- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 04. PHẨM VỊ TẰNG HỮU PHÁP
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại Bệ-lan-nhã [02], trong vườn
Hoàng lô[03].
- Bấy giờ vua
A-tu-la là Bà-la-la[04] con trai của
Mâu-lê-già A-tu-la[05], sắc tướng uy
nghi, ánh sáng chói rực, vào lúc đêm gần sáng, đi đến chỗ
Phật, đảnh lễ dưới chân Thế Tôn rồi ngồi sang một bên.
- Đức Thế Tôn hỏi
rằng:
- “Này Bà-la-la,
phải chăng trong đại hải, A-tu-la không bị các sự suy thối
này, là tuổi thọ của A-tu-la sắc tướng của A-tu-la, sự hoan
lạc của A-tu-la, sức mạnh của A-tu-la? Các A-tu-la cũng thích
sống trong đại hải chăng?”
- Vua A-tu-la là
Bà-la-la con trai của Mâu-lê-già A-tu-la trả lời rằng:
- “Bạch Thế Tôn.
Các A-tu-la của con ở trong đại hải không bị các sự suy thối
này, là tuổi thọ của A-tu-la, sắc tướng của A-tu-la, sự hoan
lạc của A-tu-la, sức mạnh của A-tu-la. Các A-tu-la thích sống
trong đại hải.”
- Thế Tôn lại
hỏi:
- “Này Bà-la-la,
trong đại hải có mấy pháp vị tằêng hữu, khiến cho các A-tu-la
thấy vậy nên thích sống trong ấy?”
- Bà-la-la trả
lời rằng:
- “Trong đại hải
của con có tám pháp vị tằng hữu, khiến cho các A-tu-la thấy
vậy nên thích sống trong ấy. Những gì là tám?
- “Bạch Thế Tôn,
đại hải của con từ đáy lên trên, chu vi dần dần rộng hơn,
nghiêng chênh chếch lên dần mãi tạo thành bờ biển. Nước trong
ấy luôn luôn đầy, chưa từng chảy ra ngoài. Bạch Thế Tôn, đại
hải của con từ đáy lên trên, chu vi dần dần rộng hơn, nghiêng
chênh chếch lên dần mãi tạo thành bờ biển. Nước trong ấy luôn
luôn đầy, chưa từng chảy ra ngoài; đó là pháp vị tằng hữu thứ
nhất trong đại hải của con. Các A-tu-la thấy vậy bèn thích
sống ở trong đó.
- “Lại nữa, bạch
Thế Tôn, thủy triều trong đại hải của con chưa từng sai thời.
Bạch Thế Tôn, nếu thủy triều trong đại hải của con chưa từng
sai thời, thì đó là pháp vị tằêng hữu thứ hai trong đại hải
của con. Các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó.
- “Lại nữa, bạch
Thế Tôn, nước trong đại hải của con rất sâu không có đáy, rất
rộng không thấy bờ. Bạch Thế Tôn, nếu nước trong đại hải của
con rất không sâu có đáy, rất rộng không thấy bờ; thì đó là
pháp vị tằêng hữu thứ ba trong đại hải của con, các A-tu-la
thấy vậy bèn thích sống trong đó.
- “Lại nữa, bạch
Thế Tôn, nước trong đại hải của con đều cùng một vị. Bạch Thế
Tôn, nếu nước trong đại hải của con cùng một vị; thì đó là
pháp vị tằng hữu thứ tư trong đại hải của con, các A-tu-la
thấy vậy bèn thích sống trong đó.
- “Lại nữa, bạch
Thế Tôn, trong đại hải của con có rất nhiều trân bảo, vô lượng
đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy trong
đó. Tên của các trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly,
ma ni, trân châu, bích ngọc, bạch kha, loa bích, san hô, hổ
phách, mã não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu. Bạch Thế Tôn, nếu
trong đại hải của con có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quí
báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy trong đó. Tên
của các trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, ma ni,
trân châu, bích ngọc, bạch kha, loa bích, san hô, hổ phách, mã
não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu; thì đó là pháp vị tằêng hữu
thứ năm trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích
sống trong đó.
- “Lại nữa, bạch
Thế Tôn, đại hải là chỗ cư trú của các vị thần lớn[06].
