Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại thành Câu-thi[02],
trú trong rừng Sa-la của Hòa-bạt-đơn lực sĩ[03].
Bấy giờ, vào lúc tối hậu, sắp nhập Niết-bàn,
Đức Thế Tôn bảo:
“Này A-nan, hãy đến giữa hai cây Sa-la song
thọ[04]
trải chỗ nằm cho Như Lai, đầu quay về hướng Bắc. Như Lai vào
giữa đêm nay sẽ nhập Niết-bàn.”
Tôn giả A-nan vâng lời Đức Như Lai, liền đến
giữa hai cây song thọ trải chỗ nằm cho Như Lai, đầu quay về
hướng Bắc. Sau khi trải chỗ nằm xong, trở lại chỗ Đức Phật,
cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài rồi đứng sang một bên, bạch
rằng:
“Bạch Thế Tôn, con đã trải chỗ nằm cho Như
Lai, đầu quay về hướng Bắc. Cúi mong Thế Tôn tự biết thời.”
Bấy giờ Thế Tôn cùng Tôn giả A-nan đến giữa
hai cây song thọ, xếp tư y uất-đa-la-tăng trải lên chỗ nằm,
gấp y tăng-già-lê làm gối. Ngài nằm nghiêng về hông bên
phải, hai chân chồng lên nhau. Đây là lúc tối hậu, Phật sắp
Niết-bàn.
Lúc ấy Tôn giả A-nan đang cầm quạt hầu Phật.
Tôn giả chắp tay hướng về Đức Phật thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, còn có những thành lớn khác.
Một là Chiêm-bà, hai là Xá-vệ, ba là Bệ-xá-ly, bốn là Vương
xá, năm là Ba-la-nại, sáu là Ca-tỳ-la-vệ[05].
Sao Thế Tôn không nhập Niết-bàn ở các nơi ấy, mà quyết định
tại thành bằng đất nhỏ hẹp này, một thành nhỏ hẹp nhất trong
các thành?”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo:
“Này A-nan, ngươi chớ nói rằng đây là thành
đất nhỏ hẹp, là thành nhỏ nhất trong các thành. Vì sao? Vì
thuở quá khứ, thành Câu-thi-na này tên là Câu-thi vương
thành[06],
giàu có cùng tột, dân chúng đông đúc.
“A-nan, Câu-thi vương thành dài mười hai
do-diên, rộng bảy do-diên.
“A-nan, ở đây dựng tháp canh cao bằng một
người, hoặc hai, ba, bốn..., cho đến bảy người.
“A-nan, ở chung quanh bên ngoài Câu-thi vương
thành, có bảy lớp hào. Hào ấy được xây bằng gạch bốn báu là
vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Đáy hào cũng trải cát bằng
bốn loại báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh.
“Này A-nan, Câu-thi vương thành có bảy lớp
tường thành bao bọc bên ngoài. Những lớp tường thành ấy cũng
được xây bằng gạch bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy
tinh.
“Này A-nan, Câu-thi vương thành có bảy lớp
hàng cây Đa-la[07]
bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh bao bọc xung
quanh. Cây Đa-la bằng vàng thì hoa, lá và trái bằng bạc. Cây
Đa-la bằng bạc thì hoa, lá và trái bằng vàng. Cây Đa-la bằng
lưu ly thì hoa, lá và trái bằng thủy tinh. Cây Đa-la bằng
thủy tinh thì hoa, lá và trái bằng lưu ly.
“Này A-nan, ở giữa những cây Đa-la có đào
nhiều hồ sen; hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen đỏ và hồ hoa
sen trắng.
“Này A-nan, bờ hồ hoa ấy được đắp bằng bốn
báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Ở đáy hồ thì rải cát
bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Trong thành
hồ ấy có thềm cấp bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly, thủy
tinh. Thềm cấp bằng vàng thì bậc chân[08]
bằng bạc, thềm cấp bằng bạc thì có bậc chân bằng vàng. Thềm
cấp bằng lưu ly thì có bậc chân bằng thủy tinh. Thềm cấp
bằng thủy tinh thì có bậc chân bằng lưu ly.
