- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 03-
PHẨM XÁ LÊ TỬ
TƯƠNG
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại thành Vương xá trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa,
cùng chúng Đại Tỳ-kheo an cư mùa mưa.
- Bấy giờ Tôn giả
Xá-lê Tử đang ở nước Xá-vệ cũng an cư mùa mưa.
- Lúc ấy, có một
Tỳ-kheo ở thành Vương xá, sau khi trải qua ba tháng an cư mùa
mưa xong, vá sửa lại các y, rồi xếp y, ôm bát từ thành Vương
xá đi đến nước Xá-vệ, ở trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
- Tỳ-kheo ấy đi
đến chỗ Tôn giả Xá-lê Tử, cúi đầu đảnh lễ dưới chân rồi ngồi
sang một bên.
- Tôn giả Xá-lê
Tử hỏi:
- “Này Hiền giả,
Thế Tôn an cư tại thành Vương xá. Thánh thể có được an khang
khỏe mạnh, không bệnh tật, đi lại thoải mái, khí lực bình
thường không?”
- Vị Tỳ-kheo đáp:
- “Thật vậy, bạch
Tôn giả Xá-lê Tử. Thế Tôn an cư tại thành Vương xá. Thánh thể
được an khang khỏe mạnh, không bệnh tật, đi lại thoải mái và
khí lực bình thường”.
- Lại hỏi:
- “Này Hiền giả,
đại chúng Tỳ-kheo và đại chúng Tỳ-kheo-ni an cư mùa mưa tại
thành Vương xá; Thánh thể có được an khang khỏe mạnh, không
bệnh tật, đi lại thoải mái, khí lực bình thường không? Có
thường xuyên thăm viếng Đức Phật và mong muốn được nghe pháp
không?”
- Đáp:
- “Thật vậy, bạch
Tôn giả Xá-lê Tử. Đại chúng Tỳ-kheo và đại chúng Tỳ-kheo-ni an
cư mùa mưa tại thành Vương xá; Thánh thể an khang khỏe mạnh,
không bệnh tật, đi lại thoải mái, khí lực bình thường. Có
thường xuyên thăm viếng Đức Phật và mong muốn được nghe pháp”.
- Lại hỏi:
- “Này Hiền giả,
chúng Ưu-bà-tắc và chúng Ưu-bà-di trú tại thành Vương xá, thân
thể có được an khang khỏe mạnh, không bệnh tật, đi lại thoải
mái, khí lực bình thường không? Có thường xuyên thăm viếng Đức
Phật và mong muốn được nghe pháp không?”
- Đáp:
- “Thật vậy, thưa
Tôn giả Xá-lê Tử. Chúng Ưu-bà-tắc và chúng Ưu-bà-di trú tại
thành Vương xá, thân thể có được an khang khỏe mạnh, không
bệnh tật, đi lại thoải mái, khí lực bình thường. Có thường
xuyên thăm viếng Đức Phật và mong muốn được nghe pháp”.
- Lại hỏi:
- “Này Hiền giả,
tất cả các Sa-môn, Phạm chí dị học an cư mùa mưa tại thành
Vương xá, thân thể có được an khang khỏe mạnh, không bệnh tật,
đi lại thoải mái, khí lực bình thường không? Có thường xuyên
thăm viếng Đức Phật và mong muốn được nghe pháp không?”
- Trả lời rằng:
- “Thật vậy, thưa
Tôn giả Xá-lê Tử, tất cả các Sa-môn, Phạm chí dị học an cư mùa
mưa tại thành Vương xá, thân thể có được an khang khỏe mạnh,
không bệnh tật, đi lại thoải mái, khí lực bình thường. Có
thường xuyên thăm viếng Đức Phật và mong muốn được nghe pháp”.
- Lại hỏi rằng:
- “Này Hiền giả,
tại thành Vương xá có một Phạm chí tên là Đà-nhiên[02],
vốn là bạn của tôi trước kia tôi chưa xuất gia[03];
Hiền giả có biết vị ấy không?”
