- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 06. PHẨM VƯƠNG TƯƠNG ƯNG
-
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Đức
Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
- Bấy giờ Tôn giả
A-nan ở nơi nhàn tĩnh, ngồi trầm lặng tư duy và suy nghĩ như
vầy: “Người đời thật hiếm, ít ai có thể thỏa mãn đối với dục;
ít ai có sự nhờm tởm, ghê sợ dục cho đến chết. Người đời mà
đối với dục có sự thỏa mãn, nhàm tởm, ghê sợ cho đến chết, quả
là quá khó kiếm.”
- Rồi Tôn giả
A-nan, vào lúc xế chiều, từ chỗ yên nghỉ đứng dậy, đi đến
trước Phật, đảnh lễ, rồi ngồi qua một bên và thưa:
- “Bạch Đức Thế
Tôn, hôm nay con ở chỗ nhàn tĩnh, ngồi trầm lặng tư duy, đã
suy nghĩ như vầy: “Người đời thật hiếm, ít ai có thể thỏa mãn
đối với dục; ít ai có sự nhờm tởm, ghê sợ dục cho đến chết.
Người đời mà đối với dục có sự thỏa mãn, nhàm tởm, ghê sợ cho
đến chết, quả là quá khó kiếm!”
- Phật bảo A-nan:
- “Đúng như vậy,
đúng như vậy! Người đời thật hiếm, ít ai có thể thỏa mãn đối
với dục; ít ai có sự nhờm tởm, ghê sợ dục cho đến chết. Người
đời mà đối với dục có sự thỏa mãn, nhàm tởm, ghê sợ cho đến
chết, quả là quá khó kiếm!
- “Nhưng này
A-nan, trong thế gian, những người đối với dục mà không thỏa
mãn, không nhờm tởm, ghê sợ cho đến chết thì thật quá nhiều!
Thật quá nhiều! Vì sao? Này A-nan, trong đời quá khứ, có nhà
vua tên là Đảnh Sanh[02]
làm Chuyển luân vương, thông minh trí tuệ, có bốn loại quân,
ngự trị thiên hạ, tự do tự tại, là pháp vương hành động theo
chánh pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu ấy là: xe báu, voi báu,
ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và tướng quân báu. Đó là
bảy báu. Vị ấy có đủ một ngàn người con trai, mặt mày khôi
ngô, dõng mãnh, không khiếp sợ, nhiếp phục được người khác. Vị
ấy thống lãnh khắp cả cõi đất này cho đến biển cả, không dùng
đao gậy, chỉ dùng pháp giáo hóa, khiến cho an lạc.
- “Này A-nan, một
thời gian hết sức lâu xa về sau, vua Đảnh Sanh ấy nghĩ rằng:
‘Ta có châu Diêm-phù giàu có, hoan lạc cùng cực, nhân dân đông
đúc. Ta có bảy báu; đầy đủ một ngàn người con. Ta muốn ngay ở
cung điện này mưa báu bảy ngày, dâng đến tận đầu gối’. Này
A-nan, vua Đảnh Sanh có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại
phước hựu, có đại oai thần, nên vừa khởi tâm ưa thích như vậy,
tức thì ở trong cung mưa báu bảy ngày, dâng đến đầu gối.
- “Này A-nan, một
thời gian hết sức lâu xa về sau, vua Đảnh Sanh kia lại nghĩ
rằng: ‘Ta có châu Diêm-phù giàu có, hoan lạc cùng cực, nhân
dân đông đúc. Ta có bảy báu, đầy đủ một ngàn đứa con, và ở
trong cung này, mưa báu bảy ngày, dâng đến đầu gối. Ta nhớ đã
từng nghe nơi người xưa nói rằng, ở phương Tây có châu tên là
Cù-đà-ni[03],
giàu có, hoan lạc cùng cực, nhân dân đông đúc. Nay ta muốn đến
xem châu Cù-đà-ni. Sau khi đến, ta sẽ thống trị’. Này A-nan,
vua Đảnh Sanh có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước
hựu, có đại oai thần, nên vừa khởi tâm ưa thích như vậy, liền
dùng như ý túc cưỡi lên hư không mà đi, cùng với bốn loại
quân. Này A-nan, vua Đảnh Sanh trong phút chốc liền đến trú ở
châu Cù-đà-ni kia.