“Này A-nan, xung quanh hồ ấy có câu lan[09]
bằng bốn báu, lưỡi câu là vàng bạc, lưu ly, thủy tinh. Lan
can bằng vàng thì lưỡi câu bằng bạc. Lan can bằng bạc thì
lưỡi câu bằng vàng. Lan can bằng lưu ly thì lưỡi câu bằng
thủy tinh. Lan can bằng thủy tinh thì lưỡi câu bằng lưu ly.
“Này A-nan, hồ ấy được trùm bởi màn lưới có
chuông treo ở giữa. Chuông ấy làm bằng bốn báu là vàng, bạc,
lưu ly và thủy tinh. Chuông bằng vàng thì quả lắc bằng bạc.
Chuông bằng bạc thì quả lắc bằng vàng. Chuông bằng lưu ly
thì quả lắc bằng thủy tinh. Chuông bằng thủy tinh thì quả
lắc bằng lưu ly.
“Này A-nan, trong hồ ấy trồng nhiều loại hoa
dưới nước như hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen đỏ, hoa
sen trắng; thường có nước, có hoa, không có người trông giữ
ngăn cấm vì thuộc về tất cả mọi người.
“Này A-nan, ở bờ hồ ấy có trồng nhiều loại
hoa như hoa Tu-ma-na, hoa Bà-sư, hoa Chiêm-bặc, hoa Kiện-đề,
hoa Ma-đầu-kiện-đề, hoa A-đề-mâu-đa, hoa Ba-la đầu[10].
“Này A-nan, bên các bờ hồ sen ấy, có nhiều
người nữ thân thể nõn nà, sạch sẽ, trong sáng, sắc đẹp hơn
người, chẳng kém thiên nữ, tư dung đoan chánh, ai nhìn cũng
thấy vui thích, được trang sức đầy đủ các loại ngọc báu;
những người nữ ấy bố thí tùy theo nhu cầu của mọi người như
đồ ăn thức uống, áo, chăn, xe cộ, nhà cửa, giường nệm, đệm
lông ngũ sắc, tôi tớ, đèn dầu... đem cung cấp đầy đủ.
“Này A-nan, lá cây Đa-la ấy lúc gió thổi thì
phát ra âm thanh cực kỳ vi diệu, cũng như năm loại kỹ nhạc
được nhạc sư tài ba tấu lên thì có âm thanh hết sức hài hòa,
tuyệt diệu. Này A-nan, lá cây ấy lúc gió thổi cũng lại như
vậy.
“Này A-nan, trong thành Câu-thi ấy giả sử có
người tồi tệ thấp hèn hạ, muốn được thưởng thức năm loại kỹ
nhạc, nếu cùng đến giữa những cây Đa-la thì đều được thưởng
thức thỏa thích.
“Này A-nan, Câu-thi vương thành thường có
mười hai loại tiếng không bao giờ gián đoạn, là tiếng voi,
tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng đi bộ, tiếng tù và, tiếng trống,
tiếng trống bạc lạc[11],
tiếng trống kỷ[12],
tiếng ca, tiếng vũ, tiếng ăn, tiếng bố thí.
“Này A-nan, trong thành Câu-thi có vua tên là
Đại Thiện Kiến[13],
là vị Chuyển luân vương thông minh trí tuệ, có bốn loại quân
chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại; là vị Pháp vương như pháp,
thành tựu bảy báu, được bốn đức như ý của con người.
“Này A-nan, bấy giờ các Phạm chí, cư sĩ trong
Câu-thi vương thành mang các loại châu báu, kiềm-bà-la báu[14],
chở đến chỗ vua Đại Thiện Kiến, thưa rằng:
“– Tâu Thiên vương, các loại châu báu,
kiềm-bà-la báu này, mong Thiên vương vì lòng từ mẫn mà nạp
thọ.
“Đại Thiện Kiến vương nói với các Phạm chí:
“– Này các khanh, các khanh hiến dâng nhưng
ta thấy chưa cần thiết, vì ta đã có đủ.
“Này A-nan, lại có tám vạn bốn ngàn vị Tiểu
quốc vương, đến thưa vua Đại Thiện Kiến rằng:
“– Tâu Thiên vương, chúng tôi muốn xây chánh
điện cho Thiên vương.
