- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 03. PHẨM XÁ-LÊ TỬ TƯƠNG
ƯNG
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc[02].
- Bấy giờ Trưởng
giả Cấp Cô Độc[03]
mang bệnh hiểm nghèo. Lúc ấy Trưởng giả Cấp Cô Độc bảo sứ giả
rằng:
- “Ngươi hãy đi
đến chỗ Đức Phật, vì ta mà đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn hỏi
thăm sức khỏe, xem Thánh thể có được an khang, khỏe mạnh,
không bệnh tật, đi đứng thoải mái, khí lực có được bình thường
không? Rồi nói như vầy: ‘Trưởng giả Cấp Cô Độc cúi đầu đảnh lễ
dưới chân Phật, thăm hỏi Đức Thế Tôn Thánh thể có được an
khang, khỏe mạnh, không bệnh tật, đi đứng thoải mái, khí lực
có được bình thường không?’ Sau khi ngươi đã vì ta mà thăm hỏi
Đức Thế Tôn rồi hãy đi đến chỗ Tôn giả Xá-lê Tử, hãy vì ta mà
đảnh lễ dưới chân ngài rồi hỏi thăm Tôn giả xem Thánh thể có
được an khang, khỏe mạnh, không bệnh tật, đi đứng thoải mái,
khí lực có được bình thường không? Rồi nói như vầy: ‘Trưởng
giả Cấp Cô Độc cúi đầu đảnh lễ dưới chân Tôn giả Xá-lê Tử,
thăm hỏi Thánh thể có được an khang, khỏe mạnh, không bệnh
tật, đi đứng thoải mái, khí lực có được bình thường không?
Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, Trưởng giả Cấp Cô Độc đang mang bệnh
tật rất hiểm nghèo, nay đã đến hồi nguy kịch. Trưởng giả Cấp
Cô Độc với tâm chí thiết rất muốn được gặp Tôn giả Xá-lê Tử,
nhưng cơ thể quá yếu đuối không còn chút khí lực để đi đến chỗ
Tôn giả Xá-lê Tử được. Lành thay, Tôn giả Xá-lê Tử, xin ngài
hãy vì lòng từ, mong ngài đến nhà Trưởng giả Cấp Cô Độc’.”
- Bấy giờ, sau
khi vâng lời dạy của Trưởng giả Cấp Cô Độc, sứ giả liền đi đến
chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi đứng sang
một bên thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
Trưởng giả Cấp Cô Độc cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, thăm hỏi
Đức Thế Tôn Thánh thể có được an khang, khỏe mạnh, không bệnh
tật, đi đứng thoải mái, khí lực có được bình thường không?
- Đức Thế Tôn bảo
sứ giả rằng:
- “Mong cho
Trưởng giả Cấp Cô Độc an hưởng khoái lạc. Mong cho chư Thiên,
A-tu-la, Kiền-tháp-hòa, La-sát[04]
và các chủng lại khác, thân thể được an ổn khoái lạc”.
- Bấy giờ sứ giả
nghe Phật dạy như thế, ghi nhớ kỹ, cúi đầu đảnh lễ dưới chân
Phật, đi quanh ba vòng, rồi đi đến Tôn giả Xá-lê Tử, cúi đầu
đảnh lễ rồi ngồi sang một bên và thưa rằng:
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, Trưởng giả Cấp Cô Độc cúi đầu đảnh lễ dưới chân
ngài, xin thăm hỏi Tôn giả Thánh thể có được an khang, khỏe
mạnh, không bệnh tật, đi đứng thoải mái, khí lực có được bình
thường không? Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, Trưởng giả Cấp Cô Độc
đang mang bệnh tật rất hiểm nghèo, nay đã đến hồi nguy kịch.
Trưởng giả Cấp Cô Độc với tâm chí thiết rất muốn được gặp Tôn
giả Xá-lê Tử, nhưng cơ thể quá yếu đuối, không còn chút khí
lực để đi đến chỗ Tôn giả Xá-lê Tử được. Lành thay, Tôn giả
Xá-lê Tử, xin ngài hãy vì lòng từ, mong ngài đến nhà Trưởng
giả Cấp Cô Độc”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử liền im lặng nhận lời. Bấy giờ sứ giả biết Tôn giả Xá-lê Tử
đã im lặng nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh ba
vòng rồi ra về.