- “Này A-nan, sau
khi đến ở, nhà vua đã ngự trị châu Cù-đà-ni suốt vô lượng trăm
ngàn vạn năm.
- “Này A-nan, một
thời gian hết sức lâu xa về sau nữa, vua Đảnh Sanh kia lại
nghĩ: ‘Ta có châu Diêm-phù giàu có, hoan lạc cùng cực, nhân
dân đông đúc. Ta có bảy báu, đầy đủ một ngàn đứa con, và ở
trong cung này, mưa báu bảy ngày, dâng đến đầu gối. Ta lại có
thêm châu Cù-đà-ni. Ta đã từng nghe người xưa có nói rằng, ở
phương Đông có châu tên là Phất-bà-bệ-đà-đề[04]
giàu có, hoan lạc cùng cực, nhân dân đông đúc. Nay ta muốn đến
xem châu Phất-bà-bệ-đà-đề. Sau khi đến, ta sẽ thống trị’. Này
A-nan, vua Đảnh Sanh có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại
phước hựu, có đại oai thần, nên vừa khởi tâm ưa thích như vậy,
liền dùng như ý túc cưỡi lên hư không mà đi, cùng với bốn loại
quân. Này A-nan, vua Đảnh Sanh trong phút chốc liền đến trú ở
châu Phất-bà-bệ-đà-đề kia. Này A-nan, sau khi đến ở, nhà vua
ngự trị châu Phất-bà-bệ-đà-đề suốt vô lượng trăm ngàn vạn năm.
- “Này A-nan, một
thời gian hết sức lâu xa về sau nữa, vua Đảnh Sanh kia lại
nghĩ: ‘Ta có châu Diêm-phù giàu có, hoan lạc cùng cực, nhân
dân đông đúc. Ta có bảy báu, đầy đủ một ngàn người con, và ở
trong cung mưa báu bảy ngày dâng đến đầu gối. Ta lại có thêm
châu Cù-đà-ni, có thêm châu Phất-bà-bệ-đà-đề. Ta lại từng nghe
người xưa có nói rằng, ở phương Bắc có châu tên là
Uất-đơn-viết[05],
giàu có, hoan lạc cùng cực, nhân dân đông đúc, họ tuy không có
ngã tưởng, không có thọ dụng riêng[06],
nhưng ta muốn cùng quyến thuộc đi xem châu Uất-đơn-viết, để
thống trị’. Này A-nan, vua Đảnh Sanh có đại như ý túc, có đại
oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, nên vừa khởi tâm
ưa thích như vậy, liền dùng như ý túc cưỡi hư không mà đi cùng
với bốn loại quân. Này A-nan, nhà vua thấy đất trắng bằng
phẳng từ xa, bảo các cận thần:
- “– Các khanh có
thấy đất trắng bằng phẳng của châu Uất-đơn-viết này không?
- “Các cận thần
đáp:
- “– Dạ thấy, tâu
Thiên vương.
- “Nhà vua lại
bảo:
- “– Các khanh
biết không? Đó là lúa tự nhiên của người xứ Uất-đơn-viết.
Người Uất-đơn-viết thường ăn loại thức ăn đó. Các khanh cũng
nên ăn loại thức ăn đó.
- “Này A-nan, xa
xa, vua Đảnh Sanh lại thấy tại châu Uất-đơn-viết có biết bao
loại cây quí báu, khoe đủ màu sắc ở trong lan can, liền bảo
cận thần:
- “– Các khanh có
thấy biết bao nhiêu loại cây quí báu, khoe đủ màu sắc ở trong
lan can tại châu Uất-đơn-viết không?