“Đại Thiện Kiến vương nói với các Tiểu quốc
vương:
“– Các khanh muốn xây chánh điện cho ta,
nhưng ta thấy chưa cần thiết, vì chánh điện ta đã có.
“Tám vạn bốn ngàn vị Tiểu quốc vương đều chắp
tay hướng về Đại Thiện Kiến vương, lặp lại ba lần rằng:
“– Tâu Thiên vương, chúng tôi muốn xây chánh
điện cho Thiên vương. Chúng tôi muốn xây chánh điện cho
Thiên vương.
“Bấy giờ, Đại Thiện Kiến vương im lặng nhận
lời của tám vạn bốn ngàn vua các tiểu quốc. Khi biết vua đã
im lặng nhận lời, các Tiểu quốc vương liền bái biệt, đi
quanh ba vòng rồi lui ra. Vua nước nào trở về nước ấy, dùng
tám vạn bốn ngàn cỗ xe chất đầy những vàng và các loại tiền,
bằng vàng tinh luyện hay chưa tinh luyện[15].
Lại lấy các trụ đều bằng ngọc lớn chở đến thành Câu-thi,
cách thành không xa xây đại chánh điện.
“Này A-nan, đại chánh điện ấy dài một
do-diên, rộng một do-diên. Đại chánh điện ấy được xây bằng
gạch làm bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh.
“Này A-nan, thềm cấp của đại chánh điện ấy
làm bằng bốn loại báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh.
Thềm cấp bằng vàng thì trụ bằng bạc. Tam cấp bằng bạc thì
trụ bằng vàng. Thềm cấp bằng lưu ly thì trụ bằng thủy tinh.
Thềm cấp bằng thủy tinh thì trụ bằng lưu ly.
“Này A-nan, trong đại chánh điện có tám vạn
bốn ngàn cột trụ làm bằng bốn báu là: Vàng, bạc, lưu ly và
thủy tinh. Cột bằng vàng thì đá tảng bằng bạc. Cột bằng bạc
thì đá tảng bằng vàng. Cột bằng lưu ly thì đá tảng bằng thủy
tinh. Cột bằng thủy tinh thì đá tảng bằng lưu ly.
“Này A-nan, bên trong chánh điện lại xây tám
vạn bốn ngàn lầu làm bằng bốn báu là: Vàng, bạc, lưu ly,
thủy tinh. Lầu bằng vàng thì mái lợp bằng bạc. Lầu bằng bạc
thì mái lợp bằng vàng. Lầu bằng lưu ly thì mái lợp bằng thủy
tinh. Lầu bằng thủy tinh thì mái lợp bằng lưu ly.
“Này A-nan, trong đại chánh điện có thiết trí
tám vạn bốn ngàn ngự tòa, cũng làm bằng bốn báu: vàng, bạc,
lưu ly và thủy tinh. Lầu bằng vàng thì thiết trí ngự tòa
bằng bạc, trải lên trên các thứ nệm chiếu, đệm lông năm sắc,
phủ lên trên bằng những thứ gấm, the, lụa, sa trun, có chăn
đệm lót hai đầu để gối, trải thảm quý bằng da sơn dương.
Cũng vậy, lầu bằng bạc thì thiết trí ngự tòa bằng vàng. Lầu
bằng lưu ly thì thiết trí ngự tòa bằng thủy tinh. Lầu bằng
thủy tinh thì thiết trí ngự tòa bằng lưu ly, trải lên bằng
các thứ nệm chiếu, đệm lông năm sắc, phủ lên bằng các thứ
gấm, the, lụa, sa trun, có chăn đệm lót hai đầu để gối và
trải thảm quý bằng da sơn dương.
“Này A-nan, đại chánh điện ấy xung quanh có
câu lan bằng bốn báu, vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Lan
can bằng vàng thì lưỡi câu bằng bạc. Lan can bằng bạc thì
lưỡi câu bằng vàng. Lan can bằng lưu ly thì lưỡi câu bằng
thủy tinh. Lan can bằng thủy tinh thì lưỡi câu bằng lưu ly.
“Này A-nan, đại chánh điện ấy được che bằng
màn lưới, trong đó treo các thứ chuông lắc. Chuông ấy làm
bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Chuông bằng
vàng thì quả lắc bằng bạc. Chuông làm bằng bạc thì quả lắc
bằng vàng. Chuông bằng lưu ly thì quả lắc bằng thủy tinh.
