- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 04. PHẨM VỊ TẰNG HỮU PHÁP
-
-
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại Chiêm-ba, ở bên hồ Hằng-già[02].
- Bấy giờ là ngày
mười lăm trong tháng, là ngày Thế Tôn thuyết Tùng giải thoát[03],
trải tọa ngồi trước chúng Tỳ-kheo. Khi Đức Thế Tôn ngồi xong,
liền nhập định và bằng tha tâm trí Ngài quan sát tâm đại
chúng. Khi quan sát tâm đại chúng rồi, cho đến lúc hết buổi
đầu hôm, Ngài vẫn ngồi im lặng.
- Bấy giờ có một
Tỳ-kheo[04]
từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai, sửa y chắp tay hướng về Đức
Phật thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
đã hết buổi đầu hôm, Phật và chúng Tỳ-kheo tập trung ngồi đây
đã lâu, mong Đức Thế Tôn nói thuyết Tùng giải thoát.”
- Bấy giờ, Đức
Thế Tôn im lặng không trả lời.
- Thế rồi, cho
đến phần giữa đêm, Đức Thế Tôn vẫn ngồi im lặng. Tỳ-kheo kia
lại lần nữa, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa y, chắp tay
hướng về Đức Phật và thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
buổi đầu hôm đã qua, phần giữa đêm cũng sắp hết; Phật và chúng
Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã lâu, mong Đức Thế Tôn nói thuyết
Tùng giải thoát.”
- Đức Thế Tôn lại
một lần nữa không trả lời.
- Thế rồi, cho
đến phần cuối đêm, Đức Thế Tôn vẫn ngồi im lặng. Tỳ-kheo kia
lại lần thứ ba từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa y, chắp tay
hướng về Đức Thế Tôn mà thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
buổi đầu hôm đã qua, phần giữa đêm cũng chấm dứt, rồi buổi
cuối đêm cũng sắp hết, trời gần về sáng, không bao lâu nữa,
mặt trời sẽ mọc; Phật và chúng Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã
quá lâu, mong Đức Thế Tôn thuyết pháp Tùng giải thoát.”
- Bấy giờ, Đức
Thế Tôn bảo vị Tỳ-kheo kia rằng:
- “Trong chúng
này có một thầy Tỳ-kheo làm đã việc bất tịnh[05].”
- Lúc đó Tôn giả
Đại Mục-kiền-liên cũng đang ở trong chúng. Rồi Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên liền suy nghĩ thế này: “Vì Tỳ-kheo nào mà Đức
Thế Tôn nói trong chúng này có một thầy Tỳ-kheo đã làm việc
bất tịnh? Ta nên nhập định có hình thức như thế[06],
nhân trong định có hình thức như thếá, bằng tha tâm trí mà
quan sát tâm niệm đại chúng.”
- Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên nhập định có hình thức như thế, nhân trong định
có hình thức như thế, bằng tha tâm trí mà quan sát tâm niệm
đại chúng.
- Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên liền biết vị Tỳ-kheo mà vì vị ấy Đức Thế Tôn nói
trong chúng này có một thầy Tỳ-kheo đã làm việc bất tịnh.
- Rồi thì, Tôn
giả Đại Mục-kiền-liên xuất định, đi đến trước vị Tỳ-kheo ấy,
nắm tay kéo đi, mở cửa lôi ra bên ngoài mà nói:
- “Này người ngu
si, hãy đi xa đi, đừng sống ở đây[07],
không được trở lại hội họp với đại chúng Tỳ-kheo, từ nay trở
đi ông không phải là Tỳ-kheo nữa.”
- Ngài đóng cửa,
gài chốt then lại, rồi trở về chỗ Đức Phật, cúi đầu sát lạy
chân Phật, rồi ngồi sang một bên mà thưa rằng:
- “Vị Tỳ-kheo mà
vì vị ấy Đức Thế Tôn nói trong chúng này có một Tỳ-kheo đã làm
việc bất tịnh; con đã đuổi vị ấy đi rồi. Bạch Thế Tôn, buổi
đầu hôm đã qua, phần giữa đêm cũng chấm dứt, rồi buổi cuối đêm
cũng sắp hết, trời gần về sáng, không bao lâu nữa, mặt trời sẽ
mọc; Phật và chúng Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã quá lâu, mong
Đức Thế Tôn thuyết pháp Tùng giải thoát[08].”