- Trả lời rằng:
- “Thưa có biết”.
- Lại hỏi rằng:
- “Hiền giả, Phạm
chí Đà-nhiên ở thành Vương xá, thân thể có được an khang khỏe
mạnh, không bệnh tật, đi lại thoải mái, khí lực bình thường
không? Có thường xuyên thăm viếng Đức Phật và mong muốn được
nghe pháp không?”
- Đáp:
- “Tôn giả Xá-lê
Tử, Phạm chí Đà-nhiên ở thành Vương xá thân thể an khang khỏe
mạnh, không bệnh tật, đi lại thoải mái, khí lực bình thường,
nhưng không muốn thăm viếng Đức Phật và không ưa nghe pháp”.
- “Vì sao thế?”
- “Tôn giả Xá-lê
Tử, Phạm chí Đà-nhiên không tinh tấn, phạm vào các cấm giới.
Ông ấy dựa thế vua để dối gạt[04]
các Phạm chí, cư sĩ; dựa thế các Phạm chí, cư sĩ để dối gạt
vua[05]“.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi, và ba tháng an cư mùa mưa ở nước Xá-vệ đã qua,
sau khi vá sửa các y, ngài xếp y, ôm bát từ nước Xá-vệ đi đến
thành Vương xá, ở trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa.
- Bấy giờ đêm đã
qua, vào lúc sáng sớm, Tôn giả Xá-lê Tử, khoac y, ôm bát vào
thành Xá-vệ lần lượt đi khất thực. Sau khi khất thực xong,
ngài đi đến nhà của Phạm chí Đà-nhiên.
- Lúc ấy, Phạm
chí Đà-nhiên từ nhà đi ra, đến bên bờ suối, đang hành hạ cư
dân[06].
Phạm chí Đà-nhiên từ xa trông thấy Tôn giả Xá-lê Tử, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa áo, chắp tay hướng đến Tôn
giả giả Xá-lê Tử mà tán thán rằng:
- “Kính chào
Xá-lê Tử, đã lâu lắm rồi Xá-lê Tử không đến đây”.
- Rồi Phạm chí
Đà-nhiên, với lòng cung kính, ôm Tôn giả Xá-lê Tử dìu vào nhà,
trải giường đẹp mà mời ngồi. Tôn giả Xá-lê Tử liền ngồi trên
giường đó. Phạm chí Đà-nhiên thấy Tôn giả Xá-lê Tử đã ngồi
xuống, liền bưng một cái chậu sữa bằng vàng[07]
mời Tôn giả Xá-lê Tử ăn. Tôn giả Xá-lê Tử nói:
- “Thôi, thôi,
Đà-nhiên, chỉ trong lòng vui là đủ”.
- Phạm chí
Đà-nhiên lặp lại ba lần mời ăn. Tôn giả Xá-lê Tử cũng ba lần
nói rằng:
- “Thôi, thôi,
Đà-nhiên, chỉ trong lòng vui là đủ”.
- Lúc đó Phạm chí
Đà-nhiên nói rằng:
- “Xá-lê Tử, cớ
gì vào nhà như thế này mà chẳng chịu ăn?”
- Đáp:
- “Này Đà-nhiên,
ông không tinh tấn lại phạm vào các giới cấm. Dựa thế vào vua
để dối gạt Phạm chí, Cư sĩ; dựa thế Phạm chí, Cư sĩ để dối gạt
vua”.
- Phạm chí
Đà-nhiên trả lời rằng:
- “Xá-lê Tử, nên
biết, nay tôi còn sống tại gia, lấy gia nghiệp làm bổn phận.
Tôi còn phải lo cho mình được an ổn, cung cấp cha mẹ, săn sóc
vợ con, cung cấp nô tỳ, phải nộp thuế cho vua, thờ tự thiên
thần, cúng tế tổ tiên, và còn phải bố thí cho các Sa-môn, Phạm
chí để sau này còn được sanh lên các cõi trời, mong được
trường thọ, được quả báo an lạc. Xá-lê Tử, các việc ấy không
thể nào bỏ đi, một mực theo đúng pháp”.
