- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 05. PHẨM TẬP TƯƠNG ƯNG
-
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời, Phật
du hóa tại nước Ma-kiệt-đà, trong một cái hang trong rừng Mãng
nại[02],
thôn Xà-đấu[03].
- Bấy giờ Tôn giả
Di-hê[04]
làm thị giả Phật.
- Vào buổi sáng
sớm, Tôn giả Di-hê mang y cầm bát vào thôn Xà-đấu khất thực.
Khất thực xong, Tôn giả Di-hê đến bờ sông Kim-bệ[05],
thấy một khu đất bằng phẳng gọi là rừng xoài khả ái[06].
Nước sông Kim-bệ rất tuyệt, thật là đáng ưa. Dòng nước trong[07]
chảy chầm chậm; nóng lạnh ôn hòa, dễ chịu. Thấy xong, Tôn giả
hoan hỷ, thầm nghĩ: “Khu đất này bằng phẳng gọi là rừng xoài
khả ái. Nước sông Kim-bệ rất tuyệt, thật là đáng ưa. Dòng nước
trong chảy chầm chậm; nóng lạnh ôn hòa, dễ chịu. Nếu tộc tánh
tử[08]
nào muốn tu pháp đoạn trừ[09]
thì nên ở chỗ này. Ta cũng có điều phải đoạn trừ[10],
có nên ở chỗ yên tĩnh này để tu pháp đoạn trừ chăng?”
- Liền đó, sau
khi ăn xong, Di-hê thu xếp y bát, rửa tay chân, vắt Ni-sư-đàn[11]
lên vai, đi đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi
sang một bên mà bạch rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
sáng sớm hôm nay con mang y cầm bát vào thôn Xà-đấu khất thực.
Khất thực xong, con đến bờ sông Kim-bệ, thấy một khu đất bằng
phẳng gọi là rừng xoài khả ái. Nước sông Kim-bệ rất tuyệt,
thật là đáng ưa. Dòng nước trong chảy chầm chậm; nóng lạnh ôn
hòa, dễ chịu. Thấy xong, con hoan hỷ, thầm nghĩ: ‘Khu đất này
bằng phẳng gọi là rừng xoài khả ái. Nước sông Kim-bệ rất
tuyệt, thật là đáng ưa. Dòng nước trong chảy chầm chậm; nóng
lạnh ôn hòa, dễ chịu. Nếu tộc tánh tử nào muốn tu pháp đoạn
trừ thì nên ở chỗ này. Ta cũng có điều phải đoạn trừ, có nên ở
chỗ yên tĩnh này để tu pháp đoạn trừ chăng?’ Bạch Thế Tôn, nay
con muốn đến chỗ yên tĩnh, khu rừng xoài kia, để học pháp đoạn
trừ”.
- Bấy giờ Đức Thế
Tôn bảo:
- “Này Di-hê,
ngươi nay có biết chăng? Ta một mình không có ai, không có thị
giả. Ngươi có thể ở lại ít lâu, đợi có Tỳ-kheo khác đến làm
thị giả cho Ta rồi ngươi có thể đến chỗ yên tĩnh khu rừng xoài
kia mà học pháp đoạn trừ”.
- Tôn giả Di-hê
lặp lại ba lần bạch:
- “Bạch Thế Tôn,
nay con muốn đến chỗ yên tĩnh, khu rừng xoài kia, để học pháp
đoạn trừ”.
- Đức Thế Tôn
cũng ba lần nói rằng:
- “Này Di-hê,
ngươi nay có biết chăng? Ta một mình không có ai, không có thị
giả. Ngươi có thể ở lại ít lâu, đợi có Tỳ-kheo khác đến làm
thị giả cho Ta rồi ngươi có thể đến chỗ yên tĩnh khu rừng xoài
kia mà học pháp đoạn trừ”.
- Di-hê lại bạch
rằng:
- “Thế Tôn không
có việc cần làm, không có phận sự cần hoàn tất, không có điều
gì cần phải quán sát[12]
Con còn có những bổn phận, những điều phải làm, những điều
phải quán sát. Bạch Thế Tôn, con đến chỗ yên tĩnh, khu rừng
xoài kia, để học pháp đoạn trừ”.
- Đức Thế Tôn
bảo:
- “Này Di-hê,
ngươi mong cầu sự đoạn trừ[13],
Ta có gì để nói thêm nữa? Di-hê, ngươi cứ đi, làm theo những
gì mà ngươi muốn”.
- Bấy giờ Di-hê
sau khi nghe lời Đức Phật dạy, khéo lãnh thọ, khéo ghi nhớ và
khéo tụng tập. Tôn giả liền đảnh lễ sát chân Đức Phật, đi
quanh ba vòng, rồi đi.
