- 06. PHẨM VƯƠNG TƯƠNG ƯNG
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trú
trong rừng Thắng, vườøn Cấp cô độc.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ta dùng thiên nhãn thanh tịnh, thấy xa hơn
người, nhìn thấy chúng sinh này lúc sinh lúc tử, sắc đẹp hoặc
xấu, thiện hoặc bất thiện, qua lại chỗ lành hoặc chỗ chẳng
lành, tùy theo nghiệp mà chúng sinh ấy đã tạo. Ta thấy sự kiện
ấy đúng như thật. Nếu chúng sinh nào thành tựu thân ác hành,
khẩu, ý ác hành, phỉ báng Thánh nhân, tà kiến, thì do nhân
duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chúng sinh này chắc chắn
đi đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. Còn nếu chúng sinh nào thành
tựu thân thiện hành, khẩu, ý thiện hành, không phỉ báng Thánh
nhân, có chánh kiến, thành tựu nghiệp chánh kiến, thì do nhân
duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chúng sinh này chắc chắn
đi đến chỗ lành, sanh vào cõi trời.
“Cũng như lúc mưa lớn, bọt nước sanh ra rồi
diệt. Nếu ai có mắt đứng yên một nơi mà quán sát bọt nước khi
sinh, khi diệt. Ta cũng như vậy, bằng thiên nhãn thanh tịnh,
thấy xa hơn người, nhìn thấy chúng sinh này lúc sinh lúc tử,
sắc đẹp hoặc xấu, thiện hoặc bất thiện, qua lại chỗ lành hoặc
chỗ chẳng lành, tùy theo nghiệp mà chúng sinh ấy đã tạo. Ta
thấy sự kiện ấy đúng như thật. Nếu chúng sinh nào thành tựu
thân ác hành, khẩu, ý ác hành, phỉ báng Thánh nhân, tà kiến,
thì do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chúng sinh này
chắc chắn đi đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. Còn nếu chúng sinh
nào thành tựu thân thiện hành, khẩu, ý thiện hành, không phỉ
báng Thánh nhân, có chánh kiến, thành tựu nghiệp chánh kiến,
thì do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chúng sinh này
chắc chắn đi đến chỗ lành, sanh vào cõi trời.
“Cũng như mưa lớn, giọt nước rơi xuống hoặc chỗ
cao, hoặc ở chỗ thấp; nếu ai có mắt, đứng yên một nơi mà quán
sát nước lúc giọt chỗ cao, lúc giọt chỗ thấp. Ta cũng như vậy,
bằng thiên nhãn thanh tịnh, thấy xa hơn người, nhìn thấy chúng
sinh này lúc sinh lúc tử, sắc đẹp hoặc xấu, thiện hoặc bất
thiện, qua lại chỗ lành hoặc chỗ chẳng lành, tùy theo nghiệp
mà chúng sinh ấy đã tạo. Ta thấy sự kiện ấy đúng như thật. Nếu
chúng sinh nào thành tựu thân ác hành, khẩu, ý ác hành, phỉ
báng Thánh nhân, tà kiến, thì do nhân duyên đó, khi thân hoại
mạng chung, chúng sinh này chắc chắn đi đến chỗ ác, sanh vào
địa ngục. Còn nếu chúng sinh nào thành tựu thân thiện hành,
khẩu, ý thiện hành, không phỉ báng Thánh nhân, có chánh kiến,
thành tựu nghiệp chánh kiến, thì do nhân duyên đó, khi thân
hoại mạng chung, chúng sinh này chắc chắn đi đến chỗ lành,
sanh vào cõi trời.
“Cũng như ngọc lưu ly, thanh tịnh tự nhiên,
sanh ra không có tỳ vết, ô uế, tám góc khéo trau chuốt, được
xâu qua bằng sợi dây đẹp hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đỏ, hoặc
đen, trắng; người nào có mắt, đứng yên một chỗ mà quán sát
ngọc lưu ly này thanh tịnh tự nhiên, sanh ra không có tỳ vết,
ô uế, tám góc khéo trau chuốt, được xâu qua bằng sợi dây đẹp
hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đỏ, đen, trắng. Ta cũng như vậy,
bằng thiên nhãn thanh tịnh, thấy xa hơn người, nhìn thấy chúng
sinh này lúc sinh lúc tử, sắc đẹp hoặc xấu, thiện hoặc bất
thiện, qua lại chỗ lành hoặc chỗ chẳng lành, tùy theo nghiệp
mà chúng sinh ấy đã tạo. Ta thấy sự kiện ấy đúng như thật. Nếu
chúng sinh nào thành tựu thân ác hành, khẩu, ý ác hành, phỉ
báng Thánh nhân, tà kiến, thì do nhân duyên đó, khi thân hoại
mạng chung, chúng sinh này chắc chắn đi đến chỗ ác, sanh vào
địa ngục. Còn nếu chúng sinh nào thành tựu thân thiện hành,
khẩu, ý thiện hành, không phỉ báng Thánh nhân, có chánh kiến,
thành tựu nghiệp chánh kiến, thì do nhân duyên đó, khi thân
hoại mạng chung, chúng sinh này chắc chắn đi đến chỗ lành,
sanh vào cõi trời.