- Bấy giờ Tôn giả
Xá-lê Tử bảo rằng:
- “Này Đà-nhiên,
nay tôi hỏi ông, tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Phạm chí
Đà-nhiên, ông nghĩ thế nào? Nếu có người vì cha mẹ mà tạo các
việc ác; vì tạo ác nên khi thân hoại mạng chung, đi thẳng vào
cõi ác, sanh vào địa ngục. Sanh vào địa ngục rồi, khi ngục tốt
bắt trói hành hạ rất khổ sở, người ấy hướùng về phía ngục tốt
mà nói thế này: ‘Ngục tốt, hãy biết cho, chớ hành hạ tôi. Vì
sao thế? Tôi đã vì cha mẹ tạo các nghiệp ác’. Thế nào,
Đà-nhiên, người ấy có thể nào từ ngục tốt mà thoát khỏi sự khổ
sở ấy không?”
- Phạm chí
Đà-nhiên trả lời rằng:
- “Không thể”.
- Lại hỏi:
- “Này Đà-nhiên,
ông nghĩ thế nào? Nếâu có người vì vợ con mà tạo các việc ác,
vì tạo ác nên khi thân hoại mạng chung, đi thẳng vào cõi ác,
sanh vào địa ngục. Sanh vào địa ngục rồi, khi ngục tốt bắt
trói hành hạ rất khổ sở, người ấy hướùng về phía ngục tốt mà
nói thế này: ‘Ngục tốt, hãy biết cho, chớ hành hạ tôi. Vì sao
thế? Tôi đã vì vợ con tạo các nghiệp ác’. Thế nào, Đà-nhiên,
người ấy có thể nào từ ngục tốt mà thoát khỏi sự khổ sở ấy
không?”
- Phạm chí
Đà-nhiên trả lời rằng:
- “Không thể”.
- Lại hỏi:
- “Này Đà-nhiên,
ông nghĩ thế nào? Nếâu có người vì nô tỳ mà tạo các việc ác,
vì tạo ác nên khi thân hoại mạng chung, đi thẳng vào cõi ác,
sanh vào địa ngục. Sanh vào địa ngục rồi, khi ngục tốt bắt
trói hành hạ rất khổ sở, người ấy hướùng về phía ngục tốt mà
nói thế này: ‘Ngục tốt, hãy biết cho, chớ hành hạ tôi. Vì sao
thế? Tôi đã vì nô tỳ tạo các nghiệp ác’. Thế nào, Đà-nhiên,
người ấy có thể nào từ ngục tốt mà thoát khỏi sự khổ sở ấy
không?”
- Phạm chí
Đà-nhiên trả lời rằng:
- “Không thể”.
- Lại hỏi:
- “Này Đà-nhiên,
ông nghĩ thế nào? Nếâu có người vì quốc vương, vì thiên thần,
vì tổ tiên, vì Sa-môn, Phạm chí mà tạo các việc ác, vì tạo ác
nên khi thân hoại mạng chung, đi thẳng vào cõi ác, sanh vào
địa ngục. Sanh vào địa ngục rồi, khi ngục tốt bắt trói hành hạ
rất khổ sở, người ấy hướùng về phía ngục tốt mà nói thế này:
‘Ngục tốt, hãy biết cho, chớ hành hạ tôi. Vì sao thế? Tôi đã
vì quốc vương, vì thiên thần, vì tổ tiên, vì Sa-môn, Phạm chí
mà tạo các nghiệp ác’. Thế nào, Đà-nhiên, người ấy có thể nào
từ ngục tốt mà thoát khỏi sự khổ sở ấy không?”
- Phạm chí
Đà-nhiên trả lời rằng:
- “Không thể”.
- “Này Đà-nhiên,
một tộc tánh tử[08],
vẫn có thể như pháp, như nghiệp, như công đức[09]
mà làm ra tiền của, để tôn trọng kính phụng, hiếu dưỡng cha
mẹ, làm các việc phước đức chớ chẳng gây nghiệp ác.
