- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 04. PHẨM VỊ TẰNG HỮU PHÁP
-
-
- Tôi nghe
như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại Bệ-xá-li, trong Đại lâm[02].
- Bấy giờ Trưởng
giả Úc-già[03],
chỉ có một số phụ nữ theo hầu hạ và ông đang ở trước các phụ
nữ ấy, từ Bệ-xá-li ra đi. Ở khoảng giữa Đại lâm và Bệ-xá-li[04],
chỉ để hoan lạc với các kỹ nữ, như vị quốc vương.
- Rồi thì, Trưởng
giả Úc-già, uống rượu say túy lúy, bỏ các phụ nữ kia ở lại đó,
đi vào trong Đại lâm. Đang lúc Trưởng giả Úc-già say rượu lúy
túy, từ đàng xa trông thấy Đức Thế Tôn ở giữa rừng cây, đoan
chánh đẹp đẽ như vầng trăng giữa đám sao, ánh sáng chói lọi
rực rỡ, ánh sáng như tòa núi vàng, đầy đủ tướng tốt, oai thần
nguy nga, các căn tịch tĩnh, không bị ngăn che, thành tựu sự
điều ngự, tâm vắng lặng tịch mặc. Trưởng giả thấy Đức Phật
rồi, lập tức tỉnh rượu. Sau khi tỉnh rượu, Trưởng giả Úc-già
liền đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi
sang một bên.
- Bấy giờ, Đức
Thế Tôn thuyết pháp cho ông, khuyến giáo, khích lệ, làm cho
hoan hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiẹân thuyết pháp cho
ông, khuyến giáo, khích lệ, làm cho hoan hỷ rồi, như thông lệ
của chư Phật, trước hết nói về pháp đoan chánh cho người nghe
hoan duyệt; tức là nói về thí, về giới, nói pháp sanh thiên,
chê bai dục là tai hoạn, sanh tử là ô uế, khen ngợi vô dục là
vi diệu, đạo phẩm thanh tịnh trong trắng. Sau khi Đức Thế Tôn
nói những pháp ấy cho ông rồi, ngài biết ông có tâm hoan hỷ,
tâm cụ túc, tâm nhu nhuyến, tâm nhẫn nại, tâm thăng tấn, tâm
chuyên nhất, tâm không nghi, tâm không bị che lấp, có khả
năng, có sức mạnh, có thể kham thọ Chánh pháp. Rồi như thông
lệ của chư Phật, Ngài nói về pháp yếu chân chánh[05],
Đức Thế Tôn thuyết cho ông nghe về Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
- Lúc ấy Trưởng
giả Úc-già, ngay trên chỗ ngồi, thấy được bốn Thánh đế: Khổ,
Tập, Diệt, Đạo. Cũng như vải trắng dễ nhuộm thành màu. Trưởng
giả Úc-già, cũng giống như vậy, ngay nơi chỗ ngồi thấy được
bốn Thánh đế, là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
- Rồi thì, Trưởng
giả Úc-già thấy pháp và đắc pháp, giác ngộ pháp bạch tịnh,
đoạn trừ nghi, vượt qua hoặc, không còn tôn sùng ai khác,
không còn theo ai khác, không còn do dự, đã trụ nơi quả chứng,
được vô sở úy đối với giáo pháp của Thế Tôn, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ và thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
con nay tự thân xin quy y Phật, Pháp và Chúng Tỳ-kheo, cúi
mong Đức Thế Tôn chấp nhận cho con làm Ưu-bà-tắc; bắt đầu từ
hôm nay trọn đời, xin tự quy y cho đến mạng chung. Bạch Thế
Tôn, từ ngày hôm nay, con xin theo Đức Thế Tôn, trọn đời lấy
phạm hạnh làm đầu[06],
thọ trì năm giới.”
- Sau khi Trưởng
giả Úc-già xin theo Đức Thế Tôn, trọn đời lấy phạm hạnh làm
đầu, thọ trì năm giới, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật nhiễu
quanh ba vòng rồi ra đi.