“Cũng như hai nhà có chung cửa ngõ, nhiều người
ra vào; nếu ai có mắt, đứng yên một chỗ thì thấy người ra, kẻ
vào. Ta cũng như vậy, bằng thiên nhãn thanh tịnh, thấy xa hơn
người, nhìn thấy chúng sinh này lúc sinh lúc tử, sắc đẹp hoặc
xấu, thiện hoặc bất thiện, qua lại chỗ lành hoặc chỗ chẳng
lành, tùy theo nghiệp mà chúng sinh ấy đã tạo. Ta thấy sự kiện
ấy đúng như thật. Nếu chúng sinh nào thành tựu thân ác hành,
khẩu, ý ác hành, phỉ báng Thánh nhân, tà kiến, thì do nhân
duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chúng sinh này chắc chắn
đi đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. Còn nếu chúng sinh nào thành
tựu thân thiện hành, khẩu, ý thiện hành, không phỉ báng Thánh
nhân, có chánh kiến, thành tựu nghiệp chánh kiến, thì do nhân
duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chúng sinh này chắc chắn
đi đến chỗ lành, sanh vào cõi trời.
“Nếu ai có mắt, đứng yên trên lầu cao nhìn
người dưới thấp qua lại, đổi thay đủ cách, ngồi, nằm, chạy,
nhảy. Ta cũng như vậy, bằng thiên nhãn thanh tịnh, thấy xa hơn
người, nhìn thấy chúng sinh này lúc sinh lúc tử, sắc đẹp hoặc
xấu, thiện hoặc bất thiện, qua lại chỗ lành hoặc chỗ chẳng
lành, tùy theo nghiệp mà chúng sinh ấy đã tạo. Ta thấy sự kiện
ấy đúng như thật. Nếu chúng sinh nào thành tựu thân ác hành,
khẩu, ý ác hành, phỉ báng Thánh nhân, tà kiến, thì do nhân
duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chúng sinh này chắc chắn
đi đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. Còn nếu chúng sinh nào thành
tựu thân thiện hành, khẩu, ý thiện hành, không phỉ báng Thánh
nhân, có chánh kiến, thành tựu nghiệp chánh kiến, thì do nhân
duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chúng sinh này chắc chắn
đi đến chỗ lành, sanh vào cõi trời.
“Nếu chúng sinh nào sinh ở nhân gian, không
hiếu thảo với cha mẹ, không biết kính trọng Sa-môn, Phạm chí,
không làm đúng như thật, không tạo phước nghiệp, không sợ tội
đời sau, thì do nhân duyên ấy, khi thân hoại mạng chung, chúng
sinh ấy sanh vào cảnh giới của Diêm vương. Người của Diêm
vương bắt đưa đến chỗ vua và thưa rằng:
“– Tâu Thiên vương, chúng sinh này lúc còn làm
người, không hiếu thảo cha mẹ, không biết kính trọng Sa-môn,
Phạm chí, không làm đúng như thật, không tạo phước nghiệp,
không sợ tội đời sau. Mong Thiên vương trừng phạt đúng theo
tội trạng của nó.
“Bấy giờ, Thiên vương dẫn Thiên sứ thứ nhất ra
mà tra hỏi kỹ, kiểm xét kỹ, khéo dạy, khéo quở trách chúng
sinh kia rằng:
“– Người có thấy Thiên sứ thứ nhất đến không?
“Chúng sinh đáp:
“– Tâu Thiên vương, không thấy.
“Diêm vương lại hỏi:
“– Ở trong một thôn ấp có hài nhi bé nhỏ hoặc
nam hoặc nữ thân thể yếu đuối, nằm ngửa giữa phẩn và nước
tiểu, không thể kêu cha mẹ; cha mẹ bồng khỏi chỗ bất tịnh, tắm
rửa thân nó cho được sạch sẽ. Người có thấy cảnh tượng đó
không?
“Chúng sinh ấy đáp:
“– Tâu Thiên vương, có thấy.