- Này Đà-nhiên,
nếu một tộc tánh tử như pháp, như nghiệp, như công đức, mà làm
ra tiền của, để tôn trọng, kính phụng, hiếu dưỡng cha mẹ, làm
các việc phước đức chớ chẳng gây nghiệp ác. Đà-nhiên, nếu một
tộc tánh tử như pháp, như nghiệp, như công đức mà làm ra tiền
của, để tôn trọng kính phụng, hiếu dưỡng cha mẹ, làm các việc
phước đức chớ chẳng gây nghiệp ác, người ấy được cha mẹ thương
yêu và nói thế này: ‘Mong cho con được mạnh khỏe, sống lâu vô
cùng. Vì sao thế?Vì ta nhờ con nên được an ổn khoái lạc’. Này
Đà-nhiên, nếu người nào được cha mẹ thương yêu rất mực, đức
người đó ngày càng tăng thêm, không bao giờ suy giảm.
- “Này Đà-nhiên,
một tộc tánh tử, vẫn có thể như pháp, như nghiệp, như công đức
mà làm ra tiền của, yêu thương và săn sóc vợ con, làm các
nghiệp phước đức chớ chẳng gây nghiệp ác.
- “Này Đà-nhiên,
nếu một tộc tánh tử như pháp, như nghiệp, như công đức, mà làm
ra tiền của, yêu thương và săn sóc vợ con, làm các nghiệp
phước đức chớ chẳng gây nghiệp ác, thì người ấy được vợ con
tôn trọng, và nói thế này: ‘Mong cho tôn trưởng được mạnh
khỏe, sống lâu vô cùng. Vì sao thế? Vì chúng tôi nhờ tôn
trưởng nên được an ổn khoái lạc’. Này Đà-nhiên, nếu người nào
được vợ con tôn trọng rất mực, đức người đó ngày càng tăng
thêm, không bao giờ suy giảm.
- “Này Đà-nhiên,
một tộc tánh tử, vẫn có thể như pháp, như nghiệp, như công đức
mà làm ra tiền của, yêu thương, chu cấp và săn sóc nô tỳ, làm
các nghiệp phước đức chớ chẳng gây nghiệp ác.
- “Này Đà-nhiên,
nếu một tộc tánh tử như pháp, như nghiệp, như công đức, mà làm
ra tiền của, yêu thương, chu cấp và săn sóc nô tỳ, làm các
nghiệp phước đức chớ chẳng gây nghiệp ác, thì người ấy được nô
tỳ tôn trọng, và nói thế này: ‘Mong cho đại gia được mạnh
khỏe, sống lâu vô cùng. Vì sao thế? Vì chúng tôi nhờ đại gia
nên được an ổn’. Này Đà-nhiên, nếu người nào được nô tỳ tôn
trọng rất mực, đức người đó ngày càng tăng thêm, không bao giờ
suy giảm.
- “Này Đà-nhiên,
một tộc tánh tử, vẫn có thể như pháp, như nghiệp, như công đức
mà làm ra tiền của, tôn trọng cúng dường các vị Sa-môn, Phạm
chí, làm các nghiệp phước đức chớ chẳng gây nghiệp ác.
- “Này Đà-nhiên,
nếu một tộc tánh tử như pháp, như nghiệp, như công đức, mà làm
ra tiền của, tôn trọng cúng dường các vị Sa-môn, Phạm chí, làm
các nghiệp phước đức chớ chẳng gây nghiệp ác, thì người ấy
được các Sa-môn, Phạm chí yêu mến rất mực, và nói thế này:
‘Mong cho thí chủ được mạnh khỏe, sống lâu vô cùng. Vì sao
thế? Vì chúng tôi nhờ thí chủ nên được an hưởng khoái lạc’.
Này Đà-nhiên, nếu người nào được các Sa-môn, Phạm chí yêu mến
rất mực, đức người đó ngày càng tăng thêm, không bao giờ suy
giảm”.