Chuông bằng thủy tinh thì quả lắc bằng lưu ly.
“Này A-nan, đại chánh điện ấy sau khi được
kiến trúc đầy đủ, bốn vạn tám ngàn vua các tiểu quốc đi ra
cách đại chánh điện không xa, xây ao sen lớn.
“Này A-nan, ao sen lớn ấy dài một do-diên;
rộng một do-diên.
“Này A-nan, ao sen lớn ấy được đắp gạch bằng
bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Đáy ao được rải
cát bốn thứ báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh.
“Này Na-nan, ao sen lớn ấy có thềm cấp bằng
bốn thứ báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Tầng cấp bằng
vàng thì thềm bằng bạc. Tầng cấp bằng bạc thì thềm bằng
vàng. Tầng cấp bằng lưu ly thì thềm bằng thủy tinh. Tầng cấp
bằng thủy tinh thì thềm bằng lưu ly.
“Này A-nan, chung quanh ao sen lớn có câu lan
bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Lan can bằng
vàng thì lưỡi câu bằng bạc. Lan can bằng bạc thì lưỡi câu
bằng vàng. Lan can bằng lưu ly thì lưỡi câu bằng thủy tinh.
Lan can bằng thủy tinh thì lưỡi câu bằng lưu ly.
“Này A-nan, ao sen lớn ấy được che bởi màn
lưới, trong đó treo các thứ chuông lắc. Chuông ấy làm bằng
bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Chuông bằng vàng
thì quả lắc bằng bạc. Chuông bằng bạc thì quả lắc bằng vàng.
Chuông bằng lưu ly thì quả lắc bằng thủy tinh. Chuông bằng
thủy tinh thì quả lắc bằng lưu ly.
“Này A-nan, trong ao sen lớn ấy có nhiều loại
thủy hoa như hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng, hoa
sen đỏ, thường có nước ở hoa, có người gìn giữ, không thuộc
về tất cả mọi người.
“Này A-nan, trong ao sen lớn ấy có nhiều loại
lục hoa, như hoa Tu-ma-na, hoa Bà-sư, hoa Chiêm-bặc, hoa
Tu-kiền-đề, hoa Ma-đầu-kiẹân-đề, hoa A-đề-mâu-đa, hoa
Ba-la-lại.
“Này A-nan, sau khi kiến trúc đại điện và hồ
hoa lớn đầy đủ như thế, tám vạn bốn ngàn vua các tiểu quốc
đi ra cách điện không xa, thiết lập vườn Đa-la[16].
“Này A-nan, vườn Đa-la ấy dài một do-diên,
rộng một do-diên. Trong vườn Đa-la trồng tám vạn bốn ngàn
cây Đa-la, đều dùng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy
tinh. Cây Đa-la bằng vàng thì lá, hoa, quả bằng bạc. Cây
Đa-la bằng bạc thì lá, hoa, quả bằng vàng. Cây Đa-la bằng
lưu ly thì lá, hoa, quả bằng thủy tinh. Cây Đa-la bằng thủy
tinh thì lá, hoa, quả bằng lưu ly.
“Này A-nan, chung quanh vườn Đa-la ấy có lan
can lưỡi câu bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh.
Lan can bằng vàng thì lưỡi câu bằng bạc. Lan can bằng bạc
thì lưỡi câu bằng vàng. Lan can bằng lưu ly thì lưỡi câu
bằng thủy tinh. Lan can bằng thủy tinh thì lưỡi câu bằng lưu
ly.
“Này A-nan, vườn Đa-la ấy được che bằng lưới
báu, có chuông treo lơ lửng ở khoảng giữa. Chuông ấy làm
bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Chuông bằng
vàng thì quả lắc bằng bạc. Chuông bằng bạc thì quả lắc bằng
vàng. Chuông bằng lưu ly thì quả lắc bằng thủy tinh. Chuông
bằng thủy tinh thì quả lắc bằng lưu ly.
