- 06. PHẨM VƯƠNG TƯƠNG ƯNG
-
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại Ba-la-nại, trú ở Tiên
nhân đọa xứ, trong vườn Lộc dã.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau bữa ăn trưa, vì một
nhân duyên nhỏ nên tụ tập ngồi tại giảng đường cùng bàn luận
vấn đề này:
“Thế nào chư Hiền, trong hàng cư sĩ tại gia, ai
là người thù thắng? Phải chăng là người có các Tỳ-kheo trì
giới diệu pháp, thành tựu oai nghi đến nhà thọ thực? Hay là
người mà lợi lộc cứ tăng lên mỗi ngày, gấp trăm ngàn vạn lần?”
Hoặc có Tỳ-kheo nói rằng:
“Này chư Hiền, lợi lộc gấp trăm ngàn vạn lần
thì có nghĩa lý gì! Chỉ có điều này là chí yếu; nếu có một
Tỳ-kheo trì giới diệu pháp, thành tựu oai nghi mà đến nhà thọ
thực, chứ không phải là ngày ngày được lợi lộc gấp trăm ngàn
vạn lần.”
Lúc đó, Tôn giả A-na-luật cùng ngồi trong
chúng. Bấy giờ Tôn giả A-na-luật nói với các Tỳ-kheo rằng:
“Này chư Hiền, lợi lộc gấp trăm ngàn vạn lần
thì có nghĩa gì? Giả sử có nhiều hơn nữa thì chỉ có điều này
là chí yếu; nếu có một Tỳ-kheo trì giới diệu pháp, thành tựu
oai nghi đến nhà thọ thực, chứ không phải ngày ngày lợi lộc
càng tăng gấp trăm ngàn vạn lần. Vì sao? Tôi nhớ, thuở xưa, ta
là một người nghèo khổ ở nước Ba-la-nại này, chỉ nhờ lượm mót
gánh của khách mà sống[02].
Lúc ấy nước Ba-la-nại bị hạn hán, sương móc và trùng hoàng làm
cho ngũ cốc không thể chín được. Nhân dân túng thiếu, kiếm xin
khó được. Bấy giờ có một vị Bích-chi-phật hiệu là Vô Hoạn[03],
trú tại Ba-la-nại này. Lúc ấy, vào buổi sáng sớm,
Bích-chi-phật Vô Hoạn mang y cầm bát vào Ba-la-nại khất thực.
Bấy giờ tôi đi ra khỏi Ba-la-nại vào lúc sớm để đi lượm mót.
Này chư Hiền, khi đang đi ra, tôi thấy từ xa Bích-chi-phật Vô
Hoạn đi vào thành. Lúc Bích-chi-phật Vô Hoạn cầm tịnh bát đi
vào thế nào thì lúc đi ra tịnh bát vẫn y như cũ.
“Này chư Hiền, khi tôi lượm mót rồi trở về
Ba-la-nại, tôi lại thấy Bích-chi-phật Vô Hoạn đi ra. Ngài thấy
tôi liền nghĩ: ‘Sáng sớm, lúc Ta đi vào thì thấy người này đi
ra. Bấy giờ ta trở ra lại thấy người này trở vào. Người này có
thể chưa ăn. Nay ta hãy đi theo người này’. Rồi Bích-chi-phật
đi theo tôi như bóng theo hình.