- Sau khi đêm đã
qua, vào lúc sáng sớm, Tôn giả Xá-lê Tử khoác y, ôm bát đi đến
nhà Trưởng giả Cấp Cô Độc. Trưởng giả Cấp Cô Độc thấy Tôn giả
Xá-lê Tử từ đàng xa đi đến, muốn từ giường ngồi dậy. Tôn giả
Xá-lê Tử thấy Trưởng giả Cấp Cô Độc muốn từ giường ngồi dậy,
liền cản lại rằng:
- “Này Trưởng
giả, chớ ngồi dậy. Còn giường khác đây, tôi sẽ ngồi riêng”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử liền ngồi lên giường ấy, rồi hỏi rằng:
- “Bệnh trạng của
Trưởng giả hôm nay thế nào? Ăn uống được nhiều ít? Sự đau đớn
giảm dần không đến nỗi tăng thêm chăng?”
- Trưởng giả Cấp
Cô Độc trả lời rằng:
- “Bệnh tình của
con rất nguy kịch, ăn uống chẳng được gì cả. Sự đau đớn chỉ
tăng thêm chứ không thấy giảm bớt chút nào”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử bảo rằng:
- “Này Trưởng giả
chớ sợ[05].
Vì sao vậy? Vì nếu là kẻ phàm phu ngu si, thành tựu bất tín,
thì khi thân hoại mạng chung sẽ đi thẳng đến ác xứ, sanh vào
địa ngục. Còn Trưởng giả ngày nay không hề có sự bất tín, mà
chỉ có sự thượng tín. Do thượng tín ấy Trưởng giả sẽ diệt được
sự đau nhức khổ sở, lại sanh ra khoái lạc vô cùng; hoặc do
thượng tín ấy sẽ chứng quả Tư-đà-hàm hay quả A-na-hàm vì
Trưởng giả vốn đã chứng quả Tu-đà-hoàn.
- “Trưởng giả chớ
sợ. Vì sao vậy? Vì nếu là kẻ phàm phu ngu si do ác giới, thì
khi thân hoại mạng chung sẽ đi thẳng đến ác xứ, sanh vào địa
ngục. Còn Trưởng giả không hề có ác giới, mà Trưởng giả chỉ có
thiện giới. Do thiện giới ấy Trưởng giả sẽ diệt được sự đau
nhức khổ sở, lại sanh ra khoái lạc vô cùng; hoặc do thiện giới
ấy sẽ chứng quả Tư-đà-hàm hay quả A-na-hàm vì trưởng giả vốn
đã chứng quả Tu-đà-hoàn.
- “Trưởng giả chớ
sợ. Vì sao vậy? Vì nếu là kẻ phàm phu ngu si không có đa văn,
thì khi thân hoại mạng chung sẽ đi thẳng đến ác xứ, sanh vào
địa ngục. Còn Trưởng giả không hề có sự không đa văn. Do đa
văn ấy Trưởng giả sẽ diệt được sự đau nhức khổ sở, lại sanh ra
khoái lạc vô cùng; hoặc do đa văn ấy sẽ chứng quả Tư-đà-hàm
hay quả A-na-hàm vì Trưởng giả vốn đã chứng quả Tu-đà-hoàn.
- “Trưởng giả chớ
sợ. Vì sao vậy? Vì nếu là kẻ phàm phu ngu si nhân có sự xan
tham, thì khi thân hoại mạng chung sẽ đi thẳng đến ác xứ, sanh
vào địa ngục. Còn Trưởng giả không hề có xan tham mà chỉ có
huệ thí. Do huệ thí ấy Trưởng giả sẽ diệt được sự đau nhức khổ
sở, lại sanh ra khoái lạc vô cùng; hoặc do huệ thí ấy sẽ chứng
quả Tư-đà-hàm hay quả A-na-hàm vì Trưởng giả vốn đã chứng quả
Tu-đà-hoàn.
- “Trưởng giả chớ
sợ. Vì sao vậy? Vì nếu là kẻ phàm phu ngu si nhân có ác tuệ,
thì khi thân hoại mạng chung sẽ đi thẳng đến ác xứ, sanh vào
địa ngục. Còn Trưởng giả không hề có ác tuệ mà chỉ có thiện
tuệ. Do thiện tuệ ấy Trưởng giả sẽ diệt được sự đau nhức khổ
sở, lại sanh ra khoái lạc vô cùng; hoặc do thiện tuệ ấy sẽ
chứng quả Tư-đà-hàm hay quả A-na-hàm vì Trưởng giả vốn đã
chứng quả Tu-đà-hoàn.