- “Các cận thần
đáp:
- “– Dạ thấy, tâu
Thiên vương.
- “Vua lại đáp:
- “– Các khanh
biết không? Đó là thứ cây áo[07]
của người xứ Uất-đơn-viết. Người Uất-đơn-viết dùng thứ ấy mà
mặc. Các khanh cũng nên dùng thứ ấy mà mặc.
- “Này A-nan,
trong phút chốc, nhà vua đến trú ở châu Uất-đơn-viết. Này
A-nan, sau khi cùng quyến thuộc đến đó, vua Đảnh Sanh thống
trị châu Uất-đơn-viết suốt cả trăm ngàn vạn năm.
- “Này A-nan, một
thời gian hết sức lâu xa về sau nữa, vua Đảnh Sanh kia lại
nghĩ: ‘Ta có châu Diêm-phù giàu có vô cùng, nhân dân đông đúc.
Ta có bảy báu, đầy đủ một ngàn người con và ở trong cung mưa
báu bảy ngày, dâng đến đầu gối. Ta cũng có châu Cù-đà-ni, cũng
có châu Phất-bà-bệ-đà-đề lại có thêm châu Uất-đơn-viết. Ta lại
từng nghe người xưa nói rằng, có cõi trời tên là Tam thập tam
thiên. Nay ta muốn đến thấy Tam thập tam thiên’.
- “Này A-nan, vua
Đảnh Sanh có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu,
có đại oai thần, nên vừa khởi tâm ưa thích như vậy, liền dùng
như ý túc cưỡi hư không cùng với bốn loại quân, hướng theo ánh
sáng mặt trời mà đi. Này A-nan, từ xa, vua Đảnh Sanh đã thấy ở
trong Tam thập tam thiên, trên đỉnh núi chúa Tu di, có một vật
lớn như một đám mây lớn, liền bảo các cận thần:
- “– Các khanh có
thấy ở trên đỉnh núi chúa Tu di trong cõi trời Tam thập tam
(có một vật) như một đám mây lớn ấy chăng?
- “Các cận thần
đáp:
- “– Dạ thấy, tâu
Thiên vương.
- “Nhà vua lại
bảo:
- “– Các khanh
biết chăng? Đó là cây Trú đạc[08]
của trời Tam thập tam thiên vậy. Dưới gốc cây này, vào mùa hạ
tháng tư, các vị Trời ở Tam thập tam thiên vui chơi với đầy đủ
năm thứ dục lạc.
- “Này A-nan, từ
xa, vua Đảnh Sanh thấy ở trong trời Tam thập tam thiên, trên
đỉnh núi chúa Tu di, gần về hướng Nam có một vật giống như đám
mây lớn, liền bảo các cận thần:
- “– Các khanh có
thấy ở trong trời Tam thập tam thiên, trên đỉnh núi Tu di, gần
về mé Nam, có một vật giống như đám mây lớn không?
- “– Có thấy, tâu
Thiên vương.
- “Nhà vua lại
bảo:
- “– Các khanh
biết không? Đó là nhà Chánh pháp[09]
của Tam thập tam thiên. Vị Trời Tam thập tam thiên ở trong nhà
ấy, vào những ngày mồng tám, mười bốn hoặc mười lăm, vì loài
trời, vì loài người mà tư duy về pháp, tư duy về nghĩa.
- “Này A-nan, vua
Đảnh Sanh liền đến cõi Tam thập tam thiên. Đến nơi, nhà vua đi
vào nhà Chánh pháp. Ở đó, Thiên Đế-thích nhường một nửa chỗ
ngồi cho vua Đảnh Sanh và mời ngồi. Vua Đảnh Sanh liền ngồi
xuống trên nửa chỗ ngồi của Thiên Đế-thích. Bấy giờ, nhà vua
và Thiên Đế-thích hoàn toàn không khác gì nhau; ánh sáng và
ánh sáng không khác, màu sắc và màu sắc không khác, hình dung
và hình dung không khác, oai nghi lễ tiết và y phục cũng không
khác nhau; chỉ có con mắt nháy là khác nhau.