- Ông liền trở về
nhà, triệu tập các người vợ[07]
lại nói rằng:
- “Các ngươi biết
không? Ta đã theo Đức Thế Tôn trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu,
thọ trì năm giới. Các ngươi nếu còn muốn được sống ở nơi đây
thì có thể ở và làm việc bố thí tạo phước. Nếu không muốn ở,
ai về nhà nấy. Nếu các ngươi muốn có chồng thì ta sẽ gả chồng
cho.”
- Bấy giờ người
vợ cả thưa Trưởng giả Úc-già rằng:
- “Nếu tôn ông đã
theo Đức Phật, trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm
giới, thì nên đem tôi gả cho người đàn ông kia.”
- Trưởng giả
Úc-già liền gọi người đàn ông kia đến, tay trái cầm tay người
vợ cả, tay phải bưng chậu nước bằng vàng, bảo người kia rằng:
- “Nay ta đem
người vợ cả này cho ngươi làm vợ.”
- Người ấy nghe
rồi, liền vì quá sợ hãi, nên lông trong thân đều dựng đứng,
thưa Trưởng giả Úc-già rằng:
- “Thưa Trưởng
giả, ngài muốn giết tôi chăng? Ngài muốn giết tôi chăng?”
- Trưởng giả trả
lời rằng:
- “Ta không giết
ngươi đâu. Vì ta đã theo Phật trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu,
thọ trì năm giới, do đó ta sẽ đem người vợ cả này cho ông làm
vợ.
- Trưởng giả
Úc-già khi đã cho người vợ cả này và ngay trong khi đó, hoàn
toàn không có lòng hối tiếc.
- Bấy giờ, với vô
lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh, Đức Thế Tôn ở trong đó
tán thán khen ngợi Trưởng giả Úc-già rằng Trưởng giả Úc-già có
tám pháp vị tằng hữu.
- Rồi thì, có một
vị Tỳ-kheo, khi đêm đã qua, vào lúc hừng sáng, khoác y ôm bát,
đi đến nhà Trưởng giả Úc-già.
- Trưởng giả
Úc-già từ đàng xa trông thấy Tỳ-kheo đi đến, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, trịch vai sửa áo, chắp tay hướng về Tỳ-kheo mà thưa
rằng:
- “Kính chào Tôn
giả. Tôn giả đã từ lâu không đến đây. Mời ngồi nơi giường này.
- Bấy giờ Tỳ-kheo
ngồi xuống giường ấy. Trưởng giả Úc-già đảnh lễ dưới chân
Tỳ-kheo rồi ngồi sang một bên. Tỳ-kheo bảo rằng:
- “Này Trưởng
giả. Ông có điều thiệân lợi, có công đức lớn. Vì sao vậy? Đức
Thế Tôn, với vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh, ở trong
đó tán thán khen ngợi Trưởng giả Úc-già rằng Trưởng giả Úc-già
có tám pháp vị tằêng hữu. Này trưởng giả, ông có những pháp
gì?”
- Trưởng giả
Úc-già trả lời Tỳ-kheo rằng:
- “Đức Thế Tôn
không hề nói sai, nhưng con không biết Đức Thế Tôn vì lẽ gì
nói như vậy. Nhưng mong Tôn giả nghe cho, về những pháp gì mà
con có.
- “Một thời Phật
du hóa tại Bệ-xá-li, trong Đại lâm. Bấy giờ con chỉ có một số
phụ nữ theo hầu hạ và đang ở trước các phụ nữ ấy, từ Bệ-xá-li
ra đi. Con đi đến khoảng giữa Đại lâm và Bệ-xá-li, chỉ để hoan
lạc với các kỹ nữ, như vị quốc vương. Rồi thì, thưa Tôn giả,
con lúc bấy giờ uống rượu say lúy túy, bỏ các phụ nữ kia ở lại
đó, đi vào trong Đại lâm. Thưa Tôn giả, con đang lúc say rượu
lúy túy, từ đàng xa trông thấy Đức Thế Tôn ở giữa rừng cây,
đoan chánh đẹp đẽ như vầng trăng giữa đám sao, ánh sáng chói
lọi rực rỡ, ánh sáng như tòa núi vàng, đầy đủ tướng tốt, oai
thần nguy nga, các căn tịch tĩnh, không bị ngăn che, thành tựu
sự điều ngự, tâm vắng lặng tịch mặc. Con thấy Đức Phật rồi,
lập tức tỉnh rượu. Bạch Tôn giả, con có pháp ấy.”
