- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 03. PHẨM XÁ-LÊ TỬ TƯƠNG
ƯNG
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc[02].
- Bấy giờ Đức Thế
Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
- “Đây là sự công
bố chánh pháp tối thượng[03],
tức là bốn Thánh đế, được thâu nhiếp toàn diện, được quán
chiếu toàn diện, được phân biệt, được phơi mở, được mở bày,
được thi thiết, được hiển thị, được thú hướng[04].
- “Trong quá khứ,
các Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, cũng có sự
công bố chánh pháp tối thượng này, tức là bốn Thánh đế, được
thâu nhiếp toàn diện, được quán chiếu toàn diện, được phân
biệt, được phơi mở, được mở bày, được thi thiết, được hiển
thị, được thú hướng.
- “Trong đời vị
lai, các Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, cũng
có sự công bố chánh pháp tối thượng này, tức là bốn Thánh đế,
được thâu nhiếp toàn diện, được quán chiếu toàn diện, được
phân biệt, được phơi mở, được mở bày, được thi thiết, được
hiển thị, được thú hướng.
- “Trong đời hiện
tại, Ta là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, cũng có
sự công bố chánh pháp tối thượng này, tức là bốn Thánh đế,
được thâu nhiếp toàn diện, được quán chiếu toàn diện, được
phân biệt, được phơi mở, được mở bày, được thi thiết, được
hiển thị, được thú hướng.
- “Tỳ-kheo Xá-lê
Tử[05]
là bậc thông tuệ[06],
tốc tuệ, tiệp tuệ, lợi tuệ, quảng tuệ, thâm tuệ, xuất yếu tuệ,
minh đạt tuệ, biện tài tuệ. Tỳ-kheo Xá-lê Tử thành tựu thật
tuệ. Vì sao vậy? Vì ta nói sơ lược về bốn Thánh đế thế này,
thì Tỳ-kheo Xá-lê Tử có thể vì người khác mà giáo hóa toàn
diện, quán chiếu toàn diện, phân biệt, phơi mở, mở bày, thi
thiết hiển thị, thú hướng.
- “Khi Tỳ-kheo
Xá-lê Tử giáo hóa toàn diện, quán sát toàn diện, phân biệt,
phơi mở, mở bày, thi thiết, hiển thị, thú hướng, làm cho vô
lượng người đạt đến chánh quán. Tỳ-kheo Xá-lê Tử có khả năng
hướng dẫn bằng chánh kiến vậy.
- “Tỳ-kheo
Mục-kiền-liên có khả năng làm cho đứng vững nơi chân tế tối
thượng[07],
nghĩa là cứu cánh lậu tận. Tỳ-kheo Xá-lê Tử sanh ra các bậc
phạm hạnh, cũng như sanh mẫu; Tỳ-kheo Mục-kiền-liên trưởng
dưỡng các bậc phạm hạnh cũng như dưỡng mẫu. Do đó các bậc phạm
hạnh nên phụng sự, cung kính cúng dường, lễ bái Tỳ-kheo Xá-lê
Tử và Mục-kiền-liên. Vì sao vậy? Vì Tỳ-kheo Xá-lê Tử và Đại
Mục-kiền-liên mong cầu phước lợi và thiện ích, cũng cầu sự an
ổn và khoái lạc cho các vị phạm hạnh”.
- Sau khi Đức Thế
Tôn nói như vậy rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh
thất tĩnh tọa. Lúc đó, Tôn giả Xá-lê Tử nói với các Tỳ-kheo:
- “Này chư Hiền,
Đức Thế Tôn vì chúng ta mà xuất hiện thế gian, vì mọi người mà
giáo hóa, khai thị toàn diện, phân biệt, phơi mở, mở bày, thi
thiết, hiển thị, thú hướng bốn Thánh đế này.
- “Những gì là
bốn? Đó là Khổ Thánh đế, Khổ tập, Khổ diệt, Khổ diệt đạo Thánh
đế[08].
- “Này chư Hiền,
thế nào là Khổ Thánh đế? Đó là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ,
chết khổ, oắn tắng hội khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ,
tóm lại ngũ thủ uẩn là khổ[09].
- “Này chư Hiền,
nói sanh là khổ; nói thế là vì lẽ gì? Này chư Hiền, sanh là
chúng sanh kia, với chủng loại sai biệt của chúng sanh kia,
sanh thì sanh[10],
xuất hiện thì xuất hiện, thành hình thì thành hình, hiện khởi[11]
năm uẩn rồi liền có mạng căn. Như vậy gọi là sanh.