“Này A-nan, sau khi kiến trúc đại điện, ao
hoa và vườn Đa-la đầy đủ như thế, tám vạn bốn ngàn Tiểu quốc
vương cùng đến chỗ vua Đại Thiện Kiến thưa rằng:
“– Tâu Thiên vương, xin biết cho rằng, đại
điện, ao hoa và vườn cây Đa-la, tất cả đã kiến trúc đầy đủ.
Mong Thiên vương sử dụng tùy thích.
“Này A-nan, bấy giờ vua Đại Thiện Kiến nghĩ
rằng: ‘Ta không nên lên đại điện này trước. Nếu có bậc
Thượng tôn Sa-môn, Phạm chí ở thành Câu-thi vương này, ta
nên mời tất cả tụ tập ngồi ở đại điện này, soạn các thức ăn
ngon lành, mỹ diệu, đầy đủ thức nhai và nuốt, tự tay bưng
hầu khiến các ngài ăn no. Ăn xong, dọn bát và dùng nước rửa,
rồi mời các ngài trở về’.
“Này A-nan, sau khi vua Đại Thiện Kiến nghĩ
như vậy, liền mời tất cả các bậc Thượng tôn Sa-môn, Phạm chí
đang trú tại thành Câu-thi vương ấy tụ tập trên đại chánh
điện. Tất cả tụ tập và an tọa xong, vua thân hành lấy nước
rửa rồi đem các thức ăn ngon lành, mỹ diệu, đầy đủ các thức
nhai và nuốt, tự tay bưng hầu khiến các ngài ăn no. Sau khi
ăn, dọn bát, đem nước rửa và nhận lời cầu chúc, rồi vua mời
các ngài trở về.
“Này A-nan, vua Đại Thiện Kiến lại nghĩ: ‘Nay
ta không nên vào đại chánh điện để hưởng dục lạc. Ta nên đem
độc nhất một người hầu lên ở tại đại chánh điện’.
“Này A-nan, sau đó vua Đại Thiện Kiến đem
người hầu lên đại chánh điện, đi vào lầu bằng vàng, ngồi ở
ngự tòa bằng bạc, được trải lên bằng những thứ nệm chăn, đệm
lông năm sắc, được phủ lên bằng những thứ gấm, the, lụa, sa
trun, có chăn đệm lót hai đầu để gối và trải thảm quý bằng
da sơn dương. Ngồi xong, nhà vua ly dục, ly các pháp ác bất
thiện; có giác, có quán, hỷ và lạc do ly dục sanh, tiến vào
Sơ thiền, thành tựu và an trú.
“Từ lầu bằng vàng đi ra, lại đi vào lầu bằng
bạc, ngồi vào ngự sàng bằng vàng được trải các thứ nệm chăn,
đệm lông năm sắc, được phủ lên bằng những thứ gấm, the, lụa,
sa trun, có chăn đệm lót hai đầu để gối và trải thảm quý
bằng da sơn dương. Ngồi xong, nhà vua ly dục, ly pháp ác bất
thiện, có giác, có quán, hỷ và lạc do ly dục sanh, tiến vào
Sơ thiền, thành tựu và an trú.
“Từ lầu bằng bạc đi ra, lại đi vào lầu bằng
lưu ly, ngồi vào ngự sàng bằng tủy tinh được trải các thứ
nệm chăn, đệm lông năm sắc, được phủ lên bằng những thứ gấm,
the, lụa, sa trun, có chăn đệm lót hai đầu để gối và trải
thảm quý bằng da sơn dương. Ngồi xong, nhà vua ly dục, ly
pháp ác bất thiện, có giác, có quán, hỷ và lạc do ly dục
sanh, tiến vào Sơ thiền, thành tựu và an trú.
“Từ lầu bằng lưu ly đi ra, lại vào lầu bằng
thủy tinh, ngồi vào ngự sàng bằng lưu ly được trải các thứ
nệm chăn, đệm lông năm sắc, được phủ lên bằng những thứ gấm,
the, lụa, sa trun, có chăn đệm lót hai đầu để gối và trải
thảm quý bằng da sơn dương. Ngồi xong, nhà vua ly dục, ly
pháp ác bất thiện, có giác, có quán, hỷ và lạc do ly dục
sanh, tiến vào Sơ thiền, thành tựu và an trú.