Những vị thần đó tên là A-tu-la, Kiền-thấp-hòa[07],
La-sát[08], cá kình[09],
rùa, cá sấu[10], Bà-lưu-nê[11],
Đế-nghê[12], Đế-nghê-già-la[13],
Đề-đế-nghê-già-la[14]. Lại nữa, trong
đại hải, rất kỳ lạ, rất đặc biệt, có chúng sanh thân thể tới
một trăm do-diên, hai trăm do-diên, cho đến ba trăm do-diên,
bảy trăm do-diên mà thân vẫn ở trong đại hải. Bạch Thế Tôn,
nếu có những vị thần cư trú trong đại hải của con; những vị
thần đó tên là A-tu-la, Kiền-thấp-hòa, La-sát, cá kình, rùa,
cá sấu, Bà-lưu-nê, Đế-nghê, Đế-nghê-già-la, Đề-đế-nghê-già-la.
Lại nữa, trong đại hải, rất kỳ lạ, rất đặc biệt, có chúng sanh
thân thể tới một trăm do-diên, hai trăm do-diên, cho đến ba
trăm do-diên, bảy trăm do-diên mà thân vẫn ở trong đại hải;
thì đó là pháp vị tằng hữu thứ sáu trong đại hải của con, các
A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó.
- “Lại nữa, bạch
Thế Tôn, đại hải của con thanh tịnh không dung chứa tử thi.
Nếu có người nào mạng chung thì qua một đêm gió liền thổi tấp
vào bờ. Bạch Thế Tôn, nếu đại hải của con thanh tịnh không
dung chứa tử thi. Nếu có người nào mạng chung thì qua một đêm
gió liền thổi tấp vào bờ; thì đó là pháp vị tằêng hữu thứ bảy
trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống
trong đó.
- “Lại nữa, bạch
Thế Tôn, trong đại hải của con thuộc về châu Diêm-phù có năm
sông lớn, là Hằng-già, Diêu-vưu-na, Xa-lao-phù, A-di-la-ba-đề,
Ma-xí[15]. Tất cả đều chảy vào đại
hải. Chảy vào đó rồi, thảy đều bỏ tên cũ, gọi chung là đại
hải. Bạch Thế Tôn, nếu trong đại hải của con thuộc về châu
Diêm-phù có năm sông lớn, là Hằng-già, Diêu-vưu-na,
Xa-lao-phù, A-di-la-ba-đề, Ma-xí. Tất cả đều chảy vào đại hải.
Chảy vào đó rồi, thảy đều bỏ tên cũ, gọi chung là đại hải; thì
đó là pháp vị tằêng hữu thứ tám trong đại hải của con, các
A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó.
- “Bạch Thế Tôn,
đó là tám vị tằng hữu trong đại hải của con. Các A-tu-la thấy
vậy nên thích sống trong ấy.
- “Bạch Thế Tôn,
trong Chánh pháp luật của Thế Tôn có mấy pháp vị tằng hữu,
khiến cho các Tỳ-kheo thấy được bèn hoan lạc trong đó?”
- Thế Tôn đáp:
- “Này Bà-la-la,
trong Chánh pháp luật của ta cũng có tám pháp vị tằng hữu,
khiến cho các Tỳ-kheo thấy được bèn hoan lạc trong đó. Những
gì là tám?
- “Này Bà-la-la,
giống như đại hải, từ đáy lên trên, chu vi dần dần rộng hơn,
nghiêng chênh chếch lên dần mãi tạo thành bờ biển. Nước trong
ấy luôn luôn đầy, chưa từng chảy ra ngoài. Này Bà-la-la, Chánh
pháp luật của Ta cũng giống như vậy, dần dần thực hành, dần
dần học tập, dần dần đoạn trừ và dần dần giáo hóa. Này
Bà-la-la, nếu trong chánh pháp Ta dần dần thực hành, dần dần
học, dần dần đoạn trừ và dần dần giáo hóa, thì đó là pháp vị
tằng hữu thứ nhất trong Chánh pháp luật của Ta, khiến cho các
Tỳ-kheo thấy rồi thích trụ trong đó.
- “Lại nữa, này
Bà-la-la, giống như thủy triều trong đại hải chưa từng sai
thời. Này Bà-la-la, Chánh pháp luật của Ta cũng giống như vậy,
những cấm giới được thi thiết cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; các thiện nam tử ấy dù cho đến mạng chung
cũng không phạm giới. Này Bà-la-la, nếu trong Chánh pháp luật
của Ta những cấm giới được thi thiết cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; các thiện nam tử ấy dù cho đến mạng chung
cũng không phạm giới; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ hai trong
Chánh pháp luật của Ta, khiến cho các Tỳ-kheo thấy rồi thích
trú trong đó.
- “Lại nữa, này
Bà-la-la, giống như nước trong đại hải rất sâu không đáy, rộng
không thấy bờ. Này Bà-la-la, Chánh pháp luật của Ta cũng giống
như vậy, các pháp rất sâu không đáy, rất rộng không thấy bờ.