- “Này chư Hiền,
sanh là khổ, đó là chúng sanh khi sanh thâân cảm nghiệm khổ,
cảm nghiệm toàn diện; cảm giác toàn diện[12].
Tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm
giác toàn diện. Thân tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện;
cảm giác khổ, cảm giác toàn diện. Thân cảm nghiệm nóng, cảm
nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện. Tâm cảm
nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác
toàn diện. Thân tâm cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm
giác nóng, cảm giác toàn diện. Thân cảm nghiệm sự nóng hực[13],
sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự
nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện. Tâm
cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm
toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã,
cảm giác toàn diện. Thân tâm cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức
rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng
hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện. Này chư
Hiền, vì lẽ ấy mà nói sanh là khổ.
- “Này chư Hiền,
nói già là khổ; nói thế là vì lẽ gì? Này chư Hiền, già nghĩa
là chúng sanh kia, với chủng loại sai biệt của chúng sanh kia,
kẻ kia trở nên già yếu, đầu bạc răng rụng, sự cường tráng ngày
càng suy yếu, thân còng, chân vẹo, cơ thể nặng nề, hơi thở đưa
lên, phải chống gậy mà đi, thịt rút, da nhăn, xù xì như cây
gai, các căn hư hoại, nhan sắc xấu xí. Như vậy gọi là già.
- “Này chư Hiền,
già là khổ, là chúng sanh khi già thì thâân cảm nghiệm khổ,
cảm nghiệm toàn diện; cảm giác, cảm giác toàn diện. Tâm cảm
nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn
diện. Thân tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác
khổ, cảm giác toàn diện. Thân cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn
diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện. Tâm cảm nghiệm nóng,
cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện. Thân
tâm cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm
giác toàn diện. Thân cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu
sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự
bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện. Tâm cảm nghiệm sự
nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện;
cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác
toàn diện. Thân tâm cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu
buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức
rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện. Này chư Hiền, vì lẽ
ấy mà nói già là khổ.
- “Này chư Hiền,
nói bệnh là khổ; nói thế là vì lẽ gì? Này chư Hiền, bệnh là
đầu đau, mắt đau, tai đau, mũi đau, mặt đau, môi đau, răng
đau, lưỡi đau, nướu đau, cổ đau, phong suyễn, ho hen, ói mữa,
cứng họng, bệnh điên, bệnh động kinh, ung thư, mọc bướu, kinh
nguyệt tràn, viêm đỏ, nóng hực, khô héo, bệnh trĩ, mụn nhọt,
kiết lỵ, và tất cả những bệnh tương tự như vậy, từ xúc mà sanh
ra, không rời khỏi tâm, ở ngay trong thân. Như vậy gọi là
bệnh. Này chư Hiền, bệnh khổ là: Chúng sanh khi bệnh thì thâân
cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác, cảm giác toàn
diện. Tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ,
cảm giác toàn diện. Thân tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn
diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện. Thân cảm nghiệm nóng,
cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện. Tâm
cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác
toàn diện. Thân tâm cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm
giác nóng, cảm giác toàn diện. Thân cảm nghiệm sự nóng hực, sự
bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự
nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện. Tâm
cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm
toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã,
cảm giác toàn diện. Thân tâm cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức
rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng
hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện. Này chư
Hiền, vì lẽ ấy nói bệnh là khổ.
- “Này chư Hiền,
nói chết là khổ; nói thế là vì lẽ gì? Này chư Hiền, chết là
chúng sanh kia, với chủng loại sai biệt của chúng sanh kia,
mạng chung, vô thường, chết chôn, tan rã, tuổi thọ chấm dứt,
hủy hoại, mạng căn bế tắc, như vậy gọi là chết. Này chư Hiền,
chết là khổ. Đó là chúng sanh khi chết, thâân cảm nghiệm khổ,
cảm nghiệm toàn diện; cảm giác, cảm giác toàn diện. Tâm cảm
nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn
diện. Thân tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác
khổ, cảm giác toàn diện. Thân cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn
diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện. Tâm cảm nghiệm nóng,
cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện. Thân
tâm cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm
giác toàn diện. Thân cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu
sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự
bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện. Tâm cảm nghiệm sự
nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện;
cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác
toàn diện. Thân tâm cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu
buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức
rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện. Này chư Hiền, vì lẽ
ấy mà nói chết là khổ.