- Thầy Tỳ-kheo
khen rằng:
- “Này Trưởng
giả, nếu có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
- “Bạch Tôn giả,
con không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả,
- Sau khi tỉnh
rượu, con liền đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân
Phật rồi ngồi sang một bên. Bấy giờ Đức Thế Tôn thuyết pháp
cho con, khuyến giáo, khích lệ, làm cho hoan hỷ. Sau khi bằng
vô lượng phương tiên thuyết pháp cho con, khuyến giáo, khích
lệ, làm cho hoan hỷ rồi, như thông lệ của chư Phật, trước hết
nói về pháp đoan chánh cho người nghe hoan duyệt; tức là nói
về thí, về giới, nói pháp sanh thiên, chê bai dục là tai hoạn,
sanh tử là ô uế, khen ngợi vô dục là vi diệu, đạo phẩm thanh
tịnh trong trắng. Sau khi Đức Thế Tôn nói những pháp ấy cho
con rồi, Phật biết con có tâm hoan hỷ, tâm cụ túc, tâm nhu
nhuyến, tâm nhẫn nại, tâm thăng tấn, tâm chuyên nhất, tâm
không nghi, tâm không bị che lấp, có khả năng, có sức mạnh, có
thể kham thọ Chánh pháp. Rồi như thông lệ của chư Phật, ngài
nói về pháp yếu chân chánh, Đức Thế Tôn thuyết cho con nghe về
Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Lúc ấy con, ngay trên chỗ ngồi, thấy được
bốn Thánh đế, là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng như vải trắng dễ
nhuộm thành màu, con cũng giống như vậy, ngay nơi chỗ ngồi
thấy được bốn Thánh đế, là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Bạch Tôn giả,
con có pháp ấy.”
- Thầy Tỳ-kheo
khen rằng:
- “Này Trưởng
giả, nếu có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
- “Bạch Tôn giả,
con không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả,
con thấy pháp, giác ngộ pháp, đắc pháp bạch tịnh, đoạn trừ
nghi, vượt qua hoặc, không còn tôn sùng người khác, không còn
theo người khác, không còn do dự, đã trụ nơi quả chứng, được
vô sở úy đối với giáo pháp của Đức Thế Tôn. Bạch Tôn giả, lúc
ấy, con liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ dưới chân
Phật thưa rằng: ‘Bạch Thế Tôn, hôm nay con tự thân xin quy y
Phật, quy y Pháp và Chúng Tỳ-kheo, mong Đức Thế Tôn nhận con
là Ưu-bà-tắc, bắt đầu từ hôm nay cho đến trọn đời, xin’ tự
thân quy y cho đến khi mạng chung. Bạch Thế Tôn, từ nay con
xin theo Đức Thế Tôn trọn đời, lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì
năm giới’. Bạch Tôn giả, từ khi con theo Đức Thế Tôn, trọn đời
lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm giới, chưa từng biết mình
đã phạm giới. Bạch Tôn giả, con có pháp ấy.
- Thầy Tỳ-kheo
khen rằng:
- “Này Trưởng
giả, nếu có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
- “Bạch Tôn giả,
con không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả,
bấy giờ sau khi con theo Đức Thế Tôn, trọn đời lấy phạm hạnh
làm đầu, thọ trì năm giới rồi, cúi đầu nhiễu quanh Phật ba
vòng rồi ra về. Trở về nhà, con liền tập trung các phụ nữ, rồi
nói rằng:
- “– Các ngươi
biết không? Ta đã theo Đức Thế Tôn trọn đời lấy phạm hạnh làm
đầu, thọ trì năm giới. Các ngươi nếu còn muốn được sống ở nơi
đây thì có thể ở và làm việc bố thí tạo phước. Nếu không muốn
ở, ai về nhà nấy. Nếu các ngươi muốn có chồng thì ta sẽ gả
chồng cho.