- “Này Trưởng giả
chớ sợ. Vì sao vậy? Vì nếu là kẻ phàm phu ngu si nhân có tà
kiến, thì khi thân hoại mạng chung sẽ đi thẳng đến ác xứ, sanh
vào địa ngục. Còn Trưởng giả không hề có tà kiến mà chỉ có
chánh kiến. Do chánh kiến ấy Trưởng giả sẽ diệt được sự đau
nhức khổ sở, lại sanh ra khoái lạc vô cùng; hoặc do chánh kiến
ấy sẽ chứng quả Tư-đà-hàm hay quả A-na-hàm vì Trưởng giả vốn
đã chứng quả Tu-đà-hoàn.
- “Trưởng giả chớ
sợ. Vì sao vậy? Vì nếu là kẻ phàm phu ngu si nhân có tà chí[06],
thì khi thân hoại mạng chung sẽ đi thẳng đến ác xứ, sanh vào
địa ngục. Còn Trưởng giả không hề có tà chí mà chỉ có chánh
chí. Do chánh chí ấy Trưởng giả sẽ diệt được sự đau nhức khổ
sở, lại sanh ra khoái lạc vô cùng; hoặc do chánh chí ấy sẽ
chứng quả Tư-đà-hàm hay quả A-na-hàm vì Trưởng giả vốn đã
chứng quả Tu-đà-hoàn.
- “Trưởng giả chớ
sợ. Vì sao vậy? Vì nếu là kẻ phàm phu ngu si nhân có tà giải,
thì khi thân hoại mạng chung sẽ đi thẳng đến ác xứ, sanh vào
địa ngục. Còn Trưởng giả không hề có tà giải mà chỉ có chánh
giải. Do chánh giải ấy Trưởng giả sẽ diệt được sự đau nhức khổ
sở, lại sanh ra khoái lạc vô cùng; hoặc do chánh giải ấy sẽ
chứng quả Tư-đà-hàm hay quả A-na-hàm vì Trưởng giả vốn đã
chứng quả Tu-đà-hoàn.
- “Trưởng giả chớ
sợ. Vì sao vậy? Vì nếu là kẻ phàm phu ngu si nhân có tà thoát,
thì khi thân hoại mạng chung sẽ đi thẳng đến ác xứ, sanh vào
địa ngục. Còn Trưởng giả không hề có tà thoát mà chỉ có chánh
thoát. Do chánh thoát ấy Trưởng giả sẽ diệt được sự đau nhức
khổ sở, lại sanh ra khoái lạc vô cùng; hoặc do chánh thoát ấy
sẽ chứng quả Tư-đà-hàm hay quả A-na-hàm vì Trưởng giả vốn đã
chứng quả Tu-đà-hoàn.
- “Trưởng giả chớ
sợ. Vì sao vậy? Vì nếu là kẻ phàm phu ngu si nhân có tà trí,
thì khi thân hoại mạng chung sẽ đi thẳng đến ác xứ, sanh vào
địa ngục. Còn Trưởng giả không hề có tà trí mà chỉ có chánh
trí. Do chánh trí ấy Trưởng giả sẽ diệt được sự đau nhức khổ
sở, lại sanh ra khoái lạc vô cùng; hoặc do chánh trí ấy sẽ
chứng quả Tư-đà-hàm hay quả A-na-hàm vì trưởng giả vốn đã
chứng quả Tu-đà-hoàn”.
- Bấy giờ bệnh
trạng của Trưởng giả Cấp Cô Độc liền được thuyên giảm, bình
phục như cũ[07],
từ chỗ nằm ngồi dậy, khen Tôn giả Xá-lê Tử rằng:
- “Lành thay!
Lành thay! Ngài thuyết pháp cho bệnh nhân, thật kỳ diệu, thật
hy hữu. Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, khi con nghe xong bài pháp giáo
hóa cho bệnh nhân ấy liền chấm dứt thống khổ, lại sanh khoái
lạc vô cùng. Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, bây giờ bệnh con đã thuyên
giảm hẳn, bình phục như cũ. Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, trước kia
nhân có chút việc cần làm, con đi đến thành Vương xá, tạm trú
trong nhà một Trưởng giả[08].
Lúc ấy vị Trưởng giả kia buổi sáng hôm sau sẽ cúng dường cơm
cho Đức Phật và Chúng Tỳ-kheo. Bấy giờ qua đêm ấy, lúc trời
gần sáng, vị Trưởng giả kia sai con cháu, nô tỳ, sứ giả và
quyến thuộc: ‘Các ngươi hãy dậy sớm, cùng nhau bày biện, trang
hoàng’. Những người kia đều vâng lời, cùng nhau xếp việc bếp
núc, bày biện cỗ bàn với những loại ngon đẹp. Còn Trưởng giả
đích thân trải bày một chỗ ngồi cao, trang nghiêm vô lượng.