- Sau khi đến
rừng xoài, vào rừng, Tôn giả đi đến một gốc cây, trải
Ni-sư-đàn mà ngồi kết già. Tôn giả Di-hê sống trong rừng xoài,
sanh khởi lên ba tâm niệm ác bất thiện là tâm niệm dục, tâm
niệm nhuế và tâm niệm hại[14].
Do đó, Tôn giả liền nghĩ đến Đức Thế Tôn.
- Bấy giờ vào lúc
xế chiều, Tôn giả từ chỗ tĩnh tọa đứng dậy, đến trước Đức Thế
Tôn, đảnh lễ chân Ngài, ngồi sang một bên và bạch rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
con đến rừng xoài kia, ngồi ở chỗ yên tĩnh, liền sanh khởi ba
tâm niệm ác bất thiện là tâm niệm dục, tâm niệm nhuế và tâm
niệm hại. Do đó, con liền nghĩ đến Thế Tôn”.
- Đức Thế Tôn
bảo:
- “Này Di-hê, tâm
giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục, có năm pháp
để tu tập. Những gì là năm?
- “Di-hê, Tỳ-kheo
tự mình là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức
và cùng hòa hợp với thiện tri thức[15].
Này Di-hê, với ai tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho
thuần thục thì đó là pháp tu tập thứ nhất.
- “Lại nữa, này
Di-hê, Tỳ-kheo phải tu tập cấm giới, thủ hộ tùng giải thoát[16],
lại phải khéo thâu nhiếp oai nghi lễ tiết, thấy tội lỗi nhỏ
nhặt cũng thường sanh lòng lo sợ, thọ trì học giới. Này Di-hê,
với tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục thì
đó là pháp tu tập thứ hai. “Lại nữa, này Di-hê, Tỳ-kheo nên
nói điều đáng nói, phù hợp nghĩa của bậc Thánh, khiến tâm nhu
nhuyến, làm cho tâm không bị che lấp, tức là nói về giới, nói
về định, nói về tuệ, nói về giải thoát, nói về giải thoát tri
kiến, nói về sự tổn giảm lần lần, nói về việc không ưa tụ họp,
nói về thiểu dục, nói về tri túc, nói về pháp đoạn trừ, nói về
vô dục, nói về pháp diệt, nói về tĩnh tọa, nói về duyên khởi.
Có được những điều được nói như vậy của Sa-môn, được trọn đủ,
dễ được chứ không khó. Này Di-hê, với ai tâm giải thoát chưa
thuần thục mà muốn cho thuần thục thì đó là pháp tu tập thứ
ba.
- “Lại nữa, này
Di-hê, Tỳ-kheo thường tu hành tinh tấn, đoạn trừ pháp ác bất
thiện, tu các pháp thiện, thường tự khởi ý, chuyên nhất kiên
cố; vì mục đích tìm cầu gốc rễ thiện mà không xả bỏ phương
tiện[17].
Này Di-hê, với ai tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho
thuần thục thì đó là pháp tu tập thứ tư.
- “Lại nữa, này
Di-hê, Tỳ-kheo tu hành về trí tuệ, quán sát sự hưng thịnh và
suy vi của các pháp; chứng trí như vậy, bằng Thánh tuệ minh
đạt[18],
phân biệt thấu hiểu, mà chân chánh diệt tận khổ đau. Này
Di-hê, với ai tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần
thục thì đó là pháp tu tập thứ năm.
- “Vị ấy khi đã
có năm pháp tu tập như vậy rồi, lại phải tu bốn pháp khác nữa.
Những gì là bốn? Tu ố lộ[19]
để đoạn trừ dục. Tu từ để đoạn trừ sân nhuế. Tu sổ tức để đoạn
trừ tâm niệm tán loạn. Tu vô thường để đoạn trừ ngã mạn.
- “Này Di-hê, nếu
Tỳ-kheo nào tự mình là thiện tri thức, cùng sống chung với
thiện tri thức và cùng hòa hợp với thiện tri thức, thì nên
biết vị ấy chắc chắn tu tập cấm giới, thủ hộ tùng giải thoát,
lại khéo thâu nhiếp các oai nghi, lễ tiết, thấy tội nhỏ cũng
sanh lòng lo sợ, thọ trì học giới.
- “Này Di-hê, nếu
Tỳ-kheo nào tự mình là thiện tri thức, cùng sống chung với
thiện tri thức và cùng hòa hợp với thiện tri thức, thì nên
biết, vị ấy nói điều đáng nói, đúng theo nghĩa của bậc Thánh,
khiến tâm nhu nhuyến, làm cho tâm chẳng bị ngăn che, tức là
nói về giới, nói về định, nói về tuệ, nói về giải thoát, nói
về giải thoát tri kiến, nói về sự tổn giảm dần dần, nói về
việc không ưa tụ họp, nói về thiểu dục, nói về tri túc, nói về
pháp đoạn, nói về pháp diệt, nói về vô dục, nói về tĩnh tọa,
nói về duyên khởi. Có được những điều được nói như vậy của
Sa-môn, được trọn đủ, dễ được chứ không khó.