- Bấy giờ Phạm
chí Đà-nhiên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa áo, chắp
tay hướng về phía Xá-lê Tử thưa rằng:
- “Thưa Tôn giả
Xá-lê Tử, tôi có người vợ yêu tên là Đoan Chánh[10].
Tôi vì say mê nó nên đã buông lung, tạo quá nhiều ác nghiệp
tội lỗi. Thưa Tôn giả Xá-lê Tửû, bắt đầu từ đây tôi bỏ người
vợ Đoan Chánh kia, xin quy y với Tôn giả Xá-lê Tử”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử trả lời rằng:
- “Này Đà-nhiên,
ông chớ quy y tôi. Ông nên quy y nơi Phật là Đấng mà tôi quy
y”.
- Phạm chí
Đà-nhiên thưa rằng:
- “Thưa Tôn giả
Xá-lê Tử, từ hôm nay tôi xin quy y Phật, Pháp và Chúng
Tỳ-kheo. Cúi mong Tôn giả Xá-lê Tử nhận tôi làm Ưu-bà-tắùc của
Phật; trọn đời xin tự quy y cho đến mạng chung”.
- Thế rồi Tôn giả
Xá-lê Tử thuyết pháp cho Phạm chí Đà-nhiên, khuyên bảo, khích
lệ, thành tựu hoan hỷ. Sau khi dùng vô lượng phương tiện để
thuyết pháp khuyên bảo, khích lệ, thành tựu hoan hỷ. Ngài liền
từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến thành Vương xá.
- Ở đây được vài
ngày, ngài xếp y, ôm bát rời thành Vương xá ra đi, đến Nam sơn[11],
trụ trong rừng Thi-nhiếp-hòa[12],
thuộc phía Bắc thôn Nam sơn.
- Bấy giờ có một
vị Tỳ-kheo đi đến thành Vương xá. Ở đây được vài ngày, xếp y
ôm bát từ thành Vương xá ra đi, đến Nam sơn cũng trụ trong
rừng Thi-nhiếp-hòa, thuộc phía Bắc thôn Nam sơn.
- Rồi vị Tỳ-kheo
ấy đi đến chỗ Tôn giả Xá-lê Tử, cúi đầu đảnh lễ dưới chân rồi
ngồi sang một bên. Tôn giả Xá-lê Tử hỏi rằng:
- “Hiền giả từ
nơi nào tới đây và du hành ở đâu?”
- Tỳ-kheo ấy trả
lời rằng:
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, tôi từ thành Vương xá đi đến đây và du hành ở thành
Vương xá”.
- Lại hỏi rằng:
- “Hiền giả ngài
có biết Phạm chí Đà-nhiên ở thành Vương xá, vốn là bạn của tôi
xưa kia lúc tôi chưa xuất gia không?”
- “Thưa có biết”.
- Lại hỏi rằng:
- “Này hiền giả,
Phạm chí Đà-nhiên ở thành Vương xá, thân thể có được an khang
khỏe mạnh, không bệnh tật, đi lại thoải mái, khí lực bình
thường và có thường thăm viếng Đức Phật và mong muốn được nghe
pháp không?”
- Trả lời rằng:
- “Bạch Tôn giả
Xá-lợi-phất, Phạm chí Đà-nhiên thường đến thăm viếng Đức Phật
và mong muốn được nghe pháp; nhưng không được khỏe mạnh, khí
lực dần dần suy yếu. Vì sao vậy? Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, hiện
giờ Phạm chí Đà-nhiên mang tật bệnh rất khốn khổ, nguy hiểm
khôn chừng, do đó có thể mạng chung”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe xong lời ấy, liền xếp y ôm bát rời Nam sơn ra đi, đến
thành Vương xá, trú trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ
đêm đã qua, vào lúc sáng sớm, Tôn giả Xá-lê Tử khoác y, ôm bát
đi đến nhà Phạm chí Đà-nhiên. Phạm chí Đà-nhiên từ đằng xa
trông thấy Tôn giả Xá-lê Tử đi đến, muốn rời giường đứng dậy.