“Này chư Hiền, khi ta mang đồ lượm mót về đến
nhà, bỏ gánh xuống và quay lại nhìn thì thấy Bích-chi-phật Vô
Hoạn đi đến, theo sau tôi bén gót, như bóng theo hình. Tôi
thấy ngài, liền nghĩ: ‘Sáng sớm, lúc đi ra, mình thấy vị Tiên
nhân này đi vào thành khất thực. Bây giờ vị Tiên nhân này có
lẽ chưa có gì ăn. Ta hãy sớt bớt phần ăn của mình cho Tiên
nhân này’. Nghĩ như vậy xong, tôi liền mang phần cơm bố thí
cho Đức Bích-chi-phật và bạch rằng: ‘Mong Tiên nhân biết cho,
cơm này là phần ăn của con. Vì lòng từ mẫn, mong ngài thương
xót nhận cho’. Bấy giờ, vị Bích-chi-phật tức thì trả lời tôi
rằng: ‘Cư sĩ nên biết, năm nay hạn hán, sương móc và trùng
hoàng làm cho ngũ cốc không thể chín được. Nhân dân túng
thiếu, kiếm xin khó được. Thí chủ có thể bớt phân nửa bỏ vào
trong bát của ta và dùng phân nửa kia, cả hai cùng được sống
còn. Như vậy đã là tốt rồi’. Tôi lại thưa rằng: ‘Tiên nhơn,
xin biết cho, trong nhà con sẵn có chảo, có bếp, có củi, có
thóc gạo, ăn uống sớm muộn cũng chẳng cần đúng giờ giấc. Tiên
nhơn, xin hãy thương xót con mà nhận hết thức ăn này’. Bấy giờ
Tiên nhân vì lòng từ mẫn mà nhận hết.
“Này chư Hiền, tôi nhân phước bố thí cho Tiên
nhân kia một bát cơm mà bảy lần tái sanh vào cõi trời, được
làm Thiên vương; bảy lần tái sanh vào loài người lại làm bậc
nhân chủ.
“Này chư Hiền, tôi nhân phước bố thí cho Tiên
nhân kia một bát cơm mà được sanh vào dòng họ Thích như thế
này[04],
giàu có cùng tột, súc vật chăn nuôi vô số, phòng hộ, thực ấp,
của cải vô lượng, châu báu đầy đủ.
“Này chư Hiền, tôi nhân phước bố thí cho Tiên
nhân kia một bát cơm nên xả bỏ được địa vị chủ nhân của trăm
ngàn thể nữ[05],
vàng bạc và vô số những tài vật khác nữa, xuất gia học đạo.
“Này chư Hiền, ta nhân bố thí cho Tiên nhân kia
một bát cơm mà được vua chúa, vương thần, Phạm chí, cư sĩ và
tất cả nhân dân thấy là tiếp đãi; bốn chúng Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di thấy thì kính trọng.
“Này chư Hiền, tôi nhân bố thí một bát cơm kia
mà thường được người thỉnh cầu thọ nhận đồ ăn thức uống, áo
chăn, đệm lông, thảm dệt, giường nệm, thuốc thang trị bệnh và
các dụng cụ cần cho sự sống; không gì là không được thỉnh cầu.
Lúc bấy giờ ta biết vị Sa-môn ấy là Bậc Vô Sở Trước Chân Nhân
thì phước báo được thu hoạch chắc chắn gấp bội, thọ nhận đại
quả báo công đức cực diệu, ánh sáng soi chiếu, thấu suốt rất
rộng, rất lớn, cùng khắp.”
Bấy giờ Tôn giả A-na-luật, Bậc Vô Sở Trước Chân
Nhân[06],
được chánh giải thoát, nói bài tụng rằng:
- Tôi nhớ,
xưa nghèo nàn,
- Chỉ nhặt
cỏ mà sống.
- Bớt phần,
cúng Sa-môn
- Vô Hoạn
tối thượng đức.
- Nhân đó
sanh dòng Thích,
- Tên là
A-na-luật.
- Hiểu rành
về ca vũ;
- Làm nhạc,
thường hoan hỷ.
- Tôi được
gặp Thế Tôn
- Chánh
giác, như cam lồ.
- Đã gặp,
sanh tín tâm,
- Bỏ nhà đi
học đạo.
- Tôi biết
được đời trước,
- Biết chỗ
sanh trước kia;
- Sanh Tam
thập tam thiên,
- Bảy lần
trú ở đó.
- Đó bảy,
đây cũng bảy;
- Thọ sanh
mười bốn lần,
- Nhân gian
và thiên thượng,
- Chưa từng
đọa ác đạo.
- Nay biết
rõ sanh tử,
- Nơi chúng
sanh qua lại;
- Biết tâm
người thị phi;
- Hiền
thánh, năm lạc thú;
- Chứng năm
chi thiền định[07],
- Thường
định, tâm tĩnh mặc[08].
- Đã chứng
đắc tịch tịnh
- Liền đắc
tịnh thiên nhãn.