Này Bà-la-la, nếu Chánh pháp luật của Ta rất sâu không có đáy,
rất rộng không thấy bờ; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ ba
trong Chánh pháp luật của Ta, khiến cho các Tỳ-kheo thấy rồi
thích sống trong đó.
- “Lại nữa, này
Bà-la-la, giống như nước trong đại hải cùng một vị mặn. Này
Bà-la-la, Chánh pháp của ta cũng giống như vậy, chỉ có một vị
là vị vô dục, vị giác, vị tịch tĩnh và vị đạo. Này Bà-la-la,
nếu Chánh pháp luật của Ta chỉ có một vị là vị vô dục, vị
giác, vị tịch tĩnh và vị đạo; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ
tư trong Chánh pháp luật của Ta, khiến các Tỳ-kheo thấy rồi
thích sống trong đó.
- “Lại nữa, này
Bà-la-la, giống như đại hải có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ
quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy trong đó.
Tên của các trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, ma
ni, trân châu, bích ngọc, bạch kha, loa bích, san hô, hổ
phách, mã não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu. Này Bà-la-la, Chánh
pháp luật của Ta cũng giống như vậy, có rất nhiều trân bảo, vô
lượng đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy
trong đó. Những pháp trân bảo đó là: bốn niệm xứ, bốn chánh
cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, Thánh đạo
tám chi. Này Bà-la-la, nếu trong Chánh pháp luật của Ta cũng
có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại
đồ trân kỳ được chứa đầy trong đó. Những pháp trân bảo đó là:
bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực,
bảy giác chi, Thánh đạo tám chi; thì đó là pháp vị tằng hữu
thứ năm trong Chánh pháp luật của Ta. Khiến cho các Tỳ-kheo
thấy rồi thích trú trong đó.
- “Lại nữa, này
Bà-la-la, giống như đại hải là chỗ cư trú của các vị thần lớn.
Những vị thần đó tên là A-tu-la, Kiền-thấp-hòa, La-sát, cá
kình, rùa, cá sấu, Bà-lưu-nê, Đế-nghê, Đế-nghê-già-la,
Đề-đế-nghê-già-la. Lại nữa, trong đại hải, rất kỳ lạ, rất đặc
biệt, có chúng sanh thân thể tới một trăm do-diên, hai trăm
do-diên, cho đến ba trăm do-diên, bảy trăm do-diên mà thân vẫn
ở trong trong đại hải. Này Bà-la-la, Chánh pháp luật của Ta
cũng giống như vậy, có các thần to lớn, là Thánh chúng, đều cư
trú trong đó. Tên của các thần to lớn đó là: A-la-hán, Hướng
A-la-hán, A-na-hàm, Hướng A-na-hàm, Tư-đà-hàm, Hướng
Tư-đà-hàm, Tu-đà-hoàn, Hướng Tu-đà-hoàn. Này Bà-la-la, nếu
trong Chánh pháp luật của Ta, có các thần to lớn, là Thánh
chúng, đều cư trú trong đó. Tên của các thần to lớn đó là:
A-la-hán, Hướng A-la-hán, A-na-hàm, Hướng A-na-hàm, Tư-đà-hàm,
Hướng Tư-đà-hàm, Tu-đà-hoàn, Hướng Tu-đà-hoàn; thì đó là pháp
vị tằng hữu thứ sáu trong Chánh pháp luật của Ta, khiến các
Tỳ-kheo thích trú trong đó.
- “Lại nữa, này
Bà-la-la, giống như đại hải thanh tịnh không dung chứa tử thi,
nếu có người mạng chung trong biển, thì qua một đêm, gió sẽ
thổi tấp vào bờ. Này Bà-la-la, Chánh pháp luật của ta cũng
giống như vậy, Thánh chúng thanh tịnh không dung chứa tử thi.
Nếu có người nào không tinh tấn, sanh ra điều ác, phi phạm
hạnh mà xưng là phạm hạnh, phi Sa-môn mà xưng là Sa-môn; người
ấy dù ở trong Thánh chúng, nhưng cách Thánh chúng rất xa;
Thánh chúng cũng lại cách người ấy rất xa. Này Bà-la-la, nếu
trong Chánh pháp luật của Ta cũng giống như vậy, Thánh chúng
thanh tịnh không dung chứa tử thi. Nếu có người nào không tinh
tấn, sanh ra điều ác, phi phạm hạnh mà xưng là phạm hạnh, phi
Sa-môn mà xưng là Sa-môn; người ấy dù ở trong Thánh chúng,
nhưng cách Thánh chúng rất xa; Thánh chúng cũng lại cách người
ấy rất xa; đó là pháp vị tằng hữu thứ bảy trong Chánh pháp
luật của Ta, khiến cho các Tỳ-kheo thấy rồi thích trú trong
đó.