Diêm vương lại bảo:
“– Từ đó về sau, lúc ngươi đã hiểu biết, tại
sao ngươi không nghĩ rằng: ‘Chính ta lệ thuộc sự sanh[02],
không lìa khỏi sinh; ta nên làm nghiệp thiện với thân, khẩu và
ý?’
“Chúng sinh ấy hỏi:
“– Tâu Thiên vương, tôi là kẻ bại hoại, suy vi
lâu dài, vĩnh viễn mất mát chăng?
“Diêm vương đáp:
“– Ngươi quả là kẻ bại hoại, suy vi lâu, vĩnh
viễn mất mát. Nay ta sẽ tra khảo ngươi như trị kẻ phóng dật,
làm hạnh phóng dật. Ác nghiệp của ngươi không phải do cha mẹ
làm, không phải do vua, không phải do Trời, cũng không phải do
Sa-môn, Phạm chí làm. Chính ngươi tự tạo nghiệp ác bất thiện,
cho nên hôm nay chắc chắn ngươi phải thọ báo.
“Sau khi dẫn Thiên sứ thứ nhất này ra để hỏi
kỹ, kiểm xét kỹ, khéo dạy, khéo quở trách xong, lại dẫn Thiên
sứ thứ hai ra để hỏi kỹ, kiểm xét kỹ, khéo dạy, khéo quở trách
chúng sinh kia rằng:
“– Người có thấy Thiên sứ thứ hai đến không?
“Chúng sinh kia đáp:
“– Tâu Thiên vương, không thấy.
“Diêm vương lại hỏi:
“– Trước kia ở trong một thôn ấp, ngươi há
không thấy người đàn bà hoặc đàn ông, tuổi quá già nua, sức
sống rũ liệt gần tàn, răng rụng, tóc bạc, lưng còm, chống gậy
mà đi, thân thể run rẩy?
“Chúng sinh ấy đáp:
“– Tâu Thiên vương, có thấy.
“Diêm vương lại bảo:
“– Ngươi từ đó về sau, khi đã có hiểu biết, tại
sao không nghĩ rằng: 'Chính ta lệ thuộc sự già, không lìa khỏi
sự già; ta nên làm điều thiện về thân, khẩu, ý?’
“Chúng sanh kia hỏi:
“– Tâu Thiên vương, tôi là kẻ bại hoại, suy vi
lâu dài, vĩnh viễn mất mát chăng?
“Diêm vương đáp:
“– Ngươi quả là kẻ bại hoại, suy vi lâu dài,
vĩnh viễn mất mát. Nay ta sẽ tra khảo ngươi như trị kẻ phóng
dật, làm hạnh phóng dật. Ác nghiệp của ngươi không phải do cha
mẹ làm, không phải do vua, không phải do trời, cũng không phải
do Sa-môn, Phạm chí làm. Chính ngươi tự tạo nghiệp ác bất
thiện, cho nên hôm nay chắc chắn ngươi phải thọ báo.
“Sau khi dẫn Thiên sứ thứ hai này ra để hỏi kỹ,
kiểm xét kỹ, khéo dạy, khéo quở trách xong, lại dẫn Thiên sứ
thứ ba ra để hỏi kỹ, kiểm xét kỹ, khéo dạy, khéo quở trách
chúng sinh kia rằng:
“– Người có thấy Thiên sứ thứ ba đến không?
“Chúng sinh kia đáp:
“– Tâu Thiên vương, không thấy.
“Diêm vương lại hỏi:
“– Trước kia trong một thôn ấp, ngươi há không
thấy người đàn ông hoặc đàn bà bệnh tật nguy khốn, hoặc nằm
ngồi trên giường, hoặc nằm ngồi trên chõng, hoặc nằm ngồi dưới
đất, thân thể rất đau đớn, đau đớn cùng cực, không thể ái
niệm, để cho rút ngắn mạng sống chăng?
“Chúng sanh ấy đáp:
“– Tâu Thiên vương, có thấy.
Diêm vương lại bảo:
“– Từ đó về sau, khi ngươi đã có hiểu biết,
nhưng tại sao ngươi không nghĩ: ‘Chính ta lệ thuộc sự tật
bệnh, không lìa khỏi bệnh. Ta nên làm điều thiện về thân,
khẩu, ý?’
“Chúng sanh ấy hỏi:
“– Tâu Thiên vương, tôi là kẻ bại hoại, suy vi
lâu dài, vĩnh viễn mất mát chăng?