- “Bấy giờ người
vợ cả thưa với con rằng:
- “– Nếu tôn ông
đã theo Đức Phật, trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm
giới, thì nên đem tôi gả cho người đàn ông kia.
- “Con bấy giờ
gọi người đàn ông kia đến, tay trái cầm tay người vợ cả, tay
phải bưng chậu nước bằng vàng, bảo người kia rằng:
- “– Nay ta đem
người vợ cả này cho ngươi làm vợ.
- “Người ấy nghe
rồi, liền vì quá sợ hãi, nên lông trong thân đều dựng đứng,
thưa với con rằng:
- “– Thưa Trưởng
giả, ngài muốn giết tôi chăng? Ngài muốn giết tôi chăng?”
- “Con nói với
người ấy rằng:
- “– Ta không
giết ngươi đâu. Vì ta đã theo Phật trọn đời lấy phạm hạnh làm
đầu, thọ trì năm giới, do đó ta sẽ đem người vợ cả này cho ông
làm vợ.
- “Thưa Tôn giả,
con đã cho người vợ cả này và ngay trong khi cho đó, hoàn toàn
không có lòng hối tiếc.”
- Thầy Tỳ-kheo
khen rằng:
- “Này Trưởng
giả, nếu có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
- “Bạch Tôn giả,
con không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả,
khi con đến chúng viên[08],
nếu trước hết mà gặp một vị Tỳ-kheo nào, con liền đảnh lễ. Nếu
vị Tỳ-kheo ấy kinh hành, thì con cũng kinh hành. Nếu vị ấy
ngồi, con cũng ngồi theo một bên, ngồi rồi nghe pháp. Vị Tôn
giả ấy thuyết pháp cho con nghe; con cũng thuyết pháp cho vị
Tôn giả ấy nghe. Vị Tôn giả ấy vấn sự con, con cũng vấn sự vị
Tôn giả ấy. Vị Tôn giả ấy trả lời câu hỏi của con, con cũng
trả lời vị Tôn giả ấy. Con nhớ chưa từng có lần nào con khinh
mạn các vị Tỳ-kheo thượng tôn trưởng lão, trung hay hạ. Bạch
Tôn giả, con có pháp ấy.
- Thầy Tỳ-kheo
khen rằng:
- “Này Trưởng
giả, nếu có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
- “Bạch Tôn giả,
con không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả,
khi con ở giữa chúng Tỳ-kheo, hành sự bố thí, thì có chư Thiên
trụ giữa hư không bảo con rằng: ‘Này Trưởng giả, đây là vị
A-la-hán, đây là vị Hướng A-la-hán, đây là vị A-na-hàm, đây là
vị Hướng A-na-hàm, đây là vị Tư-đà-hàm, đây là vị Hướng
Tư-đà-hàm, đây là vị Tu-đà-hoàn, đây là vị Hướng Tu-đà-hoàn.
Vị này tinh tấn, vị này không tinh tấn’. Bạch Tôn giả, khi con
cúng thí cho đại chúng Tỳ-kheo, con nhớ chưa từng có ý phân
biệt. Bạch Tôn giả, con có pháp ấy.”
- Thầy Tỳ-kheo
khen rằng:
- “Này Trưởng
giả, nếu có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
- “Bạch Tôn giả,
con không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả,
khi con hành sự bố thí ở trong chúng Tỳ-kheo, có chư Thiên
trên hư không bảo con rằng: ‘Này Trưởng giả, có Đức Như Lai,
vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được Thế Tôn khéo thuyết,
và Thánh chúng của Như Lai khéo thú hướng’. Bạch Tôn giả, con
không do vi trời kia mà có tín, không do vị trời kia mà dục
lạc, không nghe theo vị kia, nhưng con tự có tịnh trí để biết
Đức Như Lai, Vôâ Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Pháp được Thế Tôn
khéo thuyết, và Thánh chúng của Như Lai khéo thú hướng. Bạch
Tôn giả, con có pháp ấy.”