- “Lại nữa, này
Bà-la-la, giống như đại hải thuộc về châu Diêm-phù có năm sông
lớn, là Hằng-già, Diêu-vưu-na, Xa-lao-phù, A-di-la-ba-đề,
Ma-xí. Tất cả đều chảy vào đại hải. Này Bà-la-la, Chánh pháp
luật của Ta cũng giống như thế; thiện nam tử, thuộc dòng
Sát-lợi, cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia
đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo; người ấy bỏ tên
cũ, có tên chung là Sa-môn. Thiện nam tử thuộc dòng Phạm chí,
dòng cư sĩ, dòng thợ thuyền, cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa,
chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học
đạo; người ấy bỏ tên cũ, có tên chung là Sa-môn. Này Bà-la-la,
Chánh pháp luật của ta cũng giống như thế; thiện nam tử, thuộc
dòng Sát-lợi, cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ
gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo; người ấy bỏ
tên cũ, có tên chung là Sa-môn. Thiện nam tử thuộc dòng Phạm
chí, dòng cư sĩ, dòng thợ thuyền, cạo bỏ râu tóc, khoác áo
ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia
học đạo; người ấy bỏ tên cũ, có tên chung là Sa-môn; thì đó là
pháp vị tằng hữu thứ tám trong Chánh pháp luật của Ta, khiến
cho các Tỳ-kheo thấy rồi ưa thích trú trong đó.
- “Này Bà-la-la,
đó là tám pháp vị tằng hữu trong Chánh pháp luật của Ta, khiến
cho các Tỳ-kheo thấy rồi ưa thích trú trong đó.
- “Này Bà-la-la,
ý ông nghĩ thế nào? Trong Chánh pháp luật của Ta có tám pháp
vị tằng hữu, trong đại hải của ông cũng có tám pháp vị tằng
hữu; hai loại vị tằng hữu ấy, loại nào thù thắng hơn? Vi diệu,
tối thượng hơn?
- Bà-la-la thưa
rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
tám pháp vị tằng hữu có trong đại hải của con không bằng tám
pháp vị tằng hữu của Như Lai; không bằng một phần ngàn, một
phần vạn; không thể so sánh, không thể ví dụ, không thể đếm,
không thể kể, chỉ có tám pháp vị tằng hữu của Thế Tôn là cao
hơn cả, là tối thắng, là vi diệu, là tối thượng.
- “Hôm nay con
xin tự quy y Phật, quy y Pháp và Chúng Tỳ-kheo; cúi mong Thế
Tôn chấp nhận cho con làm Ưu-bà-tắc; bắt đầu từ hôm nay, con
thân tự quy y, cho đến mạng chung.”
- Đức Phật thuyết
như vậy. A-tu-la vương Bà-la-la và các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: A. Viii.19 Pahārāda. Biệt dịch: No.125(42.4), Tăng Nhất
36, “phẩm 42 Bát Nạn” kinh số 4, Đại 2 tr.752.
-
[02] Bệ-lan-nhã. Pāli: Verañjā, tên một thị trấn gần Sāvatthi.
-
[03] Hoàng lô viên. Pāli: Naerupucīmaa, khu rừng gần thị trấn Verañjā,
phần lớn toàn cây pucimanda, một loại lao? (Aśdirachta
Indica).
-
[04] Bà-la-la A-tu-la
vương. Pāli: Pahārāda-asurinda.
-
[05] Mâu-lê-già
A-tu-la tử, con trai của A-tu-la Mâu-lê-già(?); No.125(42.4)
Mâu-đề-luân thiên tử.
-
[06] Pāli: mahata
bhūtana āvāso, trú xứ của các sinh vật to lớn.
-
[07] Kiền-thấp-hòa. Pāli: gandhabba.
-
[08] La-sát. Pāli:
Rakkha.
-
[09] Ngư ma-kiệt. Pāli: makara, một loại cá voi.
-
[10] Đà ; một loại
cá sấu. Pāli: (?).
-
[11] Bà-lưu-nê.
Pāli: Vaguni, thị nữ của Long vương Vaguna (?).
-
[12] Đế-nghê.
Pāli: timi, một loại cá lớn.
-
[13] Đế-nghê-già-la. Pāli: timigala, một loại cá lớn có thể nuốt cả một
chiếc thuyền.
-
[14]
Đề-đế-nghê-già-la. Pāli: timiramigala, một loại cá
lớn có thể nuốt cả một chiếc thuyền.
-
[15] Hằng-già,
Diêu-vưu-na, Xa-lao-phù, A-di-la-ba-đề,
Ma-xí. Pāli, theo thứ tự: Gagā, Yamunā, Sarabhū,
Aciravatī, Mahī.
|