- “Này chư Hiền,
nói oán tắng hội là khổ[14];
nói thế là vì lẽ gì? Này chư Hiền, oán tắng hội, nghĩa là,
chúng sanh thật có sáu nội xứ[15]:
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý xứ vốn không khả ái mà chúng
cùng tụ hội ở một chỗ, có sự gắn bó, hòa hợp, tập hợp. Sự hòa
hợp ấy là khổ. Cũng vậy các ngoại xứ: xúc, thọ, tưởng, hành,
ái[16],
cũng lại như vậy. Này chư Hiền, chúng sanh thật có sáu giới:
đất, nước, lửa, gió, hư không và thức giới vốn không khả ái mà
chúng cùng tụ hội ở một chỗ, có sự gắn bó, hòa hợp, tập hợp.
Sự hòa hợp ấy là khổ. Như vậy gọi là oán tắng hội khổ. Này chư
Hiền, oán tắng hội là khổ, đó là chúng sanh khi có sự tụ hội
của những thứ oán ghét, thân cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn
diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện. Tâm cảm nghiệm khổ,
cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện. Thân
tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm
giác toàn diện. Này chư Hiền, vì lẽ ấy mà nói oán tắng hội là
khổ.
- “Này chư Hiền,
nói ái biệt ly khổ[17];
nói thế là vì lẽ gì? Này chư Hiền, ái biệt ly khổ, đó là chúng
sanh thật có sáu xứ bên trong: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý
xứ vốn khả ái, nhưng chúng phân tán thành khác biệt, không
tương ứng, biệt ly không tụ hội, không gắn bó, không tập hợp,
không hòa hợp, đó là khổ. Cũng vậy, các ngoại xứ: xúc, thọ,
tưởng, hành, ái, cũng lại như vậy. Này chư Hiền, chúng sanh
quả thực có sáu giới: đất, nước, lửa, gió, hư không và thức
giới vốn nhưng chúng phân tán thành khác biệt, không tương
ứng, không gắn bó, không hòa hợp, không tập hợp, đó là khổ.
Như vậy gọi là ái biệt ly. Này chư Hiền, ái biệt ly là khổ
nghĩa là chúng sanh khi xa cách nhau, thân cảm nghiệm khổ, cảm
nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện. Tâm cảm
nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn
diện. Thân tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác
khổ, cảm giác toàn diện. Này chư Hiền, vì lẽ ấy mà nói ái biệt
ly khổ là khổ.
- “Này chư Hiền,
nói sở cầu bất đắc là khổ[18];
nói thế là vì lẽ gì? Này chư Hiền, nghĩa là chúng sanh lệ
thuộc vào sanh pháp[19],
không thể lìa xa sanh pháp, ước muốn rằng: ‘Mong tôi không
sanh ra’, điều ấy quả thật không thể muốn mà được. Với sự già,
sự chết, sự ưu sầu, buồn lo mà ước muốn rằng: ‘Mong tôi không
có buồn lo’. Điều ấy không thể muốn mà được. Này chư Hiền
chúng sanh quả thật sanh là khổ, không đáng vui, không đáng
yêu, không đáng nghĩ nhớ, người ấy nghĩ thế này: ‘Nếu ta sanh
khổ, không đáng vui, không đáng yêu, không đáng nghĩ nhớ, mong
sao được đổi thành đáng yêu, đáng nghĩ nhớ’. Điều đó không thể
muốn mà được. Này chư Hiền, chúng sanh nào quả thật sanh lạc
đáng yêu, đáng nghĩ nhớ, người ấy nghĩ như vầy: ‘Nếu ta sanh
ra lạc, đáng yêu, đáng nghĩ nhớ, mong sao nó là pháp thường
hằng, vĩnh cữu và không biến dịch’. Điều ấy không thể muốn mà
được.