- Mục đích
là học đạo;
- Viễn ly,
bỏ gia đình;
- Nay ta đạt
nghĩa ấy
- Được vào
cảnh giới Phật.
- Ta không
ưa sự chết,
- Cũng chẳng
mong sự sanh;
- Thời nào
cũng tự tại,
- Kiến lập
chánh niệm trí.
- Tỳ-da-ly,
Trúc lâm[09],
- Ở đây,
mạng ta dứt;
- Ngay dưới
rừng trúc này,
- Nhập Vô dư
Niết-bàn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở chỗ tĩnh tọa, bằng thiên
nhĩ thanh tịnh vượt xa hơn người thường, nghe các Tỳ-kheo sau
bữa ăn trưa tụ tập tại giảng đường cùng bàn luận về vấn đề ấy.
Nghe xong, vào buổi xế chiều, Đức Thế Tôn rời chỗ tĩnh tọa
đứng dậy, đi đến giảng đường, trải chỗ ngồi trước chúng
Tỳ-kheo mà ngồi, rồi hỏi rằng:
“Này các Tỳ-kheo, hôm nay các ngươi vì chuyện
gì mà tụ tập tại giảng đường?”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, hôm nay vì Tôn giả A-na-luật
nhân chuyện quá khứ mà thuyết pháp nên chúng con tụ tập tại
giảng đường.”
Rồi thì, Đức Thế Tôn nói:
“Bây giờ các ngươi có muốn nghe nhân chuyệân vị
lai mà Phật thuyết pháp chăng?”
Các Tỳ-kheo thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, nay thật đúng thời. Bạch Thiện
Thệ, nay thật đúng thời. Nếu Thế Tôn nhân chuyện vị lai mà
thuyết pháp cho các Tỳ-kheo, thì các Tỳ-kheo sau khi nghe sẽ
khéo thọ trì.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này các Tỳ-kheo, hãy lắng nghe và khéo mà thọ
trì, suy nghĩ, ghi nhớ, Ta phân biệt diễn thuyết rộng rãi cho
các ngươi.”
Bấy giờ các Tỳ-kheo vâng lời ngồi nghe. Đức Thế
Tôn nói:
“Này các Tỳ-kheo, một thời gian lâu xa ở vị
lai, sẽ có lúc mà nhân dân thọ đến tám vạn tuổi. Lúc con người
thọ đến tám vạn tuổi thì châu Diêm-phù này giàu có cùng tột,
an lạc cùng tột, dân chúng đông đúc, thôn ấp gần nhau bằng
khoảng cách của con gà bay.
“Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ đến tám vạn
tuổi thì con gái đến năm trăm tuổi mới lấy chồng.
“Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ tám vạn
tuổi[10]
thì chỉ những bệnh như thế này: nóng, lạnh, đại tiểu tiện,
tham dục, ăn uống, già[11]
và ngoài ra không có tai họa nào khác.
Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ tám vạn tuổi
có vua tên là Loa[12],
là Chuyển luân vương, thông minh trí tuệ, có bốn loại quân
chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là pháp vương theo đúng như
pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu là: xe báu, voi báu, ngựa
báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, tướng quân báu. Đó là bảy
báu. Nhà vua có đầy đủ một ngàn người con trai, dung mạo khôi
ngô, dũng mãnh, không khiếp sợ, hàng phục được địch quân. Nhà
vua thống lĩnh quả đất này cho đến bờ biển, không dùng đao gậy
mà chỉ đem pháp mà giáo hóa, khiến dân chúng được an lạc. Có
cây phướn bằng vàng lớn, được trang hoàng bằng các thứ châu
báu, treo cao một ngàn khuỷu tay, chu vi mười tám khuỷu tay,
sẽ do nhà vua dựng lên. Sau khi dựng xong, ngay phía dưới tổ
chức bố thí cho Sa-môn, Phạm chí, người nghèo khổ cô độc từ
các phương xa lại xin, đem đồ ăn thức uống, áo chăn, xe cộ,
tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông,
khăn quấn và cung cấp dầu đèn... Sau khi bố thí như vậy, nhà
vua cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, xuất gia học đạo. Mục đích mà tộc tánh tử
kia cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, xuất gia học đạo, duy chỉ cầu đắc vô
thượng phạm hạnh, ngay trong đời này mà tự tri tự giác, tự
thân chứng ngộ, thành tựu và an trú, biết như thật rằng: ‘Sự
sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong,
không còn tái sanh nữa.’