- Đức Thế Tôn
nói:
- “Này Đại
Mục-kiền-liên, kẻ ngu si sẽ mắc đại tội nếu gây phiền nhiễu
cho Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo. Này Đại Mục-kiền-liên, nếu
Đức Như Lai ở giữa chúng bất tịnh mà thuyết Tùng giải thoát
thì đầu người kia sẽ vỡ thành bảy mảnh. Do đó, này Đại
Mục-kiền-liên, từ nay về sau các thầy hãy thuyết Tùng giải
thoát, Đức Như Lai không thuyết Tùng giải thoát nữa[09].
Vì sao như thế[10]?
- “Này Đại
Mục-kiền-liên, giống như đại hải, từ đáy lên trên, chu vi dần
dần rộng hơn, nghiêng chênh chếch lên dần mãi tạo thành bờ
biển. Nước trong ấy luôn luôn đầy, chưa từng chảy ra ngoài.
Này Đại Mục-kiền-liên, Chánh pháp luật của Ta cũng giống như
vậy, dần dần thực hành, dần dần học tập, dần dần đoạn trừ và
dần dần giáo hóa. Này Đại Mục-kiền-liên, nếu trong chánh pháp
Ta dần dần thực hành, dần dần học, dần dần đoạn trừ và dần dần
giáo hóa, thì đó là pháp vị tằng hữu thứ nhất trong Chánh pháp
luật của Ta.
- “Lại nữa, này
Đại Mục-kiền-liên, giống như thủy triều trong đại hải chưa
từng sai thời. Này Đại Mục-kiền-liên, Chánh pháp luật của Ta
cũng giống như vậy, những cấm giới được thi thiết cho Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; các thiện nam tử ấy dù cho
đến mạng chung cũng không phạm giới. Này Đại Mục-kiền-liên,
nếu trong Chánh pháp luật của Ta những cấm giới được thi thiết
cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; các thiện nam tử
ấy dù cho đến mạng chung cũng không phạm giới; thì đó là pháp
vị tằng hữu thứ hai trong Chánh pháp luật của Ta.
- “Lại nữa, này
Đại Mục-kiền-liên, giống như nước trong đại hải rất sâu không
đáy, rộng không thấy bờ. Này Đại Mục-kiền-liên, Chánh pháp
luật của Ta cũng giống như vậy, các pháp rất sâu không đáy,
rất rộng không thấy bờ. Này Đại Mục-kiền-liên, nếu Chánh pháp
luật của Ta rất sâu không có đáy, rất rộng không thấy bờ; thì
đó là pháp vị tằng hữu thứ ba trong Chánh pháp luật của Ta.
- “Lại nữa, này
Đại Mục-kiền-liên, giống như nước trong đại hải cùng một vị
mặn. Này Đại Mục-kiền-liên, Chánh pháp của Ta cũng giống như
vậy, chỉ có một vị là vị vô dục, vị giác, vị tịch tĩnh và vị
đạo. Này Đại Mục-kiền-liên, nếu Chánh pháp luật của Ta chỉ có
một vị là vị vô dục, vị giác, vị tịch tĩnh và vị đạo; thì đó
là pháp vị tằng hữu thứ tư trong Chánh pháp luật của Ta.
- “Lại nữa, này
Đại Mục-kiền-liên, giống như đại hải có rất nhiều trân bảo, vô
lượng đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy
trong đó. Tên của các trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu
ly, ma ni, trân châu, bích ngọc, bạch kha, loa bích, san hô,
hổ phách, mã não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu. Này Đại
Mục-kiền-liên, Chánh pháp luật của Ta cũng giống như vậy, có
rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ
trân kỳ được chứa đầy trong đó. Những pháp trân bảo đó là: Bốn
niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy
giác chi, Thánh đạo tám chi. Này Bà-la-la, nếu trong Chánh
pháp luật của Ta cũng có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quí
báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy trong đó.
Những pháp trân bảo đó là: Bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như
ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, Thánh đạo tám chi; thì
đó là pháp vị tằng hữu thứ năm trong Chánh pháp luật của Ta.