- “Này A-nan, vua
Đảnh Sanh kia một thời gian hết sức lâu xa về sau nữa, lại
nghĩ: ‘Ta có châu Diêm-phù giàu có, hoan lạc cùng cực, nhân
dân đông đúc. Ta có bảy báu, đầy đủ một ngàn người con, và ở
trong cung mưa báu bảy ngày dâng đến đầu gối. Ta lại có châu
Cù-đà-ni, có châu Phất-bà-bệ-đà-đề, có châu Uất-đơn-viết. Ta
cũng đã thấy Tam thập tam thiên vân tập đại hội. Ta đã được
vào nhà Chánh pháp của chư Thiên, lại được Thiên Đế-thích
nhường cho một nửa chỗ ngồi, và ta đã ngồi trên một nửa chỗ
ngồi của Thiên Đế-thích. Ta với Thiên Đế-thích hoàn toàn không
khác gì nhau; ánh sáng không khác, màu sắc không khác, hình
dung không khác, oai nghi lễ tiết cho đến y phục cũng không
sai khác, chỉ có con mắt nháy là khác nhau mà thôi. Nay có lẽ
ta đuổi Thiên Đế-thích đi, cướp lấy phân nửa chỗ ngồi ấy mà
làm vua loài Trời và loài Người, tự do tự tại.
- “Này A-nan, vua
Đảnh Sanh vừa khởi ý niệm như vậy, bất giác rơi xuống châu
Diêm-phù, liền mất như ý túc, nhuốm bệnh, đau nguy kịch. Đến
lúc sắp chết, các cận thần đến bên nhà vua hỏi rằng:
- “– Tâu Thiên
vương, nếu có vị Phạm chí, cư sĩ và kẻ bày tôi hay thần dân
nào đến hỏi các hạ thần rằng: ‘Lúc băng hà Đảnh Sanh vương chỉ
bảo những gì?’ Tâu Thiên vương, các hạ thần trả lời thế nào
cho Phạm chí, cư sĩ hay thần dân ấy?
- “Nhà vua bảo
cận thần:
- “– Nếu có Phạm
chí, cư sĩ, hay thần dân nào đến hỏi các khanh rằng: ‘Lúc băng
hà, nhà vua đã nói những gì?’ Thì các khanh nên đáp như thế
này: ‘Vua Đảnh Sanh đã được châu Diêm-phù, nhưng khi chết vẫn
chưa thỏa mãn. Vua Đảnh Sanh đã được bảy báu, nhưng khi chết
vẫn chưa được thỏa mãn. Vua Đảnh Sanh đã đầy đủ một ngàn người
con, nhưng khi chết vẫn chưa thỏa mãn. Vua Đảnh Sanh đã có bảy
ngày mưa báu, nhưng khi chết vẫn chưa thỏa mãn. Vua Đảnh Sanh
đã được châu Cù-đà-ni, nhưng khi chết vẫn chưa thỏa mãn. Vua
Đảnh Sanh đã được châu Phất-bà-bệ-đà-đề, nhưng khi chết vẫn
chưa thỏa mãn. Vua Đảnh Sanh đã được châu Uất-đơn-viết, nhưng
khi chết vẫn chưa thỏa mãn. Vua Đảnh Sanh đã thấy chư Thiên tụ
hội, nhưng khi chết vẫn chưa thỏa mãn. Vua Đảnh Sanh đã hưởng
đầy đủ các đặc tính của năm thứ dục lạc, sắc, thanh, hương,
vị, xúc; nhưng khi chết vẫn chưa thỏa mãn’. Nếu có vị Phạm
chí, hay thần dân nào đến hỏi các khanh rằng: ‘Lúc băng hà vua
Đảnh Sanh đã nói những gì?’ Thì các khanh nên trả lời đúng như
thế.”