“Diêm vương đáp:
“– Ngươi quả là kẻ bại hoại, suy vi lâu, vĩnh
viễn mất mát. Nay ta sẽ tra khảo ngươi như trị kẻ phóng dật,
làm hạnh phóng dật. Ác nghiệp của ngươi không phải do cha mẹ
làm, không phải do vua, không phải do trời, cũng không phải do
Sa-môn, Phạm chí làm. Chính ngươi tự tạo nghiệp ác bất thiện,
cho nên hôm nay chắc chắn ngươi phải thọ báo.
“Sau khi dẫn Thiên sứ thứ ba này ra để hỏi kỹ,
kiểm xét kỹ, khéo dạy, khéo quở trách xong, lại dẫn Thiên sứ
thứ tư ra để hỏi kỹ, kiểm xét kỹ, khéo dạy, khéo quở trách
chúng sinh kia rằng:
“– Người có thấy Thiên sứ thứ tư đến không?
“Chúng sinh kia đáp:
“– Tâu Thiên vương, không thấy.
“Diêm vương lại hỏi:
“– Trước kia, trong một thôn ấp, ngươi có thấy
người đàn ông hay đàn bà lúc chết rồi qua một hai ngày cho đến
sáu bảy ngày bị quạ mổ, chó ăn, hoặc lửa đốt, hoặc chôn xuống
đất, hoặc vữa nát tan?
Chúng sanh ấy đáp:
“– Tâu Thiên vương, có thấy.
“Diêm vương lại bảo:
“– Từ đó về sau, lúc ngươi đã có hiểu biết, tại
sao ngươi không nghĩ: ‘Chính ta lệ thuộc sự chết, ta không lìa
khỏi sự chết. Ta nên làm điều thiện về thân, khẩu, ý?’
“Chúng sanh ấy hỏi:
“– Tâu Thiên vương, tôi là kẻ bại hoại, suy vi
lâu dài, vĩnh viễn mất mát chăng?
“Diêm vương đáp:
“– Ngươi quả là kẻ bại hoại, suy vi lâu dài,
vĩnh viễn mất mát. Nay ta sẽ tra khảo ngươi như trị kẻ phóng
dật, làm hạnh phóng dật. Ác nghiệp của ngươi không phải do cha
mẹ làm, không phải do vua, không phải do trời, cũng không phải
do Sa-môn, Phạm chí làm. Chính ngươi tự tạo nghiệp ác bất
thiện, cho nên hôm nay chắc chắn ngươi phải thọ báo.
“Sau khi dẫn Thiên sứ thứ tư này ra để hỏi kỹ,
kiểm xét kỹ, khéo dạy, khéo quở trách xong, lại dẫn Thiên sứ
thứ năm ra để hỏi kỹ, kiểm xét kỹ, khéo dạy, khéo quở trách
chúng sinh kia rằng:
“– Người có thấy Thiên sứ thứ năm đến không?
“Chúng sinh kia đáp:
“– Tâu Thiên vương, không thấy.
“Diêm vương lại hỏi:
“– Ngươi trước đây không thấy chăng, người của
vua tróc nã kẻ phạm tội, tra khảo, trừng trị đủ cách, như chặt
tay, chặt chân, hoặc chặt cả tay chân; xẻo tai, xẻo mũi, hoặc
xẻo cả mũi tai; hoặc thái hoặc cắt; nhổ râu, nhổ tóc, hoặc nhổ
cả râu tóc; hoặc bỏ vào trong cũi, quấn trong vải mà đốt; hoặc
dùng cát lấp kín, dùng cỏ quấn lại mà đốt; hoặc bỏ vào trong
bụng con lừa bằng sắt, hoặc bỏ vào trong miệng con heo bằng
sắt, hoặc đặt vào trong miệng cọp bằng sắt mà đốt; hoặc bỏ vào
trong chảo bằng đồng, hoặc bỏ vào trong chảo bằng sắt mà nấu;
hoặc chặt ra từng đoạn; hoặc dùng chĩa nhọn mà đâm, hoặc dùng
móc mà móc; hoặc bắt nằm trên giường sắt mà dội nước sôi; hoặc
cho người vào cối sắt, dùng chày sắt mà giã; hoặc cho rắn rít
mổ; hoặc dùng roi da mà quất, hoặc dùng gậy mà đánh, hoặc dùng
hèo mà phang; hoặc treo sống lên ngọn nêu cao, hoặc chặt đầu
đem bêu?
“Chúng sanh ấy đáp:
“– Tâu Thiên vương, có thấy.
Diêm vương lại bảo:
“– Từ đó về sau, khi ngươi đã hiểu biết, tại
sao không nghĩ: ‘Nay ta hiện thấy điều ác, bất thiện’?
“Chúng sanh ấy hỏi:
“– Tâu Thiên vương, tôi là kẻ bại hoại, suy vi
lâu dài, vĩnh viễn mất mát chăng?