- “Thưa Tôn giả
Xá-lê Tử, sau khi thấy vậy, con liền nghĩ thế này: ‘Hôm nay vị
Trưởng giả này có việc hôn nhân hay lễ hội rước dâu, hay việc
thỉnh Quốc vương hay việc mời Đại thần, mà lại sắm sửa tiệc
cơm, mở cuộc đãi đằng lớn như vậy?’
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, suy nghĩ như vậy rồi, con liền hỏi vị Trưởng giả kia
rằng:
- “– Ông vì việc
hôn nhân hay vì lễ hội rước dâu, việc thỉnh Quốc vương hay
việc mời Đại thần, mà lại sắm sửa tiệc cơm, mở cuộc đãi đằng
lớn như vậy?
- “Lúc ấy vị
Trưởng giả kia liền trả lời con rằng:
- “– Tôi không
phải vì việc hôn nhân, việc thỉnh Quốc vương hay việc mời Đại
thần, nhưng tôi sắm sửa tiệc cơm, thi thiết cuộc đại thí, vì
sáng nay tôi sẽ cúng cơm cho Đức Phật và chúng Tỳ-kheo.
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, vì con chưa từng được nghe danh hiệu Đức Phật, nên
khi nghe rồi toàn thân lông dựng ngược. Con lại hỏi rằng:
- “– Trưởng giả
nói Phật, vậy thế nào là Phật?
- “Lúc ấy vị
Trưởng giả kia trả lời con rằng:
- “– Ông chưa
được nghe sao? Có vị dòng dõi họ Thích, từ giã dòng họ Thích,
cạo bỏ râu tóc, khoác y ca-sa, với lòng tin chí thiết, lìa bỏ
gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, chứùng quả Vô
thượng Chánh đẳng chánh giác. Vị ấy được gọi là Phật.
- “Con lại hỏi
rằng:
- “– Trưởng giả
vừa nói chúng[09].
Vậy thế nào là đại chúng?
- “Bấy giờ vị
Trưởng giả kia trả lời con rằng:
- “– Còn có rất
nhiều vị, có dòng họ và tông tộc khác nhau, cạo bỏ râu tóc,
khoác y ca-sa, với lòng tin chí thiết, lìa bỏ gia đình, sống
không gia đình, để theo Phật đạo. Đó gọi là Chúng. Đức Phật và
chúng ấy, tôi sắp thỉnh đến.
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, con lại hỏi vị Trưởng giả ấy rằng:
- “– Đức Thế Tôn
bây giờ đang ở nơi nào? Tôi muốn đi đến thăm.
- “Bấy giờ vị
Trưởng giả kia trả lời con rằng:
- “– Đức Thế Tôn
hiện đang ở thành Vương xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa.
Ông có muốn đến đó thì tùy ý.
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, lúc ấy con nghĩ thế này: “Mong cho mau sáng để nhanh
chóng đi đến thăm Phật. Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, bấy giờ với tâm
chí thành, con muốn đến thăm Phật, nên lúc đang đêm ấy mà
tưởng đã sáng rồi, liền từ nhà vị Trưởng giả kia ra đi, đến
trạm dừng nơi cổng thành[10].
Bấy giờ tại trạm dừng nơi cổng thành có hai người lính gác,
một người gác đầu hôm thì cho hành khách bên ngoài vào thành,
không làm trở ngại gì, một người gác cuối đêm thì cho hành
khách ở trong thành đi ra cũng không làm trở ngại gì. Thưa Tôn
giả Xá-lê Tử, con lại nghĩ thế này: ‘Đêm hãy còn chưa sáng
lắm. Vì sao vậy? Vì ở tại cổng thành có hai người lính gác;
một người gác đầu hôm thì cho hành khách bên ngoài vào thành,
không làm trở ngại gì; một người gác cuối đêm thì cho hành
khách ở trong thành đi ra cũng không làm trở ngại gì’. Thưa
Tôn giả Xá-lê Tử, con vượt qua trạm dừng chân ở cửa thành để
đi ra bên ngoài không lâu, ánh sáng biến mất và trời tối hẳn
lại. Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, toàn thân lông dựng ngược, con
liền sợ hãi, mong sao đừng có người nào hay loài phi nhân đến
xúc nhiễu con. Bấy giờ, tại trại dừng chân ở cửa thành có một
vị trời[11],
từ thành Vương xá đến Trúc lâm, vườn Ca-lan-đà, ánh sáng tỏa
chiếu khắp nơi, đến bảo con rằng: ‘Này Trưởng giả, chớ sợ. Vì
sao vậy? Tôi kiếp trước đây vốn là bằng hữu của ông, tên thật
là Mật Khí[12],
vào lúc còn trẻ tuổi chúng ta rất yêu mến nhau. Này Trưởng
giả, thuở xưa ấy, tôi đi đến chỗ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên,
cúi đầu đảnh lễ dưới chân rồi ngồi sang một bên. Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên thuyết pháp cho tôi, khuyên bảo, khích lệ, thành
tựu hoan hỷ. Sau khi dùng vô lượng phương tiện để thuyết pháp,
khuyên bảo, khích lệ, thành tựu hoan hỷ cho tôi rồi, ngài ban
cho tôi pháp ba tự quy, và trao cho năm giới. Này Trưởng giả,
tôi do ba tự quy y và thọ trì năm giới, nên khi thân hoại mạng
chung sanh lên trời Tứ vương thiên, sống ở trong trạm dừng tại
cổng thành này. Trưởng giả hãy đi mau lên, Trưởng giả hãy đi
vội lên, quả thật đi tốt hơn là đứng lại.