“Bấy giờ có Tôn giả A-di-đa[13]
đang ngồi trong chúng. Tôn giả A-di-đa từ chỗ ngồi đứng dậy,
kéo lệch tay áo đang mặc, chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch
rằng:
“Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở vị lai,
lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, con có thể được làm vua,
hiệu là Loa, là Chuyển luân vương, thông minh trí tuệ, có bốn
loại quân chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là vị pháp vương
theo đúng như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu là xe báu, ngọc
báu, nữ báu, cư sĩ báu, tướng quân báu, đó là bảy báu. Con có
đủ một ngàn người con dung mạo khôi ngô, dũng mãnh không khiếp
sợ, hàng phục được địch quân. Con thống lĩnh trọn quả đất này
cho đến biển cả, không dùng dao gậy, chỉ đem pháp giáo hóa,
khiến cho nhân dân an lạc. Con có cây phướn lớn bằng vàng,
được trang hoàng bằng các loại châu báu, treo cao một ngàn
khuỷu tay, do con dựng lên. Sau khi dựng xong, ngay bên dưới,
tổ chức bố thí cho hàng Sa-môn, Phạm chí, kẻ khốn khổ cô độc
từ phương xa lại xin, đem đồ ăn thức uống, áo chăn, xe cộ,
tràng hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, nệm lông, khăn quấn
và cung cấp đèn dầu. Sau khi bố thí xong, con liền cạo bỏ râu
tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, xuất gia học đạo.
Con vì mục đích mà tộc tánh tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa,
chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học
đạo, duy chỉ cầu đắc vô thượng phạm hạnh, ngay trong đời này
mà tự tri tự giác, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trú,
biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc
cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn quở Tôn giả A-di-đa rằng:
“Ngươi là kẻ ngu si, chỉ nên chết thêm một lần,
sao lại mong một lần tái sanh nữa? Vì sao như thế? Vì ngươi
nghĩ rằng: Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở vị lai, lúc
con người thọ đến tám vạn tuổi, con có thể được làm vua, hiệu
là Loa, là Chuyển luân vương, thông minh trí tuệ, có bốn loại
quân chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là vị pháp vương theo
đúng như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu là xe báu, ngọc báu,
nữ báu, cư sĩ báu, tướng quân báu, đó là bảy báu. Con có đủ
một ngàn người con dung mạo khôi ngô, dũng mãnh không khiếp
sợ, hàng phục được địch quân. Con thống lĩnh trọn quả đất này
cho đến biển cả, không dùng dao gậy, chỉ đem pháp giáo hóa,
khiến cho nhân dân an lạc. Con có cây phướn lớn bằng vàng,
được trang hoàng bằng các loại châu báu, treo cao một ngàn
khuỷu tay, do con dựng lên. Sau khi dựng xong, ngay bên dưới,
tổ chức bố thí cho hàng Sa-môn, Phạm chí, kẻ khốn khổ cô độc
từ phương xa lại xin, đem đồ ăn thức uống, áo chăn, xe cộ,
tràng hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, nệm lông, khăn quấn
và cung cấp đèn dầu. Sau khi bố thí xong, con liền cạo bỏ râu
tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, xuất gia học đạo.
Con vì mục đích mà tộc tánh tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa,
chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học
đạo, duy chỉ cầu đắc vô thượng phạm hạnh, ngay trong đời này
mà tự tri tự giác, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trú,
biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc
cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.”
Đức Thế Tôn bảo rằng:
“Này A-di-đa! Một thời gian lâu dài ở vị lai,
ngươi sẽ làm vua hiệu là Loa, một vị Chuyển luân vương, thông
minh trí tuệ, có bốn loại quân chỉnh trị thiên hạ, tự do tự
tại, là vị Pháp vương theo đúng như pháp, thành tựu bảy báu.