“Này A-nan, bấy giờ tám vạn bốn ngàn phu nhân
và nữ báu quá lâu không thấy vua Đại Thiện Kiến, ai cũng nhớ
mong, khao khát muốn thấy. Lúc đó, tám vạn bốn ngàn phu nhân
cùng nhau đi đến nữ báu thưa thỉnh rằng:
“– Thiên hậu, nên biết rằng, từ lâu không
được hầu cận Thiên vương. Thiên hậu, chúng tôi nay muốn cùng
nhân dân đến yết kiến Thiên vương.
“Nữ báu nghe xong, liền bảo Tướng quân:
“– Ngươi nay nên biết rằng, chúng tôi từ lâu
không được hầu cận Thiên vương, nay muốn đến yết kiến Thiên
vương.
“Tướng quân nghe vậy, liền đưa tám vạn bốn
ngàn phu nhân và nữ báu đến đại chánh điện. Tám vạn bốn ngàn
thớt voi, tám vạn bốn ngàn con ngựa, tám vạn bốn ngàn cỗ xe,
tám vạn bốn ngàn lính bộ, tám vạn bốn ngàn tiểu vương cũng
cùng hộ tống, đi đến đại chánh điện. Lúc cả đoàn đang đi, âm
thanh ấy vang dội chấn động mạnh mẽ. Vua Đại Thiện Kiến nghe
được âm thanh vang dội chấn động mạnh mẽ ấy. Nghe xong, nhà
vua liền hỏi người đứng hầu bên cạnh:
“– Đó là tiếng gì mà vang dội chấn động mạnh
mẽ thế?
“Người hầu thưa:
“– Tâu Thiên vương, đó là do tám vạn bốn ngàn
phu nhân và nữ báu, hôm nay tất cả cùng đến đại chánh điện;
tám vạn bốn ngàn thớt voi, tám vạn bốn ngàn con ngựa, tám
vạn bốn ngàn cỗ xe, tám vạn bốn ngàn lính bộ, tám vạn bốn
ngàn Tiểu vương lại cùng nhau đến chánh điện, cho nên âm
thanh ấy vang dội, chấn động mạnh mẽ.
“Nghe xong, vua Đại Thiện Kiến bảo người hầu
cận:
“– Ngươi mau xuống khỏi đại điện, đến chỗ đất
trống, trải nhanh giường bằng vàng rồi trở lại cho ta hay.
“Người hầu cận vâng lời, liền từ điện đi
xuống, đến chỗ đất trống, trải giường bằng vàng một cách
nhanh chóng, liền trở lại thưa rằng:
“– Con đã trải giường bằng vàng ở chỗ đất
trống cho Thiên vương, xin tùy ý Thiên vương.
“Này A-nan, vua Đại Thiện Kiến cùng với người
hầu từ điện đi xuống, ngự trên giường bằng vàng và ngồi kiết
già.
“Này A-nan, bấy giờ tám vạn bốn ngàn phu nhân
và nữ báu cùng nhau đến trước vua Đại Thiện Kiến.
“Này A-nan, từ xa, vua Đại Thiện Kiến trông
thấy tám vạn bốn ngàn phu nhân và nữ báu, liền đóng kín các
căn. Tám vạn bốn ngàn phu nhân và nữ báu thấy vua đóng kín
các căn, liền nghĩ: ‘Thiên vương nay chắc không dùng đến
chúng ta nữa. Vì sao? Vì Thiên vương vừa thấy chúng ta, liền
đóng kín các căn’.
“Này A-nan, khi đó nữ báu đi đến trước vua
Đại Thiện Kiến. Đến rồi thưa rằng:
“– Tâu Thiên vương, xin biết cho, tám vạn bốn
ngàn phu nhân và nữ báu này hoàn toàn thuộc về Thiên vương.
Mong Thiên vương thương tưởng đến chúng tôi cho đến lúc mạng
chung và tám vạn bốn ngàn thớt voi, tám vạn bốn ngàn con
ngựa, tám vạn bốn ngàn cỗ xe, tám vạn bốn ngàn lính bộ, tám
vạn bốn ngàn tiểu vương cũng hoàn toàn thuộc về Thiên vương,
mong Thiên vương tưởng đến tất cả cho đến lúc mạng chung.