- “Vị trời ấy nói
lên bài kệ để khuyên con như sau:
- “Được trăm
ngựa, nữ tỳ,
- Trăm xe đầy
châu báu;
- Không bằng
phần mười sáu
- Một bước đi
đến Phật.
- Trăm voi
trắng tối thượng,
- Thắng yên
cương vàng bạc;
- Không bằng
phần mười sáu
- Một bước đi
đến Phật.
- Trăm nữ nhân
đẹp đẽ,
- Đeo chuỗi
ngọc tràng hoa;
- Không bằng
phần mười sáu,
- Một bước đi
đến Phật.
- Chuyển luân
vương kính trọng
- Báu ngọc nữ
bậc nhất;
- Không bằng
phần mười sáu,
- Một bước đi
đến Phật.
- “Vị trời nói
tụng xong, rồi khuyên con rằng:
- “– Này Trưởng
giả, đi nhanh lên. Này Trưởng giả, đi nhanh lên. Quả thật đi
tốt hơn đứng lại.
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, con lại nghĩ thế này: ‘Đức Phật có ân đức che chở
bao trùm. Pháp và Chúng Tỳ-kheo cũng có ân đức bao trùm. Vì
sao vậy, cho đến bậc trời cũng muốn ta đến yết kiến’. Bạch Tôn
giả Xá-lê Tử, con do ánh sáng ấy mà đi đến Trúc lâm, vườn
Ca-lan-đa. Bấy giờ đêm còn chưa sáng tỏ, Đức Thế Tôn từ thiền
thất đi ra, kinh hành ở khoảng đất trống để chờ con. Bạch Tôn
giả Xá-lê Tử, từ xa con trông thấy Đức Thế Tôn đẹp đẽ trang
nghiêm như mặt trăng giữa các vì tinh tú, ánh sáng chói lọi
rực rỡ, sáng rực như tòa núi toàn vàng, đầy đủ tướng tốt, oai
thần vời vợi, các căn tịch tĩnh, chẳng có gì che khuất, thành
tựu điều ngự, tức tâm tĩnh mặc. Con thấy rồi liền hoan hỷ đi
đến trước Đức Phật, đảnh lễ sát dưới chân, rồi kinh hành theo
Ngài, theo pháp của bậc Trưởng giả mà nói bài tụng thăm hỏi
rằng:
- “Thế Tôn ngủ
an ổn,
- Đến trọn đêm
khỏe chăng?
- Như Phạm chí
diệt độ,
- Vì không
nhiễm trước dục.
- Xả ly tất cả
nguyện,
- Được an ổn
vô cùng.
- Tâm trừ
không nóng bức
- Ngủ an lạc
vui vẻ.