- “Này Di-hê, nếu
Tỳ-kheo tự mình là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện
tri thức và cùng hòa hợp với thiện tri thức, thì nên biết
rằng, vị ấy chắc chắn thường tu hành tinh tấn, đoạn các pháp
ác bất thiện, thường khởi tâm chuyên nhất kiên cố, vì mục đích
tìm cầu gốc rễ thiện mà không xả bỏ phương tiện.
- “Này Di-hê, nếu
Tỳ-kheo nào tự mình là thiện tri thức, cùng sống chung với
thiện tri thức và cùng hòa hợp với thiện tri thức, thì nên
biết rằng, vị ấy chắc chắn tu hành về trí tuệ, quán sát sự
hưng thịnh và suy vi của các pháp; chứng trí như vậy, bằng
Thánh tuệ minh đạt, phân biệt thấu hiểu, mà chân chánh diệt
tận khổ đau.
- “Này Di-hê, nếu
Tỳ-kheo nào tự mình là thiện tri thức, cùng sống chung với
thiện tri thức và cùng hòa hợp với thiện tri thức, thì nên
biết rằng, vị ấy chắc chắn tu ố lộ để đoạn trừ dục. Tu từ để
đoạn trừ sân nhuế. Tu sổ tức để đoạn trừ tâm niệm tán loạn. Tu
vô thường để đoạn trừ ngã mạn.
- “Này Di-hê, nếu
Tỳ-kheo nào đắc vô thường tưởng, chắc chắn đắc vô ngã tưởng.
- “Này Di-hê, nếu
Tỳ-kheo nào đắc vô ngã tưởng thì ngay trong đời hiện tại đoạn
hết thảy ngã mạn, chứng đắc tịch tĩnh, diệt tận, vô vi,
Niết-bàn”.
- Phật thuyết như
vậy. Tôn giả Di-hê và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết,
hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: A. ix.3. Meghiya.
-
[02] Mãng nại lâm , tức khu rừng xoài. Pāli: ambavana.
-
[03] Xà-đấu thôn. Pāli: Jantugāma, gần làng Calikā. Pāli: cālikāyaṃ viharati
cālikāpabbate, trú ở làng Calikā, trên núi Cālikapabbata. Phật
an cư vào mùa mưa ở đây vào các năm thứ 13, 18 và 19, sau khi
thành đạo. Calikapabbata là một ngọn đồi màu trắng nên vào
những đêm tối người ta thấy nó hình như chuyển động.
-
[04] Di-hê. Pāli:
Meghiya.
-
[05] Kim-bệ.
Pāli: Kimikālā.
-
[06] Hán: danh hảo
nại lâm. Pāli: addasā… ambavana pāsādika ramaya,
thấy khu rừng xoài xinh đẹp, đáng ưa.
-
[07] Hán: tuyền thủy.
-
[08] Tộc tánh tử, cũng thường nói thiện nam tử hay thiện gia nam tử, Pāli:
kulaputta.
-
[09] Hán: học đoạn.
Pāli: (…) padhānatthikassa padhānāya, để (tu tập) tinh cần cho
ai tinh cần. Bản Hán, đọc pahāna (đoạn trừ) thay vì padhāna
(tinh cần).
-
[10] Hán: hữu sở đoạn. Xem cht. trên.
-
[11] Ni-sư-đàn.
Pāli: nisīdana, tọa cụ, khăn trải ngồi.
-
[12] Hán: vô vi, vô
tác, diệc vô sở quán. Pāli: natthi kiñci
uttari karanīya, natthi katassa paṭicayo, không có phận sự gì
thêm nữa, không có việc làm thêm đối với điều đã làm.
-
[13] Nghĩa là, “muốn
tinh cần”.
-
[14] Dục niệm nhuế
niệm hại niệm. Pāli: kāma-vitakka, vyāpāda-vitakka,
vihiusā-vitakka, suy cầu tham dục, suy cầu sân hận, suy cầu
bức hại.
-
[15] Pāli:
kayāamitto hoti kalyāasahāyo kalyāasampavako, là bạn tốt,
người đồng hành tốt, thân hữu tốt.
-
[16] Tùng giải thoát,
tức biệt giải thoát, hay Ba-la-đề-mộc-xoa.
-
[17] Pāli:
anikkhittadhuro kusalesu dhammesu, không trút bỏ gánh nặng
trong các pháp thiện.
-
[18] Thánh tuệ minh
đạt. Pāli: ariyanibbedhikapaññā, trí tuệ quyết trạch
của Thánh.
-
[19] Ố (hay ác) lộ. Pāli: asubha, bất tịnh
|