“Diêm vương đáp:
“– Ngươi quả là kẻ bại hoại, suy vi lâu dài,
vĩnh viễn mất mát. Nay ta sẽ tra khảo ngươi như trị kẻ phóng
dật, làm hạnh phóng dật. Ác nghiệp của ngươi không phải do cha
mẹ làm, không phải do vua, không phải do trời, cũng không phải
do Sa-môn, Phạm chí làm. Chính ngươi tự tạo nghiệp ác bất
thiện, cho nên hôm nay chắc chắn ngươi phải thọ báo.
“Diêm vương đã dẫn Thiên sứ thứ năm này ra để
khéo tra hỏi, khéo kiểm xét, khéo giáo hóa, khéo quở trách
xong, liền giao phó chúng sanh ấy cho ngục tốt. Ngục tốt liền
dẫn y giam vào trong đại địa ngục có bốn cửa.
“Ở đây có bài tụng rằng:
- Bốn trụ có
bốn cửa,
- Vách vuông
mười hai góc,
- Dùng sắt
làm tường rào,
- Ở trên đậy
nắp sắt.
- Trong ngục
đất bằng sắt,
- Hừng hực
lửa sắt nung,
- Suốt vô
lượng do-diên,
- Cho đến
tận đáy đất.
- Cực ác
không chịu nổi,
- Sắc lửa
khó nhìn thấy,
- Thấy rồi,
lông dựng đứng,
- Khủng
khiếp, sợ, rất khổ.
- Chúng sanh
đọa địa ngục,
- Chân treo,
đầu chúc xuống,
- Do phỉ
báng Thánh nhân,
- Điều ngự
thiện, Thánh thiện.
“Một thời gian thật lâu xa về sau, trong bốn
cửa của đại địa ngục, cửa phía Đông liền mở cho chúng sanh
kia. Sau khi cửa mở, các chúng sanh ấy nhắm chạy đến, muốn tìm
nơi an ổn, tìm chỗ nương tựa. Nếu khi các chúng sanh ấy tụ tập
khoảng vô lượng trăm ngàn, thì cửa phương Đông của địa ngục
liền tự đóng lại. Chúng sanh ở trong đó chịu đựng khổ đau cùng
cực, khóc lóc kêu gào, sầu muộn, nằm lăn xuống đất, vẫn không
thể chết được, cốt làm cho nghiệp ác bất thiện của các chúng
sanh ấy sạch hết. Một thời gian lâu xa nữa, cửa Nam, cửa Tây,
cửa Bắc lại mở. Khi cửa Bắc đã mở, các chúng sanh kia liền
nhắm chạy đến, muốn tìm nơi an ổn, tìm chỗ nương tựa. Các
chúng sanh kia nếu khi tụ tập đến số vô lượng trăm ngàn, thì
cửa Bắc của địa ngục tự nhiên đóng lại. Những chúng sanh ở
trong đó chịu khổ đau cùng cực, khóc lóc, kêu gào, sầu muộn,
nằm lăn xuống đất, vẫn không thể chết được, cốt làm cho nghiệp
ác bất thiện của các chúng sanh ấy sạch hết.
“Một thời gian hết sức lâu xa về sau nữa, các
chúng sanh kia ra khỏi đại địa ngục Bốn cửa. Tiếp theo đại địa
ngục Bốn cửa, các chúng sanh ấy lại sanh vào đại địa ngục
Phong nham[03],
lửa đầy bên trong, không khói, không lửa ngọn, khiến các chúng
sanh ấy đi trên lửa, qua lại khắp nơi, da thịt, máu huyết ở
đôi bàn chân, bước xuống thì cháy sạch mà dở lên thì sanh lại
như cũ. Địa ngục ấy hành hạ các chúng sanh ấy như vậy cho đến
vô lượng trăm ngàn năm, chịu khổ đau cùng tột vẫn không chết
được, cốt làm cho nghiệp ác bất thiện của các chúng sanh ấy
sạch hết.
“Một thời gian thật lâu xa về sau, các chúng
sanh ấy ra khỏi địa ngục Phong nham. Tiếp theo địa ngục Phong
nham, lại sanh vào đại địa ngục Phấn thỉ[04],
bên trong đầy dẫy phân, sâu đến vô lượng trăm trượng. Các
chúng sanh kia đọa hết vào trong đó. Trong đại địa ngục Phấn
thỉ ấy có rất nhiều sâu. Sâu tên là Lăng-cù-lai[05],
thân trắng đầu đen, mỏ nhọn như kim. Loại trùng này rúc rỉa,
đục phá chân của chúng sanh kia; sau khi đục phá chân, lại đục
phá xương đùi; sau khi đục phá xương đùi, lại đục phá xương
bắp vế; sau khi phá xương bắp vế, lại đục phá xương bàn tọa;
đục phá xương bàn tọa xong, lại đục phá xương sống; đục phá
xương sống xong, lại đục phá xương vai, xương cổ, xương đầu;
đục phá xương đầu xong, lại ăn sạch não. Các chúng sanh kia
chịu bức bách vô lượng trăm ngàn năm như thế, chịu đau khổ
cùng tột, vẫn không chết được, để cho nghiệp ác bất thiện của
các chúng sanh ấy sạch hết.