- “Bấy giờ Đức
Thế Tôn vừa đi đến cuối đường kinh hành, liền trải Ni-sư-đàn,
ngồi kiết già. Bạch Tôn giả Xá-lê Tử. Lúc ấy, con đảnh lễ dưới
chân Phật rồi ngồi sang một bên. Đức Thế Tôn thuyết pháp cho
con, khuyên bảo, khích lệ, thành tựu hoan hỷ cho con rồi, như
pháp thông lệ của chư Phật, trước nói pháp đoan chánh, để
người nghe hoan hỷ. Đó là nói thí, nói giới, nói pháp sanh
thiên, chê dục vọng là tai họa, sanh tử là nhơ uế; ngợi khen
vô dục là đạo phẩm vi diệu, bạch tịnh. Đức Thế Tôn nói những
pháp như vậy cho con nghe rồi, Đức Phật biết con có tâm hoan
hỷ, tâm cụ túc, tâm nhu nhuyến, tâm kham nhẫn, tâm vươn lên,
tâm chuyên nhất, tâm không nghi, tâm không che lấp, có khả
năng kham thọ chánh pháp, nghĩa là những điều chánh yếu nào mà
chư Phật nói ra; Thế Tôn liền nói: Khổ, Tập, Diệt, Đạo cho
con. Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, ngay khi con ngồi đấy đã thấy được
bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng như tấm vải trắng dễ
nhuộm thành màu sắc, con cũng như vậy, ngay trên chỗ đang ngồi
đã thấy bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Thưa Tôn giả Xá-lê
Tử, con đã thấy pháp, đắc pháp, giác ngộ pháp bạch tịnh, đoạn
nghi, độ hoặc, không còn tôn sùng ai, cũng chẳng theo người
khác, không còn do dự, đã trụ nơi quả chứng, được sự không sợ
hãi đối với giáo pháp Đức Thế Tôn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy
đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch rằng:
- “– Bạch Thế
Tôn, con hôm nay tự quy y Phật, Pháp và Chúng Tỳ-kheo. Xin
nguyện Thế Tôn chấp nhận cho con làm Ưu-bà-tắùc; bắt đầu từ
hôm nay sẽ trọn đời tự quy y, cho đến lúc mạng chung.
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, con liền chắp tay thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
ngưỡng mong Thế Tôn nhận lời mời của con cùng Chúng Tỳ-kheo
đến nước Xá-vệ để an cư mùa mưa.
- “Lúc ấy Đức Thế
Tôn hỏi con rằng:
- “– Ông tên là
gì, nhân dân nước Xá-vệ gọi ông là gì?
- “Con liền trả
lời rằng:
- “– Con tên là
Tu-đạt-đa[13].
Vì con thường cung cấp cho những người cô độc, do đó nhân dân
nước Xá-vệ gọi con là Cấp Cô Độc[14].
- “Bấy giờ Đức
Thế Tôn lại hỏi con rằng:
- “– Tại nước
Xá-vệ, ông đã có phòng xá gì chưa?
- “Con trả lời
rằng:
- “– Tại nước
Xá-vệ con chưa có phòng xá gì cả.
- “Bấy giờ Đức
Thế Tôn bảo con rằng:
- “– Nếu có phòng
xá thì các Tỳ-kheo mới có thể vãng lai, mới có thể trú ngụ
được.
- “Con lại thưa
rằng:
- “– Thật vậy,
bạch Thế Tôn. Vì thế con sẽ xây cất phòng xá để các thầy
Tỳ-kheo có thể vãng lai, và có thể trú ngụ nước Xá-vệ. Mong
Đức Thế Tôn cho một vị đến giúp con.
- “Bấy giờ Đức
Thế Tôn liền sai Tôn giả Xá-lê Tử; khiến Tôn giả Xá-lê Tử đến
giúp đỡ[15].
- “Bấy giờ sau
khi nghe Đức Phật dạy xong, con khéo léo ghi nhớ, liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ Phật, đi quanh ba vòng rồi ra về.
- “Khi công việc
cần làm tại thành Vương xá đã hoàn tất, con cùng Tôn giả Xá-lê
Tử đi đến nước Xá-vệ. Nhưng không vào nước Xá-vệ, cũng chẳng
trở về nhà mà lập tức đi dạo khắp nơi bên ngoài thành để xem
chỗ nào có thể đi lại tốt nhất, ban ngày không ồn ào, ban đêm
thì tịch tĩnh, không có muỗi mòng, cũng không ruồi bọ, không
lạnh, không nóng, có thể xây phòng xá để cúng dường Đức Phật
và đại chúng.
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, bấy giờ con chỉ thấy vườn của Thắng Đồng tử[16]
là đi lại tốt nhất, ban ngày không ồn ào, ban đêm thì tịch
tĩnh, không có muỗi mòng, cũng không ruồi bọ, không lạnh,
không nóng. Con thấy rồi liền suy nghĩ thế này: ‘Chỉ có chỗ
này là tốt nhất để xây cất phòng xá để cúng dường Phật và đại
chúng’. Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, lúc ấy con vào nước Xá-vệ,
nhưng cũng chưa về nhà, liền đi đến chỗ Thắng Đồng tử thưa
rằng:
- “– Thưa Đồng
tử, ngài có thể bán khu vườn kia lại cho tôi không?
- “Bấy giờ Đồng
tử bảo con rằng:
- “– Trưởng giả
nên biết, tôi không bán khu vườn đâu.
- “Cứ như vậy lần
hai rồi lần ba, con thưa rằng:
- “– Thưa Đồng
tử, ngài có thể bán khu vườn kia lại cho tôi không?