Tôn giả Xá-lê Tử thấy Phạm chí Đà-nhiên muốn rời giường đứng
dậy, liền ngăn ông ấy rằng:
- “Này Phạm chí
Đà-nhiên, ông cứ nằm, đừng đứng dậy. Đã có giường khác đây,
rồi tôi sẽ ngồi riêng”.
- Bấy giờ Tôn giả
Xá-lê Tử liền ngồi xuống giường ấy, rồi bảo rằng:
- “Hôm nay bệnh
tình ra sao? Ăn uống được nhiều ít? Sự đau đớn bớt dần, không
đến nỗi tăng thêm chăng?”
- Đà-nhiên trả
lời rằng:
- “Bệnh tình con
rất là khốn đốn, ăn uống chẳng được gì cả; đau đớn chỉ tăng
thêm mà không thấy giảm bớt tí nào. Thưa Tôn giả Xá-lê Tử,
giống như người lực sĩ đem con dao bén nhọn đâm vào đầu, chỉ
sanh sự khốn khổ quá mức thôi. Đầu con hôm nay cũng nhức nhối
giống như vậy. Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, cũng như lực sĩ lấy sợi
dây thừng chắt đem quấn riết chung quanh đầu, chỉ sanh sự khốn
khổ quá mức. Đầu con hôm nay cũng nhức nhối giống như vậy.
Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, cũng như người mổ trâu, đem con dao bén
mổ bụng trâu, chỉ sanh sự đau đớn quá mức. Bụng con hôm nay
cũng quặn đau giống như vậy. Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, cũng như
hai lực sĩ bắt một người ốm yếu đem nướng trên ngọn lửa, chỉ
sanh ra sự đau khổ đến cùng cực. Thân thể con hôm nay đau đớn,
cả mình sanh ra khổ sở, chỉ tăng thêm chớ không giảm bớt; cũng
giống như vậy”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử bảo rằng:
- “Này Đà-nhiên,
bây giờ tôi hỏi ông, tùy sự hiểu biết mà ông trả lời. Này Phạm
chí Đà-nhiên, địa ngục và súc sanh, nơi nào tốt đẹp hơn?”
- Đà-nhiên trả
lời rằng:
- “Súc sanh tốt
đẹp hơn”.
- Lại hỏi rằng:
- “Này Đà-nhiên,
súc sanh và ngạ quỉ, loài nào tốt đẹp hơn?”
- Đà-nhiên trả
lời rằng:
- “Ngạ quỉ tốt
đẹp hơn”.
- Lại hỏi rằng:
- “Này Đà-nhiên,
ngạ quỉ và loài người, loài nào tốt đẹp hơn?”
- Đà-nhiên trả
lời rằng:
- “Loài người tốt
đẹp hơn”.
- Lại hỏi rằng:
- “Này Đà-nhiên,
người và Tứ vương thiên, cõi nào tốt đẹp hơn?”
- Đà-nhiên trả
lời rằng:
- “Tứ thiên vương
tốt đẹp hơn”.
- Lại hỏi rằng:
- Này Đà-nhiên,
Tứ vương thiên và Tam thập tam thiên, cõi nào tốt đẹp?
- Đà-nhiên trả
lời rằng:
- “Tam thập tam
thiên tốt đẹp hơn”.
- Lại hỏi rằng:
- “Tam thập tam
thiên với Diệm ma thiên cõi nào tốt đẹp hơn?”
- Đà-nhiên trả
lời rằng:
- “Diệm ma thiên
tốt đẹp hơn.”
- Lại hỏi rằng:
- “Này Đà-nhiên,
Diệm ma thiên với Đâu-suất-đà thiên, cõi nào tốt đẹp hơn?”
- Đà-nhiên trả
lời rằng:
- “Đâu-suất-đà
thiên tốt đẹp hơn”.
- Lại hỏi rằng:
- “Này Đà-nhiên,
Đâu-suất-đà thiên với Hóa lạc thiên cõi nào tốt đẹp hơn?”
- Đà-nhiên trả
lời rằng:
- “Hóa lạc thiên
tốt đẹp hơn”.