“Một thời gian rất lâu về sau, các chúng sanh
kia ra khỏi địa ngục Phấn thỉ. Tiếp theo địa ngục Phấn thỉ,
lại sanh vào đại địa ngục Thiết diệp lâm[06].
Các chúng sanh kia thấy rồi tưởng là mát mẻ, nghĩ rằng: ‘Chúng
ta qua nơi khoái lạc ấy để được mát mẻ’. Các chúng sanh ấy
nhắm chạy đến, muốn tìm nơi an ổn, muốn tìm chỗ nương tựa. Nếu
tụ tập được vô lượng trăm ngàn, thì các chúng sanh ấy liền vào
trong đại địa ngục rừng cây lá sắt. Trong đại địa ngục Thiết
diệp lâm đóù, bốn bề có gió nóng lớn thổi đến; gió nóng thổi
đến thì lá cây bằng sắt rụng xuống. Lá sắt rụng cắt lìa tay,
cắt lìa chân, hoặc cắt lìa cả tay chân; cắt lìa tai, cắt lìa
mũi hoặc cắt lìa cả tai lẫn mũi và các bộ phận còn lại; cắt
thân máu chảy vô lượng trăm ngàn năm, chịu khổ đau cùng tột,
vẫn không chết được, để cho nghiệp ác bất thiện của các chúng
sanh ấy sạch hết. Lại nữa, trong đại địa ngục Thiết diệp lâm
ấy có chó rất lớn xuất hiện, răng dài thườn thượt, ngoạm cả
chúng sanh kia, lột da từ chân đến đầu mà ăn. Các chúng sanh
ấy chịu bức bách vô lượng trăm ngàn năm như thế, chịu khổ đau
cùng tột vẫn không thể chết được, để cho nghiệp ác bất thiện
của chúng dứt sạch. Lại nữa, trong đại địa ngục Thiết diệp lâm
ấy có con chim đen lớn, có hai đầu, mỏ sắt, đứng trên trán
chúng sanh, mổ sống con mắt mà nuốt; mổ vỡ sọ lấy não mà ăn.
Các chúng sanh ấy chịu bức bách như vậy suốt vô lượng trăm
ngàn năm, chịu đau khổ cùng tột, cuối cùng vẫn không chết
được, để cho nghiệp ác bất thiện của các chúng sanh ấy sạch
hết.
“Sau một thời gian hết sức lâu dài, các chúng
sanh ấy ra khỏi đại địa ngục Thiết diệp lâm. Tiếp theo đại địa
ngục Thiết diệp lâm, các chúng sanh ấy lại sanh vào đại địa
ngục Thiết kiếm thọ[07].
Đại kiếm thọ cao một do-diên, mũi nhọn dài một thước sáu,
chúng sanh kia bị bắt trèo lên tuột xuống. Lúc mới từ dưới leo
lên cây thì mũi nhọn chúc xuống; lúc trên cây tuột xuống thì
mũi nhọn lại dựng lên; mũi nhọn của kiếm thọ đâm suốt thân
chúng sanh, đâm tay, đâm chân hoặc đâm cả tay chân; đâm tai,
đâm mũi, hoặc đâm cả tai mũi và các bộ phận khác nữa; đâm thân
máu đổ suốt vô lượng trăm ngàn năm, chịu đau khổ cùng cực, rốt
cuộc vẫn không chết được, để cho nghiệp ác bất thiện của các
chúng sanh ấy sạch hết.