- Thầy Tỳ-kheo
khen rằng:
- “Này Trưởng
giả, nếu có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
- “Bạch Tôn giả,
con không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả,
Đức Phật có nói về năm hạ phần kiết, tức tham dục, sân nhuế,
thân kiến, giới thủ, và nghi. Con thấy năm kiết sử ấy, hoàn
toàn không có một kiết sử nào còn trói buộc con thác sanh vào
bào thai, trở lại thế gian này. Bạch Tôn giả con có pháp ấy.
- Thầy Tỳ-kheo
khen rằng:
- “Này Trưởng
giả, nếu có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
- Trưởng giả liền
thưa với thầy Tỳ-kheo rằng:
- “Mong Tôn giả ở
lại đây thọ thực. Tỳ-kheo im lặng nhận lời. Sau khi biết
Tỳ-kheo đã im lặng nhận lời, Trưởng giả Úc-già liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, tự mình múc nước rửa tay, rồi đem tất cả rất
nhiều món ăn cứng và mềm rất mỹ, diệu tinh khiết, ngon lành,
tự tay hầu sớt, để cho Tỳ-kheo ăn được no đủ. Ăn xong, dọn cất
đồ đạc và dùng nước rồi, lấy một giường nhỏ ngồi riêng để nghe
pháp.
- Thầy Tỳ-kheo
thuyết pháp cho Trưởng giả, khuyến giáo, khích lệ, làm cho
hoan hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp cho
ông, khuyến giáo, khích lệ, làm cho hoan hỷ rồi, Tỳ-kheo liền
từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi. Đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ
dưới chân Phật rồi ngồi sang một bên, rồi đem trình bày đầy đủ
lại cuộc thảo luận giữa thầy và Trưởng giả Úc-già lên Đức
Phật.
- Bấy giờ Đức Thế
Tôn bảo các thầy Tỳ-kheo rằng:
- “Ta vì lẽ ấy mà
khen ngợi tán thán Trưởng giả Úc-già có tám pháp vị tằng hữu.”
- Phật thuyết như
vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: A. Viii, 21-22 Ugga. Úc-già Trưởng giả: Ugga gahapati.
Có hai vị cùng tên. Vị Trưởng giả ở Vesali (Pāli:
Ugga-gahapati Vesālika), được tán thán trong kinh 39 sau. Theo
nội dung, vị Ugga (Pāli: Ugga-gahapati
-
[02] Du Bệ-xá-li, trú
Đại lâm trung. Pāli: Vesāliya viharati
Mahānava Kūāgārasālāya, trú ở Vesāli, trong giảng đường
Trùng các, trong rừng Đại lâm. Nhưng theo nội dung, có lẽ Phật
đang trú tại làng Hatthi giữa những người Vajji.
-
[03] Úc-già Trưởng
giả. Pāli: Ugga-gahapati.
-
[04] Bản Pāli: Tại
Nāgavana, nơi hưởng lạc của ông gần Hatthigama.
-
[05] Hán: chư Phật
thuyết Chánh pháp yếu. Pāli: Buddhāna
sāmukkasikā dhammadesanā, sự thuyết pháp rất đặc sắc của chư
Phật.
-
[06] Ông phát nguyện
tuyệt dục. Bản Hán: phạm hạnh vi thủ, thọ trì ngũ giới. Bản Pāli: brahmacariyapañcamāni ca sikkhāpādāni
samādiyiṃ, và thọ trì học xứ thứ năm là (?) phạm hạnh.
-
[07] Hán: chư phụ
nhân. Pāli: catasso komāriyo pajāpatiyo, bốn người vợ
trẻ.
-
[08] Hán: chúng viên. Pāli: saghārama, công viên hay tịnh viên của Tăng.
|