Bảy báu đó là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư
sĩ báu và tướng quân báu, đó là bảy báu. Ngươi sẽ có đủ một
ngàn người con dung mạo khôi ngô, dũng mãnh không khiếp sợ,
hàng phục được địch quân. Ngươi sẽ thống lĩnh toàn quả đất này
cho đến biển cả, không dùng dao gậy, chỉ đem pháp giáo hóa
khiến cho nhân dân an lạc. Ngươi sẽ có một cây phướn lớn bằng
vàng, được trang hoàng bằng các loại châu báu, dựng cao một
ngàn khuỷu tay, do ngươi dựng lên. Sau khi dựng lên, ngay bên
dưới, tổ chức bố thí cho hàng Sa-môn, Phạm chí, kẻ cùng khổ,
cô độc từ các phương xa lại xin; đem đồ ăn, thức uống, áo
chăn, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường
nệm, nệm lông, khăn quấn, cung cấp đèn dầu... Sau khi bố thí
xong, thầy liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ
gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Ngươi vì mục
đích mà tộc tánh tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa
bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, chỉ vì cầu
vô thượng phạm hạnh, ngay trong đời hiện tại mà tự tri, tự
giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trú, biết như thật
rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm
xong, không còn tái sanh nữa’.”
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con
người thọ tám vạn tuổi sẽ có Đức Phật hiệu là Di-lặc[14],
Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư,
Phật, Chúng Hựu; cũng như hôm nay Ta đã thành vị Như Lai Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng
Hựu.
“Đức Phật ấy ở trong đời này gồm chư Thiên, Ma,
Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ người cho đến trời, mà tự tri tự
giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Cũng như hôm nay
Ta ở trong đời này gồm chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí,
từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc,
thành tựu và an trụ.
“Đức Phật ấy sẽ thuyết pháp, phần đầu vi diệu,
phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn,
hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Cũng như Ta hôm nay,
thuyết pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau
cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ
thanh tịnh.
“Đức Phật ấy sẽ quảng diễn, lưu bố phạm hạnh
với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát
khởi, hiển hiện. Cũng như Ta hôm nay quảng diễn, lưu bố phạm
hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo
phát khởi hiển hiện.
“Đức Phật ấy sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng
Tỳ-kheo, cũng như Ta hôm nay có vô lượng trăm ngàn chúng
Tỳ-kheo[15].”
Bấy giờ Tôn giả Di-lặc đang ở trong chúng ấy,
từ chỗ ngồi đứng dậy, kéo lệch áo đang mặc, vòng tay hướng về
Đức Phật, thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở thời vị
lai, lúc con người thọ mạng đến tám vạn tuổi, con sẽ thành
Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác,
Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo
Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Cũng như bây giờ Đức
Thế Tôn là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh
Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự,
Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu.
“Con ở trong đời này gồm chư Thiên, Ma, Phạm,
Sa-môn, Phạm chí, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự
thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Cũng như hôm nay Thế Tôn
ở trong đời này gồm chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ
người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc,
thành tựu và an trụ.
“Con thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa
vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện
phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Cũng như Thế Tôn hôm nay, thuyết
pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi
diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh.
“Con sẽ quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những
đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi, hiển
hiện. Cũng như Thế Tôn hôm nay quảng diễn, lưu bố phạm hạnh
với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát
khởi hiển hiện.
“Con sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo,
cũng như hiện giờ Thế Tôn có vô lượng trăm ngàn chúng
Tỳ-kheo.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn tán thán Tôn giả Di-lặc
rằng:
“Lành thay! Lành thay! Di-lặc, ngươi phát tâm
cực diệu là lãnh đạo đại chúng. Lý do vì sao? Vì ngươi đã
nghĩ:
“– Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở thời
vị lai, lúc con người thọ mạng đến tám vạn tuổi, con sẽ thành
Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác,
Minh hạnh thành, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Đạo
pháp ngự, Thiên nhân sư, Phật, Chúng hựu. Cũng như bây giờ Đức
Thế Tôn là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh
Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự,
Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Con ở trong đời này gồm chư
Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ người cho đến trời, mà
tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Cũng
như hôm nay Thế Tôn ở trong đời này gồm chư Thiên, Ma, Phạm,
Sa-môn, Phạm chí, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự
thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Con thuyết pháp, phần đầu
vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa,
có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Cũng như Thế
Tôn hôm nay, thuyết pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu
và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm
hạnh đầy đủ thanh tịnh. Con sẽ quảng diễn, lưu bố phạm hạnh
với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát
khởi, hiển hiện. Cũng như Thế Tôn hôm nay quảng diễn, lưu bố
phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời,
khéo phát khởi hiển hiện.”