- “Bấy giờ Đồng
tử cũng lại lần thứ hai, lần thứ ba bảo rằng:
- “– Tôi không
bán khu vườn đâu. Chỉ khi nào ức ức[17]
trải đầy.
- “Con liền thưa
rằng:
- “– Này Đồng tử,
ngài đã quyết định giá cả, chỉ còn việc trao tiền nữa thôi.
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, người thì nói đã quyết định giá cả, người thì nói
chưa quyết định giá cả, cùng nhau tranh tụng lớn. Rồi dắt nhau
đến pháp đình[18]
nước Xá-vệ để phán quyết về việc này. Bấy giờ vị pháp quan[19]
nước Xá-vệ bảo Thắng Đồng tử rằng:
- “– Này Đồng tử,
thế là ngươi đã quyết định giá cả rồi, chỉ còn việc nhận tiền
nữa thôi.
- “Thưa Tôn giả
Xá-lê Tử, con liền vào nước Xá-vệ, trở về nhà lấy tiền, dùng
voi ngựa và xe cộ để chuyên chở các kho lẫm đem đến, đã xuất
ra tới ức ức để trải khắp mặt đất, nhưng còn vài chỗ chưa khắp
đến. Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, con nghĩ như vầy: Nên xuất ở kho
nào nữa để đem đến trải khắp chỗ dư này, không thừa cũng không
thiếu? Bấy giờ Thắng Đồng tử liền bảo con rằng:
- “– Này Trưởng
giả, nếu có ăn năn về số tiền này thì hãy tự mang trở về, khu
vườn trả lại cho tôi.
- “Con bảo với
Đồng tử rằng:
- “– Quả thật tôi
không có ăn năn; mà tôi còn suy nghĩ xem nên lấy ở kho nào nữa
để mang trải khắp chỗ dư này không thừa cũng không thiếu.
- “Bấy giờ Thắng
đồng tử liền suy nghĩ như vầy: ‘Đức Thế Tôn hẳn là một bậc cao
cả, có đức hựu lớn. Pháp và Đại chúng Tỳ-kheo hẳn cũng là rất
cao cả, có đức hựu lớn. Vì sao thế? Vì có vậy mới làm cho
Trưởng giả thi thiết sự cúng dường vĩ đại, coi rẻ của cải đến
thế. Nay ta có lẽ xây cất nhà cổng ngay nơi này để cúng dường
Đức Phật và Đại chúng Tỳ-kheo’. Rồi Thắng Đồng tử liền bảo vói
con rằng:
- “– Này Trưởng
giả, hãy thôi đi, đừng xuất tiền để trả khoảng đất còn lại
nữa. Vì ngay chỗ này tôi sẽ cất cất nhà cổng cúng dường Đức
Phật và đại chúng Tỳ-kheo.
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, vì lòng từ mẫn nên con đồng ý để lại chỗ ấy cho
Thắng Đồng tử.
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, rồi ngay trong mùa hạ ấy, con cho xây mười sáu dãy
nhà lớn[20],
sáu mươi câu-hi[21].
Tôn giả Xá-lê Tử giúp đỡ con việc ấy. Thế nhưng Tôn giả Xá-lê
Tử thuyết pháp để giáo hóa người bệnh, còn rất kỳ diệu, hy hữu
hơn. Con nghe bài pháp giáo hóa người bệnh này rồi, bệnh khổ
quá nặng nề ấy liền được giảm bớt, lại phát sanh ra sự an lạc
vô cùng.
- “Bạch Tôn giả
Xá-lê Tử, bây giờ con không còn bệnh nữa, và được an ổn. Mong
Tôn giả Xá-lê Tử ở lại đây thọ trai”.
- Bấy giờ Tôn
giả Xá-lê Tử im lặng nhận lời. Lúc ấy Trưởng giả biết Tôn giả
Xá-lê Tử đã im lặng nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, tự
mình lấy nước rửa, đem tất cả các thứ đồ ăn ngon, tinh khiết,
dồi dào, các loại nhai và nuốt[22],
tự tay dọn sớt, cho đến khi Tôn giả được no đủ. Ăn xong, dọn
dẹp và lấy nước rửa tay xong, ông trải một chỗ ngồi nhỏ, ngồi
riêng để nghe pháp.
- Sau khi Trưởng
giả ngồi xong, Tôn giả Xá-lê Tử thuyết pháp cho ông khuyên
bảo, khích lệ, thành tựu hoan hỷ. Sau khi dùng vô lượng phương
tiện thuyết pháp, khuyên bảo, khích lệ, thành tựu hoan hỷ cho
Trưởng giả rồi, Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.