- Bấy giờ Đức Thế
Tôn đọc bài tụng:
- Trời mưa
trân bảo quí,
- Chưa thỏa
lòng kẻ dục.
- Ham muốn,
khổ; nào vui.
- Kẻ trí cần
phải biết.
- Giả sử được
đống vàng,
- Cao như núi
Hy-mã,
- Vẫn chưa đủ
mảy may;
- Kẻ trí nghĩ
như vậy.
- Được ngũ dục
trên trời,
- Chẳng cho đó
là vui.
- Dứt ái,
không đắm dục;
- Là đệ tử
Chánh giác.
- Rồi Đức Thế Tôn
bảo:
- “Này A-nan, vua
Đảnh Sanh ngày xưa ấy, Ông cho là ai khác chăng? Chớ nghĩ như
vậy. Nên biết rằng, vị ấy chính là Ta vậy. Này A-nan, lúc bấy
giờ ta được lợi ích, cũng làm lợi ích cho người khác, cho mọi
người, thương xót thế gian, vì trời và vì loài người mà cầu
nghĩa và lợi ích, cầu an ổn khoái lạc. Lúc bấy giờ, Ta nói
pháp không đến chỗ rốt ráo, không rốt ráo bạch tịnh, không rốt
ráo phạm hạnh. Vì không rốt ráo phạm hạnh hoàn toàn, lúc ấy Ta
không lìa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, khóc than, ảo não,
cũng chưa thể thoát ra ngoài mọi khổ đau. Này A-nan, hôm nay
Ta xuất hiện ở thế gian, là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu là Phật, là Chúng Hựu.
Nay Ta đã làm lợi ích cho mình, cũng làm lợi ích cho người
khác, cho mọi người, thương xót thế gian, vì trời và vì người
mà cầu nghĩa và lợi ích, cầu an ổn khoái lạc.
- “Nay Ta thuyết
pháp đã đến chỗ rốt ráo, rốt ráo bạch tịnh, rốt ráo phạm hạnh.
Khi đã rốt ráo phạm hạnh; Ta lìa khỏi sự sanh, già, bệnh,
chết, khóc than, ảo não. Ta đã thoát khỏi mọi khổ đau.”
- Đức Phật thuyết
giảng như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe
thuyết giảng, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú thích:
-
[01] Không thấy Pāli
tương đương. Tham chiếu Divy. tr.210-226. Hán biệt dịch,
No.39. Phật Thuyết Đảnh Sanh Vương Cố Sự Kinh, Tây Tấn Pháp Cự
dịch; No.40. Văn-đà-kiệt Vương Kinh, Bắc Lương Đàm-vô-sấm
dịch; No.125 (17.7) Tăng Nhất, phẩm 17 kinh số 7.
-
[02] Đảnh Sanh,
Pāli: Muddhāvasitta; No.40 âm là Văn-đà-kiệt. Thường gọi là
Quán đảnh vương, vua được truyền ngôi bằng phép quán đảnh.
-
[03] Cù-đà-ni,
tức Tây ngưu hóa châu (đại lục phía tây, nơi lấy bò làm vật
ngang giá để trao đổi hàng hóa).
-
[04] Phất-bà-bệ-đà-đề. Pāli: pubbavideha, châu Thắng thân ở phương Đông.
-
[05] Uất-đơn-viết; phiên âm khác: Bắc Câu-lô châu. Pāli: Uttara-kura.
-
[06] Nghĩa là, không
có ý tưởng về tự ngã hay linh hồn và không có tư hữu hay sở
hữu cá nhân.
-
[07] Y thọ . Người ở
đây dùng vỏ cây làm y phục.
-
[08] Trú đạc thọ, “cây đo bóng ngày”. Pāli: pāricchattaka, cũng dịch là san
hô thọ, viên sanh thọ.
-
[09] Chánh pháp đường; Pāli: Dhammasabhā, hội trường của chư Thiên.
|