- “Này chư Hiền,
chúng sanh nào quả thật sanh ra tư tưởng mà không đáng vui,
không đáng yêu, không đáng nghĩ nhớ, người ấy suy nghĩ thế
này: ‘Nếu ta sanh tư tưởng mà không đáng vui, không đáng yêu,
không đáng nghĩ nhớ, mong sao nó đổi thành mà đáng yêu, đáng
nghĩ nhớ’. Điều ấy không thể muốn mà được. Này chư Hiền, chúng
sanh nào quả thật sanh ra tư tưởng, đáng yêu, đáng nghĩ nhớ,
người ấy nghĩ như vầy: ‘Nếu tư tưởng ta sanh ra đáng yêu, đáng
nghĩ nhớ, mong sao nó là pháp thường hằng, vĩnh cửu và không
biến dịch’. Điều ấy không thể muốn mà được. Này chư Hiền, vì
lẽ ấy mà nói sở cầu bất đắc là khổ.
- “Này chư Hiền,
nói lược năm thủ uẩn là khổ; nói thế là vì lẽ gì? Đó là sắc
thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Này chư Hiền, vì lẽ
ấy mà nói năm thủ uẩn là khổ.
- “Này chư Hiền,
thời quá khứ là Khổ Thánh đế; thời vị lai và hiện tại là Khổ
Thánh đế. Đó là điều chắc thật không hư đối, không xa rời sự
thật, cũng chẳng phải điên đảo, được thẩm sát một cách chắc
thật. Những gì hợp với sự chắc thật như vậy, là sở hữu của
Thánh, được nhận thức bởi Thánh, được thấu suốt bởi Thánh,
được thấy bởi Thánh, là sự giác ngộ tối thượng chân chánh của
bậc Thánh. Do dó nói là Khổ Thánh đế.
- “Cái gì làø ái
tập Khổ tập Thánh đế? Nghĩa là chúng sanh thật có sáu xứ tham
ái bên trong: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý xứ. Trong đó nếu có
ái, có cấu bẩn, có ô nhiễm, có đắm trước thì gọi là tập.
- “Này chư Hiền,
Đa văn Thánh đệ tử biết rằng: ‘Ta biết pháp như vậy, thấy như
vậy, hiểu như vậy, nhận định như vậy và tri giác như vậy, đó
là ái tập Khổ tập Thánh đế.
- “Biết như vậy
là biết như thế nào? Nếu có người tham ái vợ con, nô tỳ, kẻ
sai bảo, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, tài vật
xuất vốn và lời lãi, tạo tác những nghiệp có ái, có cấu bẩn,
có nhiễm, có trước, đó gọi là tập. Người kia biết ái tập Khổ
tập Thánh đế này. Cũng vậy, ngoại xứ xúc, thọ, tưởng, hành,
ái, cũng lại như vậy.
- “Này chư Hiền,
chúng sanh quả thực có sáu giới tham ái: đất, nước, lửa, gió,
hư không, thức giới, trong đó nếu có ái, có cấu bẩn, có nhiễm,
có trước, đó gọi là tập.
- “Này chư Hiền,
Đa văn Thánh đệ tử biết rằng ‘Ta biết pháp như vậy, thấy như
vậy, hiểu như vậy, nhận định như vậy và tri giác như vậy, đó
là ái tập Khổ tập Thánh đế.
- “Biết như vậy
là biết như thế nào? Nếu có người tham ái vợ con, nô tỳ, kẻ
sai bảo, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, tài vật
xuất vốn và lời lãi, tạo tác những nghiệp có ái, có cấu bẩn,
có nhiễm, có trước, đó gọi là tập. Người kia biết ái tập Khổ
tập Thánh đế này. Thời quá khứ là khổ Thánh đế; thời vị lai và
hiện tại là Khổ Thánh đế. Đó là điều chắc thật không hư đối,
không xa rời sự thật, cũng chẳng phải điên đảo, được thẩm sát
một cách chắc thật. Những gì hợp với sự chắc thật như vậy, là
sở hữu của Thánh, được nhận thức bởi Thánh, được thấu suốt bởi
Thánh, được thấy bởi Thánh, là sự giác ngộ tối thượng chân
chánh của bậc Thánh. Do dó nói là Khổ Thánh đế.
- Này chư Hiền,
thế nào là ái diệt Khổ diệt Thánh đế? Nghĩa là chúng sanh thực
có sáu xứ tham ái bên trong: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý
xứ. Chúng sanh ấy giải thoát, không nhiễm, không đắm trước,
đoạn bỏ hoàn toàn, vô dục, diệt tận, tĩnh tịch; đó gọi là Khổ
diệt.
- “Này chư Hiền,
Đa văn Thánh đệ tử biết rằng ‘Ta biết pháp như vậy, thấy như
vậy, hiểu như vậy, nhận định như vậy và tri giác như vậy, đó
là ái diệt Khổ diệt Thánh đế.