“Một thời gian lâu dài về sau, các chúng sanh
ấy ra khỏi đại địa ngục Thiết kiếm thọ. Tiếp theo đại địa ngục
Thiết kiếm thọ, các chúng sanh ấy lại sanh vào địa ngục Hôi hà[08],
có hai bờ rất cao bao quanh tạo thành mũi nhọn. Trong sông có
nước tro sôi và tối om. Các chúng sanh kia thấy rồi tưởng là
nước mát, nghĩ rằng ‘sẽ có[09]
mát’. Sau khi tưởng như vậy, các chúng sanh ấy liền nghĩ:
‘Chúng ta đến đó tắm rửa, tha hồ uống no, được mát mẻ khoái
lạc’. Các chúng sanh ấy tranh nhau chạy đến mà vào trong đó,
muốn tìm nơi hoan lạc, tìm chỗ nương tựa. Nếu các chúng sanh
ấy tụ tập chừng vô lượng trăm ngàn, thì liền rớt xuống sông
tro. Sau khi rơi vào sông tro, có chúng sanh trôi ngược rồi
lại trôi xuôi. Lúc các chúng sanh trôi xuôi, trôi ngược, trôi
cả ngược xuôi thì da chín rã xuống, chỉ còn lại xương tủy. Hai
bên bờ sông tro có lính địa ngục, tay cầm đao kiếm hoặc chĩa
sắt lớn. Các chúng sanh ấy muốn leo lên bờ, tức thì lính ngục
đẩy nhận xuống. Lại nữa, hai bên bờ sông tro có lính địa ngục
tay cầm móc câu liệng xuống, móc chúng sanh từ sông tro lên bỏ
vào nơi sắt nóng, lửa cháy hừng hực, móc chúng sanh ấy đưa lên
rồi quật mạnh xuống đất. Rơi xuống, chúng sanh ấy đang quằn
quại, bị cật vấn:
“– Ngươi từ đâu lại?
“Các chúng sanh ấy cùng đáp:
“– Chúng tôi không biết từ đâu đến, nhưng hiện
giờ chúng tôi chỉ sợ đói lắm.
“Lính địa ngục ấy liền xách chúng sanh liệng
lên giường sắt nóng, lửa cháy hừng hực, bắt ngồi trên đó, dùng
kẹp sắt nóng kẹp vạch miệng ra, dùng hòn sắt nóng đang cháy
hừng hực, bỏ vào. Hoàn sắt nóng ấy đốt cháy môi; cháy môi
xong, đốt cháy lưỡi; cháy lưỡi xong, đốt lợi răng; lợi cháy
xong, đốt cuống họng; cuống họng cháy xong, đốt tim; tim cháy
xong, đốt ruột già; ruột già cháy xong, đốt dạ dày; dạ dày
cháy xong hoàn sắt từ thân rơi xuống. Các chúng sanh ấy bị bức
bách như vậy suốt vô lượng trăm ngàn năm, chịu khổ đau cùng
cực, rốt cuộc không chết được, để cho nghiệp ác bất thiện của
các chúng sanh ấy sạch hết.
“Lại nữa, lính địa ngục ấy hỏi chúng sanh:
“– Ngươi muốn đi đâu?
“Chúng sanh đáp:
“– Chúng tôi chẳng biết muốn đi đâu, chỉ sợ
khát lắm.
“Ngục tốt liền xách chúng sanh ném lên giường
sắt nóng đang cháy đỏ rực, bắt buộc ngồi trên đó, dùng kẹp sắt
nóng, kẹp vạch miệng ra, lấy nước đồng sôi rót vào. Nước đồng
sôi đó đốt môi, đốt môi rồi đốt lưỡi, đốt lưỡi rồi đốt lợi
răng, đốt lợi răng rồi đốt cuống họng, đốt cuống họng rồi đốt
tim, đốt tim rồi đốt ruột già, đốt ruột già rồi đốt ruột non,
đốt ruột non rồi đốt dạ dày, đốt dạ dày rồi nước ấy từ thân
chảy xuống. Các chúng sanh ấy chịu bức bách như vậy suốt vô
lượng trăm ngàn năm, chịu khổ đau cùng tột, cuối cùng vẫn
không chết được, để cho nghiệp ác bất thiện của các chúng sanh
ấy sạch hết.
“Nếu nghiệp ác bất thiện mà những chúng sanh ở
địa ngục kia không dứt sạch, không dứt sạch tất cả, không dứt
sạch đến mức không còn lưu dư thì những chúng sanh ấy lại rơi
vào đại địa ngục Sông tro, lại chịu cảnh trèo lên tuột xuống ở
đại địa ngục Rừng cây kiếm sắt, lại vào đại địa ngục Rừng cây
lá sắt, lại rớt xuống đại địa ngục Phấn thỉ, lại qua đại địa
ngục Phong nham, lại vào Bốn cửa đại địa ngục.