- Bấy giờ Đức Thế
Tôn đang thuyết pháp cho vô lượng đại chúng vây quanh trước
sau. Từ đàng xa Đức Thế Tôn thấy Tôn giả Xá-lê Tử đi lại, liền
bảo các Tỳ-kheo rằng:
- “Tỳ-kheo
Xá-lợi-phất là bậc thông tuệ, tốc tuệ, tiệp tuệ, lợi tuệ,
quảng tuệ, thâm tuệ, xuất yếu tuệ, minh đạt tuệ, biện tài tuệ,
Tỳ-kheo Xá-lợi-phất đã thành tựu thật tuệ[23].
Vì sao vậy? Vì về bốn hạng Tu-đà-hoàn[24]
mà ta đã nói sơ lược, thì Tỳ-kheo Xá-lợi-phất triển khai thành
mười hạng để nói cho Trưởng giả Cấp Cô Độc.
- Đức Phật thuyết
như vậy, các Tỳ-kheo nghe Phật nói xong hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, M.143. Ānathapiṇḍikovāda-sutta. Biệt dịch No.125(51.8),
Tăng Nhất 49, “phẩm Phi Thường, kinh số 8” (Đại 2, tr.819).
-
[02] Xá-vệ quốc,
Thắng lâm, Cấp cô độc viên. Pāli:
Sāvatthiyaṃ Jetavane Anāthapiikassa ārame.
-
[03] Trưởng giả Cấp
Cô Độc; Pāli, Ānathapiika, đại phú hộ đã dựng một
tịnh xá tại rừng Thắng lâm (Jetavana) để cúng dường Phật.
-
[04] A-tu-la,
Kiền-tháp-hòa, La-sát. Pāli: asura,
gandhabba, rakkhasa.
-
[05] Nội dung bài
thuyết pháp sau đây không đồng nhất với bản Pāli tương đương.
-
[06] Tà chí, tức
tà tư duy, đối lập với chánh tư duy trong Thánh đạo tám chi.
-
[07] Bản Pāli, sau
đó, khi Sāriputta đi khỏi, Trưởng giả Cấp Cô Độc mạng chung.
-
[08] Từ đây trở
xuống, nội dung tương đương được tìm thấy trong luật bộ Pāli.
-
[09] Chúng, tức
tăng(-già), Pāli: sagha.
-
[10] Hán: Thành tức
môn; Pāli: Sivakadvāra.
-
[11] Pāli, đã dẫn,
một Dạ-xoa tên là Sīvaka.
-
[12] Mật khí.
-
[13] Tu-đạt-đa.
Pāli, VI. đã dẫn, chép ngay khi vừa trong thấy Trưởng giả,
Phật gọi ngay tên “Sudatta, hãy đến đây, Sudattā”, sự kiện này
khiến ông phấn khởi.
-
[14] Cấp Cô Độc. Pāli: Anāthapiika.
-
[15] Các chi tiết
liên hệ luật tạng. Luật Pāli và bản hán khác nhau.
-
[16] Thắng Đồng tử. Vin.ii.154ff. Jetakomara, con trai vua Pasenadi
(Ba-tư-nặc), về sau bị vua Vidudabha người em trai cùng cha
khác mẹ giết vì khước từ tham gia cuộc chiến tàn sát dòng họ
Thích. Các phiên âm quen thuộc khác: Kỳ-đà Thái tử,
Thê-đa.
-
[17] Cả Vin.ii. đã
dẫn, cũng không nói loại tiền gì.
-
[18] Hán: đại quyết
đoán xứ.
-
[20] Hán: đại ốc,
tức Pāli: vihāra (tinh xá).
-
[21] Hán: câu-hi,
tức Pāli: kohaka, chỉ nhà kho, phòng hay phòng kín.
-
[22] Hán: thực đạm
hàm tiêu, loại thực phẩm cần phải cắn, và loại ngậm
cho tiêu.
-
[23] Xem cht.14, kinh
số 27.
-
[24] Có lẽ là bốn Dự
lưu chi: 1/ Thân cận thiện xứ, 2/ Kiến văn chánh pháp, 3/ Như
lý tác ý, 4/ Pháp tùy pháp hành, mà ngài Xá-lợi-phất đã quảng
diễn thành mười, như trong kinh: 1/ Tín, 2/ Giới, 3/ Đa văn,
4/ Huệ thí, 5/ Thiện tuệ, 6/ Chánh kiến, 7/ Chánh trí, 8/
Chánh giải, 9/ Chánh thoát, 10/ Chánh trí. Chỉ bốn “Nhập lưu
phần”, Tạp A-hàm 30. Đại 30, tr.843.
|