- “Biết như vậy
là biết như thế nào? Nếu có người nào không tham ái vợ con, nô
tỳ, kẻ sai bảo, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, tài
vật xuất vốn và lời lãi, đó không phải là tạo tác nghiệp,
người ấy nếu giải thoát, không nhiễm, không đắm trước, đoạn bỏ
hoàn toàn, vô dục, diệt tận, tĩnh tịch; đó gọi là ái diệt, Khổ
diệt Thánh đế. Cũng thế, ngoại xứ xúc, thọ, tưởng, tư, ái,
cũng lại như vậy.
- “Này chư Hiền,
chúng sanh quả thật có sáu giới tham ái: Đất, nước, lửa, gió,
hư không, thức giới; người ấy nếu giải thoát, không nhiễm,
không đắm trước, đoạn bỏ hoàn toàn, vô dục, diệt tận, tĩnh
tịch; đó gọi là ái diệt, Khổ diệt Thánh đế. Này chư Hiền, Đa
văn Thánh đệ tử biết rằng ‘Ta biết pháp như vậy, thấy như vậy,
hiểu như vậy, nhận định như vậy và tri giác như vậy, đó là ái
diệt Khổ diệt Thánh đế.
- “Biết như vậy
là biết như thế nào? Nếu có người nào không tham ái vợ con, nô
tỳ, kẻ sai bảo, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, tài
vật xuất vốn và lời lãi, đó không phải là tạo tác nghiệp,
người ấy nếu giải thoát, không nhiễm, không đắm trước, đoạn bỏ
hoàn toàn, vô dục, diệt tận, tĩnh tịch; đó gọi là ái diệt, Khổ
diệt Thánh đế. Thời quá khứ là khổ Thánh đế; thời vị lai và
hiện tại là Khổ Thánh đế. Đó là điều chắc thật không hư đối,
không xa rời sự thật, cũng chẳng phải điên đảo, được thẩm sát
một cách chắc thật. Những gì hợp với sự chắc thật như vậy, là
sở hữu của Thánh, được nhận thức bởi Thánh, được thấu suốt bởi
Thánh, được thấy bởi Thánh, là sự giác ngộ tối thượng chân
chánh của bậc Thánh. Do dó nói là ái diệt Khổ diệt Thánh đế.
- “Này chư Hiền,
thế nào là Khổ diệt đạo Thánh đế? Đó là chánh kiến, chánh tư
duy[20],
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn[21],
chánh niệm và chánh định.
- “Này chư Hiền,
thế nào là chánh kiến? Đó là khi vị Thánh đệ tử khi suy niệm
về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán
sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc suy niệm về các
hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là
tịch tĩnh. Hoặc khi bằng suy niệm không nhiễm trước mà quán
sát[22]
tâm hoàn toàn giải thoát, trong đó là sự giản trạch, giản
trạch toàn diện, giản trạch quyết định, giản trạch pháp, nhận
định, toàn diện nhận định, quán sát minh đạt. Đó là chánh kiến[23].
- “Này chư Hiền,
thế nào là chánh tư duy? Đó là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về
khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán
sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các
hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là
tịch tĩnh; hoặc khi bằng suy niệm không nhiễm trước mà quán
sát tâm hoàn toàn giải thoát, trong đó là sự tư sát, tư sát
toàn diện, tùy thuận tư sát, điều nào nên niệm thì niệm, điều
nào nên hy vọng thì hy vọng[24].
Đó là chánh tư duy.
- “Này chư Hiền,
thế nào là chánh ngữ? Đó là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về khổ
là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán sát về
sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành,
hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch
tĩnh; hoặc khi bằng suy niệm không nhiễm trước mà quán sát tâm
hoàn toàn giải thoát, trong đó ngoài bốn diệu hành thuộc
miệng, còn các ác hành khác nơi miệng đều viễn ly, đoạn trừ,
không hành, không tạo tác, không tập hợp và không tụ hội. Đó
là chánh ngữ.
- “Này chư Hiền,
thế nào là chánh nghiệp? Đó là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về
khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán
sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các
hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là
tịch tĩnh; hoặc khi bằng suy niệm không nhiễm trước mà quán
sát tâm hoàn toàn giải thoát, trong đó ngoài ba diệu hành
thuộc thân, còn các ác hành khác nơi thân đều viễn ly, đoạn
trừ, không hành, không tạo tác, không tập hợp và không tụ hội.