Đức Phật lại nói:
“Này Di-lặc, vào một thời gian lâu dài ở thời
vị lai, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, ngươi sẽ thành
Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác,
Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo
Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Giống như Ta hiện
nay là Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên
Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu.
“Ngươi ở trong đời này gồm chư Thiên, Ma, Phạm,
Sa-môn, Phạm chí, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự
thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Cũng như hôm nay Ta ở
trong đời này gồm chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ
người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc,
thành tựu và an trụ.
“Ngươi thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa
vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện
phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Cũng như Ta hôm nay, thuyết pháp
phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu,
có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh.
“Ngươi sẽ quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với
những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi,
hiển hiện. Cũng như Ta hôm nay quảng diễn, lưu bố phạm hạnh
với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát
khởi hiển hiện.
“Ngươi sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo,
cũng như hiện giờ Ta có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo.”
Bấy giờ, Tôn giả A-nan cầm quạt đứng hầu Phật.
Lúc đó, Đức Thế Tôn quay lại bảo:
“Này A-nan, ngươi hãy lấy tấm y được dệt bằng
sợi tơ vàng dệt mang lại đây. Nay Ta muốn cho Tỳ-kheo Di-lặc.”
Bấy giờ Tôn giả A-nan vâng lời Đức Thế Tôn,
liền lấy tấm y được dệt bằng sợi tơ vàng dệt mang lại trao cho
Đức Thế Tôn. Sau khi Đức Thế Tôn nhận tấm y được dệt bằng chỉ
vàng từ Tôn giả A-nan, Ngài bảo:
“Này Di-lặc, ngươi hãy nhận tấm y được dệt bằng
chỉ vàng này từ Như Lai mà bố thí cho Phật, Pháp và Đại chúng.
Lý do vì sao? Này Di-lặc, các Đức Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác vì muốn cứu hộ thế gian và mong cầu thiện lợi và
hữu ích, mong an ổn khoái lạc.”
Bấy giờ Tôn giả Di-lặc nhận lấy tấm y dệt bằng
chỉ vàng từ Đức Như Lai xong, liền dâng cúng cho Phật, Pháp và
Đại chúng.
Lúc ấy ma Ba-tuần liền nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm này
đang du hành tại Ba-la-nại, ở trong vườn Lộc dã, Tiên nhân trú
xứ. Vị ấy nhân chuyện vị lai mà thuyết pháp cho các đệ tử. Ta
hãy đến đấy để gây nhiễu loạn.”
Rồi ma Ba-tuần đi đến chỗ Đức Phật, hướng về
Ngài và nói bài tụng rằng:
- Người ấy
tất sẽ được
- Dung mạo
diệâu đệ nhất;
- Thân tràng
hoa anh lạc,
- Ngọc sáng
đeo cánh tay.
- Nếu ở
thành Kê-đầu[16],
- Trong cảnh
giới vua Loa.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Ma Ba-tuần này
đến chỗ Ta muốn gây nhiễu loạn.” Đức Thế Tôn sau khi đã biết
là ma Ba-tuần liền nói bài tụng:
- Người ấy
tất sẽ được
- Tối Thắng[17]
không nghi ngại
- Dứt sanh,
lão, bệnh, tử;
- Vô lậu,
việc làm xong.
- Ai tu hành
phạm hạnh,
- Sẽ ở cõi
Di-lặc.
- Ma Ba-tuần
lại nói bài kệ:
- Người ấy
tất sẽ được
- Y phục tối
thượng diệu;
- Thân ướp
trầm chiên-đàn,
- Tay chân
đầy châu ngọc;
- Nếu ở
thành Kê-đầu
- Sẽ ở cõi
Loa vương.