- Lại hỏi rằng:
- “Này Đà-nhiên,
Hóa lạc thiên với Tha hóa lạc thiên, cõi nào tốt đẹp hơn?”
- Đà-nhiên trả
lời rằng:
- “Này Đà-nhiên,
Tha hóa lạc thiên với Phạm thiên cõi nào tốt đẹp hơn?”
- Đà-nhiên trả
lời rằng:
- “Phạm thiên là
tốt đẹp hơn cả. Phạm thiên là tối thắng”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử bảo rằng:
- “Đức Thế Tôn là
bậc tri kiến, là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, có nói
về bốn Phạm thất[13].
Nếu một tộc tánh nam tử hay một tộc tánh nữ nào tu tập nhiều,
đoạn dục, xả niệm tưởng về dục, khi thân hoại mạng chung sẽ
sanh lên cõi Phạm thiên. Những gì là bốn?
- “Này Đà-nhiên,
Thánh đệ tử đa văn có tâm câu hữu với từ, biến mãn một phương,
thành tựu và an trụ. Cũng vậy, với hai, ba bốn phương, tứ duy
và thượng hạ, thấu khắp tất cả, tâm câu hữu với từ, không kết,
không oán, không sân hận, không não hại, bao la, quảng đại, vô
lượng, khéo tu tập, biến mãn khắp tất cả thế gian, thành tựu
và an trụ. Cũng vậy, tâm câu hữu với bi, hỷ; với xả, biến mãn
một phương, thành tựu và an trụ. Cũng vậy, với hai, ba bốn
phương, tứ duy và thượng hạ, thấu khắp tất cả, tâm câu hữu với
từ, không kết, không oán, không sân hận, không não hại, bao
la, quảng đại, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn khắp tất cả thế
gian, thành tựu và an trụ. Đà-nhiên, đó là Đức Thế Tôn, là Bậc
Tri Kiến, là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, có nói về
bốn Phạm thất. Nếu một tộc tánh nam tử hay một tộc tánh nữ nào
tu tập nhiều, đoạn dục, xả niệm tưởng về dục, khi thân hoại
mạng chung sẽ sanh lên cõi Phạm thiên”.
- Bấy giờ, sau
khi giáo hóa cho Đà-nhiên, nói về pháp Phạm thiên, Tôn giả
Xá-lê Tử từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi. Tôn giả Xá-lê Tử từ thành
Vương xá đi, chưa đến Trúc lâm vườn Ca-lan-đa, đang nửa đường
ấy, Phạm chí Đà-nhiên do tu tập bốn Phạm thất, đoạn dục, xả
dục niệm, thân hoại mạng chung sanh lên cõi Phạm thiên.
- Bấy giờ Đức Thế
Tôn đang thuyết pháp cho vô lượng đại chúng đang vây quanh
trước sau. Đức Thế Tôn thấy Tôn giả Xá-lê Tử từ đàng xa đi
tới, nói với các thầy Tỳ-kheo rằng:
- “Tỳ-kheo Xá-lê
Tử là bậc thông tuệ, tốc tuệ, tiệp tuệ, lợi tuệ, quảng tuệ,
thâm tuệ, xuất yếu tuệ, minh đạt tuệ, biện tài tuệ[14];
Tỳ-kheo Xá-lê Tử đã thành tựu thật tuệ. Tỳ-kheo Xá-lê Tử đã
giáo hóa Phạm chí Đà-nhiên, nói về Phạm thiên rồi mới về đây.
Nếu lại giáo hóa cao hơn nữa thì người kia mau biết pháp, như
pháp[15]“.
- Bấy giờ Tôn giả
Xá-lê Tử đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân rồi ngồi
sang một bên. Đức Thế Tôn bảo rằng:
- “Này Xá-lê Tử,
vì sao ông không giáo hóa Phạm chí Đà-nhiên bằng một pháp cao
hơn Phạm thiên? Nếu ông giáo hóa cao hơn thì người kia sẽ mau
biết pháp, như pháp”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
các Phạm chí từ lâu đời ái trước Phạm thiên, ưa thích Phạm
thiên, cho Phạm thiên là rốt ráo, Phạm thiên là tôn quý, thật
có Phạm thiên là Phạm thiên của ta. Do đó, bạch Thế Tôn, nên
con đã giáo hóa như vậy”.