Đó là chánh nghiệp.
- “Này chư Hiền,
thế nào là chánh mạng? Đó là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về
khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán
sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các
hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là
tịch tĩnh; hoặc khi bằng suy niệm không nhiễm trước mà quán
sát tâm hoàn toàn giải thoát, trong đó phải là mong cầu vô lý,
không do nhiều tham dục mà không biết vừa đủ, không làm các
thứ xảo quyệt bùa chú, để sinh sống bằng tà mạng. Chỉ theo
chánh pháp mà mong cầu y phục, chớ không phải với phi pháp,
cũng theo chánh pháp để mong cầu thực phẩm, giường chõng, chớ
không phải với phi pháp. Đó là chánh mạng.
- “Này chư Hiền,
thế nào là chánh tinh tấn? Đó là khi vị Thánh đệ tử suy niệm
về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán
sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các
hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là
tịch tĩnh; hoặc khi bằng suy niệm không nhiễm trước mà quán
sát tâm hoàn toàn giải thoát, trong đó, nếu có phương tiện
tinh tấn thì quả quyết, tinh cần để mong cầu, có khả năng để
thú hướng, chuyên chú không xả bỏ, cũng không suy thối, quyết
định hàng phục tâm mình. Đó là chánh tinh tấn.
- “Này chư Hiền,
thế nào là chánh niệm? Đó là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về
khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán
sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các
hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là
tịch tĩnh; hoặc khi bằng suy niệm không nhiễm trước mà quán
sát tâm hoàn toàn giải thoát, trong đó, nếu tâm tùy thuận
niệm, phản chiếu giải thoát niệm[25],
suy niệm, biến mãn suy niệm, liên tục ức niệm, tâm niệm không
xao lãng. Đó là chánh niệm.
- “Này chư Hiền,
thế nào là chánh định? Đó là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về
khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán
sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các
hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là
tịch tĩnh; hoặc khi bằng suy niệm không nhiễm trước mà quán
sát tâm hoàn toàn giải thoát, trong đó, nếu tâm trụ, thiền
trụ, thuận trụ, không loạn, không tán, chuyên nhất[26].
Đó là chánh định.
- “Này chư Hiền,
thời quá khứ là Khổ diệt đạo Thánh đế; thời vị lai và hiện tại
là Khổ diệt đạo Thánh đế. Đó là điều chắc thật không hư dối,
không xa rời sự thật, cũng chẳng phải điên đảo, được thẩm sát
một cách chắc thật. Những gì hợp với sự chắc thật như vậy, là
sở hữu của Thánh, được nhận thức bởi Thánh, được thấu suốt bởi
Thánh, được thấy bởi Thánh, là sự giác ngộ tối thượng chân
chánh của bậc Thánh. Do dó nói Khổ diệt đạo Thánh đế”.
-
Rồi ngài nói bài tụng rằng:
- Phật thấu
triệt các pháp,
- Thấy vô
lượng thiện đức,
- Khổ, tập,
diệt, đạo đế,
- Khéo hiển
hiện phân biệt.
- Tôn giả Xá-lê
Tử thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Tôn giả Xá-lê Tử
thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Tthích:
-
[01] Tương đương
Pāli: M. 141. Saccavibhaga-sutta. Biệt dịch, No.32 Phật
Thuyết Tứ Đế Kinh, An Thế Cao dịch, Đại 1 tr.814b; No.25(27.1)
Tăng Nhất 19 “phẩm Đẳng Thú Tứ Đế, kinh số 1” Đại 2 tr.643a.
Tham chiếu, Thập Tụng Luật 60, Đại 23 tr. 445c; D.22.
Mahā-satipahāna-suttanta.
-
[02] Các bản Hán đều
nói Phật tại Xá-vệ. Bản Pāli tương đương: Bārāṇasiyaṃ viharati
Isipatane Migadāye, trú tại Ba-la-nại, trong Chư tiên đọa xứ,
Lộc dã uyển.
-
[03] Chánh hành
thuyết pháp; No.32: Chơn chánh thuyết pháp. Bản Pāli: anuttara dhammacakka pavattita, Vô
thượng Pháp luân được vận chuyển.