- Bấy giờ,
Đức Thế Tôn lại nói bài tụng:
- Người ấy
tất sẽ được
- Vô chủ và
vô gia;
- Tay không
cầm vàng ngọc,
- Vô vi,
không sầu não;
- Nếu tu
hành phạm hạnh,
- Sẽ ở cõi
Di-lặc.
- Lúc đó ma
Ba-tuần lại nói bài tụng:
- Người kia
tất sẽ được
- Danh, tài,
ẩm thực diệu;
- Khéo hiểu
rành ca vũ,
- Tạo nhạc,
thường hoan hỷ;
- Sẽ ở cõi
Loa vương.
- Bấy giờ
Đức Thế Tôn lại nói bài tụng:
- Người ấy
tất qua bờ;
- Như chim
phá lưới ra;
- Chứng trụ
thiền tự tại;
- Đủ lạc,
thường hoan hỷ.
- Này Ma,
ngươi nên biết,
- Ta đã hàng
phục ngươi.
Lúc đó Ma vương lại nghĩ: “Thế Tôn biết ta.
Thiện Thệ biết ta.” Nghĩ vậy, nó buồn bã, sầu não, không thể ở
lại, liền biến mất, không thấy ở chỗ ấy nữa.
Phật thuyết như vậy. Tôn giả Di-lặc, A-di-đa,
A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng
hành.
Chú thích:
-
[01] Biệt dịch,
No.44 Phật Thuyết Cổ Lai Trì Thế Kinh, khuyết danh dịch.
Pāli, tham chiếu Thag.910-919.
-
[02] Hán: quân
thập. No.44: “Gánh cỏ đi bán mà tự nuôi sống”. Pāli:
ghāsa-hāraka, người thâu nhặt thức ăn (của gia súc).
-
[03] Vô Hoạn.
No.44: “Có vị Duyên giác hiệu là Hòa-lý. Pāli: Upariccha.
-
[04] Vì Tôn giả là
anh em chú bác ruột với Đức Thích Tôn, con của Amitodana
(Cam lộ Phạn vương).
-
[05] Vì trước đó
đời sống vương tử của Ngài rất phong lưu và Mahānāma - anh
ruột của Ngài - đã khó khăn lắm mới thuyết phục được Ngài đi
xuất gia.
-
[06] Tức, một vị
A-la-hán.
-
[07] Ngũ chi thiền
định, Thiền định năm chi (Pāli: pañcagika-samādhi): tức bốn
cấp thiền trong đó Sơ thiền chia làm hai do sự khác biệt tầm
(Pl. vitakka) và tứ (Pal. vicāra).
-
[08] Pāli: sante
ekodibhāvite, tịch tĩnh, chuyên nhất.
-
[09] Tì-da-li Trúc
lâm. Pāli: Vajjīna Veluvagāme, trong Vajji-Veluvagāma, một
ngôi làng ở Vesali, xứ Vajjī (Bạt Kỳ); Anuruddha sẽ nhập
Niết-bàn ở đó.
-
[10] Từ đây trở
xuống, tham chiếu kinh 70 phần sau. Tham chiếu, Pāli, D. 26
Cakkacattī-sīhanā-suttanta.
-
[11] Pāli (D.26),
chi có ba chứng bệnh: ham muốn (icchā), đói bụng (anasana)
và già (jāra).
-
[12] Loa. Pāli:
Sakha (vỏ sò).
-
[13] A-di-đa. Pāli:
Ajita. Trong bản kinh này, A-di-đa (Ajita) và Di-lặc
(Mettaya) là hai nhân vật được thọ ký, một người làm vua và
một người làm Phật.
-
[14] Di-lặc. Pāli:
Mettayya.
-
[15] Pāli: so
anekasahassam… (seyyathā pi’ham) anekasatam… vị ấy có vài
nghìn… (cũng như Ta) có vài trăm…
-
[16] Kê-đầu thành,
Pāli: Ketumatī nơi mà Sankha là Chuyển luân vương.
-
[17] Nguyên Hán: Vô
phục, dịch nghĩa của A-dật-da (Pāli: Ajjta), cũng dịch nghĩa
là Vô Năng Thắng.