mục-kiền-liên cũng hiện diện trong đại chúng. Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên thưa rằng:
- “Thưa Tôn giả
Xá-lê Tử, chỉ những Tỳ-kheo vô sự sống ở nơi vô sự mới nên học
những pháp như vậy, chứ không phải là những Tỳ-kheo ở giữa
người đời[15]
sao?”
- Tôn giả Xá-lê
Tử trả lời rằng:
- “Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên, Tỳ-kheo vô sự sống ở nơi vô sự còn nên học
những pháp như vậy huống gì là Tỳ-kheo sống giữa nhân gian?”
- Như vậy hai vị
Tôn giả cùng khen tán lẫn nhau, tán thán “Lành thay!” Sau khi
nghe những điều được nói, từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi.
- Kính trọng,
không cười cợt,
Không phiếm luận, kiêu ngạo,
Hộ căn, ăn biết đủ,
Tinh tấn, chánh niệm, trí,
Biết thời, ngồi đúng chỗ,
Thảo luận Luật, Tỳ-đàm,
Và tịch tĩnh giải thoát,
Lậu tận thông cũng vậy.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Bản Hán, quyển
6. Tương đương Pāli: M. 69 Gulissāni-suttaṃ (bản Devanagari,
Goliyānisuttaṃ).
-
[02] Trúc lâm
Ca-lan-đa viên. Pāli: Veluvāne Kanlandakanivāpe.
-
[03] Cù-ni-sư.
Pāli: Gulissāni (Goliyāni).
-
[04] Hán: tại vô sự
thất. Pāli: (gulissāni nāma bhikkhu) āraññ iko,
(Tỳ-kheo Gulissāni) là người sống trong rừng (ẩn cư).
-
[05] Pāli: (āraññiko)
padasamācāro, (là ẩn sĩ sống trong rừng, nhưng) là người có
hành vi thô tháo.
-
[06] Vô sự Tỳ-kheo. Pāli: āraññaka-bhikku, Tỳ-kheo sống (ẩn cư) trong rừng.
-
[07] Pāli:
āraññkena...Bhikkhunā saghagatena saughe viharante
sabrahmacārisu sagāravena bhavitabba sappatussena, “Tỳ-kheo
tu hạnh sống ở rừng, khi đến sống giữa Tăng, cần phải tôn
trọng, cung kính các đồng phạm hạnh”.
-
[08] Hán: bất điệu
tiếu, bất táo nhiễu. Pāli: anuddhata, không trạo
cử, acapala, không náo động.
-
[09] Hán: súc sanh
luận. Pāli: tiracchāna-kathā, câu chuyện về thú vật;
chuyện vô ích, trở ngại sự tu tập. Nhưng, đoạn này, trong bản
Pāli tương đương: amukhararena bhavitabba avikiavācena,
không nên lắm lời, không nên nói tạp nhạp.
-
[10] Pāli: there ca
bhikkhū nānupakhajja nisīdissāmi nave ca bhikkhū na āsanena
paibāhissāmi, không chiếm chỗ ngồi của các Tỳ-kheo Thượng
tọa; không đuổi các vị tân Tỳ-kheo khỏi chỗ ngồi.
-
[11] Luật, A-tì-đàm. Pāli: abhivinaya, abhidhamma, chỉ phần tinh nghĩa của
luật (vinaya) và pháp (dhamma); không phải A-tì-đàm của Luận
tạng.
-
[12] Hán: tức giải
thoát. Pāli: santa-vimokka.
-
[13] Hán: ly sắc.
Pāli: atikkamma rūpe, vượt qua sắc pháp.
-
[14] Hán: nãi chí vô
sắc định. Pāli: āruppā tattha yogo karaīyo, tu tập
về các vô sắc.
-
[15] Hán: nhân gian
Tỳ-kheo. Pāli: gāmantavihārin, (Tỳ-kheo) sống tại các
thôn xóm.
|