-
[04] Hán: quảng nhiếp, quảng quán, phân biệ, phát lộ, khai ngưỡng, thú hướng. Pāli: ācikkhanā (khai thị), thi thiết, hiển thị desanā (tuyên thuyết),
paññāpanā (thi thiết), pahapanā (an lập), vivaraā (khai
hiển), vibhajanā (phân biệt), uttānīkamma (hiển phát).
-
[05] Bản Pāli: Các
Tỳ-kheo hãy gần gũi Sāriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallāna
(Mục-kiền-liên), là những Tỳ-kheo thông tuệ...
-
[06] Tán thán trí tuệ
của ngài Xá-lợi-phất, bản này và No.32 giống nhau, chỉ khác về
dịch ngữ, về mười loại trí tuệ được kể ở đây, các bản Pāli chỉ
kể có bảy (xem M. 111). Bản Pāli tương đương không tán thán
riêng Xá-lợi-phất với mười trí. Xem cht.24,
Kinh 28.
-
[07] Hán: tối thượng
chân tế. Pāli: uttamattha, chân lý tối thượng.
-
[08] Khổ Thánh đế, Khổ tập Thánh đế, Khổ diệt Thánh đế Khổ
diệt đạo Thánh đế. Pāli: dukkha ariyasacca,
dukkhasamudaya ariyasacca, dukkhanirodha ariyasacca,
dukkhaniroda-gāminiyā paipada ariyasacca.
-
[09] Hán: ngũ thạnh
ấm khổ. Pāli: pañcupādānakkhandhā dukkhā.
-
[10] Nghĩa là, khi
sanh thì sanh ra trong một chủng loại nào đó.
-
[11] Hán: sanh,
xuất, thành, hưng khởi. Pāli: jāti (sanh), sañjāti
(xuất sanh), okkanti (xuất hiện), abhinibbatti (sanh khởi),
khandhanāna pātubhāvo (hiển hiện năm uẩn). Bản Hán, có tám
khổ; bản Pāli chỉ kể năm khổ: jāti (sanh), jarā (già), maraa
(chết), soka-parideva-dukkha-domanassupayāsā (sầu bi khổ ưu
não), piccha na labhati (không đạt được mong cầu),
sakhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā.
-
[12] Hán:. Tham chiếu
thân thọ khổ, thọ, biến thọ; giác, biến giác Pháp uẩn 6 (Đại
26, tr.480a): Lãnh nạp nhiếp thọ, chủng chủng thân khổ sự, lãnh nạp và nhiếp thọ mọi hình thái khổ khác
nhau.
-
[13] Hán: thân tráng
nhiệt, phiền não, ưu thích thọ,....
-
[14] Thù ghét mà tụ
hội. Bản Pāli không đề cập.
-
[15] Lục nội xứ. Pāli: cha ajjhattāyatana.
-
[16] Hán: canh lạc,
giác, tưởng, tư, ái.
-
[17] Bản Pāli không
đề cập.
-
[18] Pāli: piccha na
labhati.
-
[19] Hán: chúng sanh
sanh pháp . Pāli: jātidhammāna sattāna (...).
-
[20] Nguyên-Hán:
chánh chí.
-
[21] Nguyên-Hán:
chánh phương tiện.
-
[22] Vô trước niệm
quán thiện tâm giải thoát. Tham chiếu Pháp Uẩn
6 (Đại 26, tr.481c): Vô lậu tác ý tương ưng (ư pháp giản
trạch), (sự giản trạch pháp) tương ưng với tác ý vô lậu.
-
[23] Hán: trạch, biến
trạch, quyết trạch, trạch pháp; thị, biến thị, quán sát minh
đạt. Tham chiếu Pháp Uẩn 6 (Đại 26, tr.481c): (ư pháp) giản
trạch, cực giản trạch, tối cực giản trạch; liễu, biến liễu,
cận liễu; cơ hiệt, thông đạt, thẩm sát, thông duệ, giác minh
tuệ hành
-
[24] Hán: tứ, biến
tứ, tùy thuận tứ... khả niệm... khả vọng Tham chiếu Pháp Uẩn 6
đd trên: Tư duy... Tầm cầu... Suy mịch... Linh tâm ư pháp thô
động nhi chuyển
-
[25] Hán: bối bất
hướng niệm; chánh niệm liên hệ đến tám bối xả hay tám
giải thoát.
-
[26] Nhiếp chỉ;
được hiểu là tâm nhất cảnh tánh: tâm và cảnh là một.
|