- Phật thuyết như
vậy. Tôn giả Xá-lê Tử và vô lượng trăm nghìn đại chúng, sau
khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: M.97. Dhānañjāni-suttam.
-
[02] Đà-nhiên.
Pāli: Dhānañjāna (cũng viết, Dhanañjāni).
-
[03] Pāli:
Taulapālidvārāya Dhānañjāni nāma brahmao atthi, “ở
Taulapālidvāra có một người Bà-la-môn tên là Dhānañjāni”;
không nói sự kiện là bạn cũ.
-
[04] Hán: khi cuống. Pāli: rājāna nissāya brāhmaagahapatike vilumpati, “dựa
thế vua cướp bóc các Bà-la-môn và gia chủ”.
-
[05] Pāli thêm chi
tiết: Vợ trước của ông là người có tín tâm, từ gia đình có tín
tâm (saddhā saddhākulā ātītā), còn bà vợ sau thì không.
-
[06] Hán: khổ trị cư
dân. Pāli: tena kho pana samayena Dhanañjāni brāhmao
bahinagare gāvo gohe dohapeti, “Lúc bấy giờ Bà-la-môn
Dhanañjāni đang sai người vắt sữa bò trong chuồng bò ở ngoài
thành”.
-
[07] Hán: kim táo
quán. Pāli: chỉ nói mời uống sữa.
-
[08] Hán: tộc tánh tử. Pāli: kulaputta, thiện gia nam tử, hay thiện nam tử,
người thuộc một trong bốn giai cấp.
-
[09] Hán: như pháp
như nghiệp như công đức. Pāli: Sahetukā dhammikā
kammantā: những nghề nghiệp đúng pháp, có nhân.
-
[10] Bản Pāli không
nói tên người vợ. Sự mê hoặc này, trong bản Pāli, là lời tường
thuật của vị Tỳ-kheo mà ngài Xá-lợi-phất hỏi thăm các tin tức
chứ không phải là lời tự thú của Đà-nhiên.
-
[11] Nam sơn.
Pāli: Dakkhiagiri, một ngọn núi ở phía Nam thành Vương xá.
-
[12] Rừng cây
sisapa; xem các cht. trên. Nam sơn Bắc thôn và Thi-nhiếp-hòa
lâm: không rõ các địa danh này.
-
[13] Phạm thất,
hay Phạm trú; Pāli: Brahmavihāra, đời sống (có phẩm tính)
như Phạm thiên, hay sống chung với Phạm thiên. Bản Pāli:
Brahmāa... Sahavyatāya magga desessāmi, “Ta sẽ nói về con
đường dẫn đến cọng trú với Phạm thiên”.
-
[14] Hán: thông tuệ,
tốc tuệ, tiệp tuệ, lợi tuệ, quảng tuệ, thâm tuệ, xuất yếu tuệ,
minh đạt tuệ, biện tài tuệ.Bản Pāli ở đây không nói các đặc điểm trí tuệ của ngài
Xá-lợi-phất, nhưng có thể tìm thấy đoạn tương đương M.iii, tr,
25: Paito (tuệ thông bác), mahāpānno (đại tuệ), javanapānno
(tuệ nhạy bén), tikkhapānno (tuệ sắc bén), nibbedhikapānno
(tuệ sâu sắc).
-
[15] Hán: tri pháp
như pháp; thường gặp trong bản Hán dịch này, mà tương
đương Pāli thường là dhamma-anudhamma, pháp và tùy pháp tức
những yếu tố phụ thuộc pháp. Đoạn văn này, Pāli tương đương:
(...) sati uttarikaraīye hine Brahmaloke patihāpetvā ...,
“trong khi có pháp cao hơn nữa cần chứng, nhưng lạïi xác lập ở
Phạm thiên giới...”
|