“Nếu nghiệp ác bất thiện của những chúng sanh
kia dứt sạch, dứt sạch tất cả, dứt sạch đến mức không còn lưu
dư, thì những chúng sanh ấy từ đó về sau hoặc đọa vào loài súc
sanh, hoặc đọa vào loài ngạ quỷ, hoặc sanh vào cõi trời. Nếu
lúc ấy chúng sanh đó vốn là người mà bất hiếu với cha mẹ,
không biết tôn kính Sa-môn, Phạm chí, không làm đúng như thật,
không tạo phước nghiệp, không sợ tội đời sau thì phải thọ khổ
báo không khả ái, không khả niệm, không khả hỷ như vậy, giống
như trong địa ngục kia. Nếu chúng sanh kia vốn là người mà
hiếu thuận với cha mẹ, biết tôn kính Sa-môn, Phạm chí, làm
đúng như thật, tạo nghiệp phước đức, sợ tội đời sau, thì được
thọ lạc báu khả ái, khả niệm, khả hỷ như thế, giống như trong
cung điện của thần Hư không.
“Thuở xưa, Diêm vương ở tại viên quán mà nguyện
rằng: ‘Thân mạng này mất, ta được sanh vào loài người. Nếu có
dòng họ nào giàu có tột cùng, của cải vô lượng, sản nghiệp
chăn nuôi, không thể tính được, phong hộ thực ấp đầy đủ mọi
thứ; dòng họ ấy là gì? Tức là Đại trưởng giả thuộc dòng
Sát-lợi, Đại trưởng giả thuộc dòng Phạm chí, Đại trưởng giả
thuộc dòng Cư sĩ. Nếu có dòng họ giàu có tột cùng, của cải vô
lượng, sản nghiệp chăn nuôi không thể tính được, phong hộ thực
ấp đầy đủ mọi thứ như thế, thì ta mong sanh vào nhà ấy. Sau
khi sanh vào thì giác căn thành tựu, mong được tịnh tín pháp
luật chân chánh do Đức Như Lai nói ra. Được tịnh tín rồi thì
cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống
đời sống không gia đình mà học đạo. Con nhà quý tộc đã cạo bỏ
râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống đời sống
không gia đình mà học đạo thì chỉ mong cầu vô thượng phạm
hạnh, trong đời hiện tại, tự biết, tự giác, tự thân tác chứng,
thành tựu an trú, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm
hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh
nữa’.’
“Thuở xưa, Diêm vương ở trong viên quán đã
nguyện như thế.”
Bấy giờ có bài tụng rằng:
- Bị Thiên
sứ quở trách,
- Người vẫn
cứ phóng dật,
- Chuốc sầu
não mãi hoài,
- Tệ ấy do
dục che.
- Bị Thiên
sứ quở trách,
- Quả thật
có thượng nhân,
- Không còn
phóng dật nữa,
- Khéo nói
diệu Thánh pháp.
- Thấy thọ
là khiếp sợ,
- Mong cầu
sanh, lão dứt,
- Không thọ,
diệt không còn,
- Thế là
sanh lão hết.
- Là an ổn
khoái lạc,
- Đắc diệt
độ đời này,
- Vượt khỏi
mọi khiếp sợ,
- Cũng vượt
dòng thế gian.
Phật dạy như vậy. Sau khi nghe xong điều Đức
Phật dạy, các Tỳ-kheo hoan hỷ phụng hành.
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: M.130 Devadūta-sutta; A. 3. 35. Devadūta. Hán biệt
dịch, No.42 Phật Thuyết Thiết Thành Nê-lê Kinh, Đông Tấn
Trúc Đàm-vô-lan dịch; No.43 Phật Thuyết Diêm-la Vương Ngũ
Thiên Sứ Giả Kinh, Lưu Tống, Tuệ Giản dịch; No.86 Phật
Thuyết Nê-lê Kinh, Đông Tấn Trúc Đàm-vô-lan dịch; 125 (32.4)
Tăng Nhất, phẩm 32 kinh số 4.
-
[02] Hán: ngã tự
hữu sanh pháp, ta tự mình có pháp sanh. Pāli: ahampi khomhi
jātidhammo.
-
[03] Phong nham địa
ngục, địa ngục vách núi. Pāli:
-
[04] Phấn thỉ địa
ngục, địa ngục bằng phân cứt. Pāli: Gūtha-nirya.
-
[05] Lăng-cù-lai.
-
[06] Thiết điệp
lâm, rừng cây là sắt. Pāli: Asipattavana-niraya, địa ngục
rừng là gươm (kiếm diệp lâm).
-
[07] Thiết kiếm
thọ, cây bằng gươm sắt. Pāli: simbalivana (châm thọ lâm),
rừng cây kim.
-
[08] Hôi hà, sông
tro. Pāli: Khārodakā nadī, sông đá vôi.
-
[09] Thường hữu;
Tống-Nguyên-Minh: đương hữu, sẽ có.