- “Lại nữa, này
Đại Mục-kiền-liên, giống như đại hải là chỗ cư trú của các vị
thần lớn. Những vị thần đó tên là A-tu-la, Kiền-thấp-hòa,
La-sát, cá kình, rùa, cá sấu, Bà-lưu-nê, Đế-nghê,
Đế-nghê-già-la, Đề-đế-nghê-già-la. Lại nữa, trong đại hải, rất
kỳ lạ, rất đặc biệt, có chúng sanh thân thể tới một trăm
do-diên, hai trăm do-diên, cho đến ba trăm do-diên, bảy trăm
do-diên mà thân vẫn ở trong trong đại hải. Này Đại
Mục-kiền-liên, Chánh pháp luật của Ta cũng giống như vậy, có
các thần to lớn, là Thánh chúng, đều cư trú trong đó. Tên của
các thần to lớn đó là: A-la-hán, Hướng A-la-hán, A-na-hàm,
Hướng A-na-hàm, Tư-đa-hàm, Hướng Tư-đa-hàm, Tu-đà-hoàn, Hướng
Tu-đà-hoàn. Này Đại Mục-kiền-liên, nếu trong Chánh pháp luật
của Ta, có các thần to lớn, là Thánh chúng, đều cư trú trong
đó. Tên của các thần to lớn đó là: A-la-hán, Hướng A-la-hán,
A-na-hàm, Hướng A-na-hàm, Tư-đà-hàm, Hướng Tư-đà-hàm,
Tu-đà-hoàn, Hướng Tu-đà-hoàn; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ
sáu trong Chánh pháp luật của Ta.
- “Lại nữa, này
Đại Mục-kiền-liên, giống như đại hải thanh tịnh không dung
chứa tử thi, nếu có người mạng chung trong biển, thì qua một
đêm, gió sẽ thổi tấp vào bờ. Này Đại Mục-kiền-liên, Chánh pháp
luật của Ta cũng giống như vậy, Thánh chúng thanh tịnh không
dung chứa tử thi. Nếu có người nào không tinh tấn, sanh ra
điều ác, phi phạm hạnh mà xưng là phạm hạnh, phi Sa-môn mà
xưng là Sa-môn; người ấy dù ở trong Thánh chúng, nhưng cách
Thánh chúng rất xa; Thánh chúng cũng lại cách người ấy rất xa.
Này Đại Mục-kiền-liên, nếu trong Chánh pháp luật của Ta cũng
giống như vậy, Thánh chúng thanh tịnh không dung chứa tử thi.
Nếu có người nào không tinh tấn, sanh ra điều ác, phi phạm
hạnh mà xưng là phạm hạng, phi Sa-môn mà xưng là Sa-môn; người
ấy dù ở trong Thánh chúng, nhưng cách Thánh chúng rất xa;
Thánh chúng cũng lại cách người ấy rất xa; đó là pháp vị tằng
hữu thứ bảy trong Chánh pháp luật của Ta.
- “Lại nữa, này
Đại Mục-kiền-liên, giống như đại hải thuộc về châu Diêm-phù có
năm sông lớn, là Hằng-già, Diêu-vưu-na, Xa-lao-phù,
A-di-la-ba-đề, Ma-xí. Tất cả đều chảy vào đại hải. Và trong
đại hải nước do rồng tuôn từ trời đổ xuống, giọt nước lớn bằng
cái bánh xe. Tất nhiên, nước ấy không thể khiến cho đại hải có
tăng có giảm. Này Đại Mục-kiền-liên, trong Chánh pháp luật của
Ta cũng lại như vậy. Tộc tánh tử thuộc dòng Sát-lợi, cạo bỏ
râu tóc, khoác áo cà xa, chí tín, lìa bỏ gia đình, xuất gia
học đạo, bất động tâm giải thoát[11]
được tự tác chứng, thành tựu và an trụ. Này Đại Mục-kiền-liên,
bất động tâm giải thoát trong Chánh pháp luật của Ta không
tăng không giảm. Cũng như vậy, đối với tộc tánh tử thuộc dòng
Phạm chí, dòng cư sĩ, dòng thợ thuyền, cạo bỏ râu tóc, khoác
áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất
gia học đạo, bất động tâm giải thoát được tự tác chứng thành
tựu an trụ. Này Đại Mục-kiền-liên, bất động tâm giải thoát
trong Chánh pháp luật của Ta không tăng không giảm. Này Đại
Mục-kiền-liên, nếu trong Chánh pháp luật của Ta, tọâc tánh tử
thuộc gòng Sát-lợi, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà xa, chí tín,
lìa bỏ gia đình, sống không gia đình xuất gia học đạo, bất
động tâm giải thoát, tự tác chứng, thành tựu an trụ. Cũng vậy
đối với với tọâc tánh tử thuộc dòng Phạm chí, cư sĩ, thợ
thuyền, cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia
đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, bất đọâng tâm
giải thoát được tự tác chứng thành tựu và an trụ. Này Đại
Mục-kiền-liên, bất đọâng tâm giải thoát trong Chánh pháp luật
của Ta không tăng không giảm; đó là pháp vị tằng hữu trong
Chánh pháp luật của Ta.”
- Đức Phật thuyết
như vậy. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên và các Tỳ-kheo, sau khi
nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Tham chiếu Pāli:
A. VIII.20 Uposatha, Vin. Cv. IX.1. Tham chiếu Hán: No.1421
Ngũ Phần Luật 28 (Đại 22, tr.180); No.1428 Tứ Phần Luật 47
(Đại 22. tr.914c - 15). No.33 Hằng Thủy Kinh, Pháp Cự dịch
(Đại 1, tr.817); No.34 Pháp Hải Kinh, Pháp Cự dịch (Đại 1
tr.818); No.34 Hải Bát Đức Kinh, Cưu-ma-la-thập dịch (Đại 1
tr.819).
-
[02] Chiêm-ba,
Hằng-già trì, Pāli: hồ sen Gaggarā ở Campā. Ngũ Phần
Luật 28 (Đại 22 tr.180c): Chiêm-ba quốc, Hằng thủy biên. Tứ
Phần Luật 36 (Đại 22, tr.824a): Chiêm-ba quốc Già-già hà trắc.
Nhưng, A. Viii. 20: Sāvatthiya viharati Pubbārame
Migāramātupāsāde, trú tại Sāvatthi, trong giảng đường của bà
Migāramātu (Visakhā), khu vườn phía Đông.
-
[03] Trong bản Hán:
nguyệt thập ngũ nhật thuyết tùng giải thoát.
Ba-la-đề-mộc-xoa (Pāṭimokkha), đây dịch là tùng giải thoát,
phổ thông dịch là biệt giải thoát, chỉ các loại giới mà Phật
chế cho các chúng đệ tử. Bản Pāli: tena samayena...
tadahuposathe, nhân ngày trai giới.
-
[04] Các bản Hán đều
nói Tôn giả A-nan. A. Vii.20 cũng vậy.
-
[05] Tứ Phần Luật, đã
dẫn: “Giữa một đại chúng không thanh tịnh mà muốn Đức Như Lai
yết-ma thuyết giới thì không có trường hợp đó”.
-
[06] Hán: như kỳ
tượng định. xem cht.25, kinh số 33.
-
[07] Hán: mạc ư thử
trụ. Tứ Phần Luật 28 đd. tr.181a: nhữ xuất khứ, diệt
khứ, mạc thử trung trụ. Pāli: natthi te
bhikkhūhi saddhi savāso, “ông không còn sống chung với các
Tỳ-kheo”. Tham chiếu các bản, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên trục
xuất Tỳ-kheo này ra khỏi tăng. Bản Pāli: savāso (sống chung,
sinh hoạt chung), trong các bản Hán: trú.
-
[08] Tứ Phần Luật 36
(Đại 22, tr.824b): “Đại chúng đã thanh tịnh, mong Thế Tôn
thuyết giới.
-
[09] Tứ Phần Luật 36
(Đại 22, tr.824b): Đức Phật khiển trách Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên, và thiết lập một trong bảy pháp Diệt tránh là
“Tự ngôn trị”.
-
[10] Từ đây trở
xuống, tán thán sự hy hữu của đại hải như kinh 35 trên.
-
[11] Bất di động tâm
giải thoát. Pāli: akuppā cetovimutti, sự giải
thoát của tâm, không còn dao động.
|