“Bấy giờ vua Đại Thiện Kiến nghe những lời ấy
xong, bảo nữ báu rằng:
“– Này hiền muội, các người luôn luôn xúi dục
ta làm ác, mà không khuyến khích ta làm lành. Này hiền muội,
từ nay về sau nên khuyến khích ta làm lành, chớ xúi dục ta
làm ác.
“Này A-nan, tám vạn bốn ngàn phu nhân và nữ
báu ấy liền ngồi qua một bên, nước mắt tràn ra, khóc lóc bi
thảm, thưa rằng:
“– Chúng tôi chẳng phải là em của Thiên
vương, mà nay Thiên vương gọi chúng tôi là hiền muội.
“Này A-nan, tám vạn bốn ngàn phu nhân và nữ
báu ấy, mỗi người dùng áo lau nước mắt, lại đến trước vua
Đại Thiện Kiến thưa rằng:
“– Tâu Thiên vương, chúng tôi làm thế nào để
khuyến khích Thiên vương làm lành, không làm ác?
“Vua Đại Thiện Kiến đáp:
“– Các hiền muội, hãy nói với ta như thế này:
‘Tâu Thiên vương, ngài biết không, mạng người ngắn ngũi, rồi
sẽ đi qua đời sau, nên phải tu phạm hạnh. Do đó sự sanh
không thể chấm dứt. Thiên vương nên biết, pháp ấy chắc chắn
đến, không thể ái niệm, không thể hoan hỷ, hoại diệt tất cả,
người đời gọi là ‘sự chết’. Cho nên, tâu Thiên vương, đối
với tám vạn bốn ngàn phu nhân và nữ báu, nếu có ái niệm, có
dục thì mong Thiên vương đoạn trừ, xả ly tất cả, cho đến lúc
mạng chung vẫn chớ niệm tưởng. Đối với tám vạn bốn ngàn thớt
voi, tám vạn bốn ngàn con ngựa, tám vạn bốn ngàn cỗ xe, tám
vạn bốn ngàn lính bộ, tám vạn bốn ngàn tiểu vương, tâu Thiên
vương, nếu có ái niệm, có dục thì mong Thiên vương đoạn trừ,
xả ly tất cả, cho đến lúc mạng chung vẫn chớ niệm tưởng’.
Này các hiền muội, các hiền muội hãy khuyến khích ta làm
lành, chớ xúi dục ta làm ác, đúng như thế.
“Này A-nan, tám vạn bốn ngàn phu nhân và nữ
báu ấy thưa rằng:
“– Tâu Thiên vương, chúng tôi từ nay về sau
sẽ khuyến khích Thiên vương làm lành, chớ không xúi dục
Thiên vương làm ác, như thế này: ‘Tâu Thiên vương, mạng
người ngắn ngũi, rồi sẽ đi qua đời sau. Pháp ấy chắc chắn
đến, cũng không thể ái niệm, cũng không thể hoan hỷ, hoại
diệt tất cả, người đời gọi là ‘sự chết’, cho nên, tâu Thiên
vương, đối với tám vạn bốn ngàn phu nhân và nữ báu, nếu có
niệm có dục thì mong Thiên vương hãy đoạn trừ, xả ly tất cả,
cho đến lúc mạng chung cũng không niệm tưởng’.
“Này A-nan, vua Đại Thiện Kiến thuyết pháp
cho tám vạn bốn ngàn phu nhân và nữ báu, khuyến phát khát
ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi dùng vô lượng phương tiện
thuyết pháp cho những người ấy, khuyến phát khát ngưỡng,
thành tựu hoan hỷ xong, nhà vua bảo họ trở về.
“Này A-nan, biết vua đã ra lệnh, tám vạn bốn
ngàn phu nhân và nữ báu mỗi người đều đến bái biệt nhà vua
rồi trở về.
“Này A-nan, tám vạn bốn ngàn phu nhân và nữ
báu ấy trở về chưa bao lâu, vua Đại Thiện Kiến cùng người
hầu cận trở lên đại điện, vào lầu bằng vàng, ngồi trên ngự
sàng bằng bạc, được trải bằng các thứ nệm, chăn, đệm lông
năm sắc, được phủ lên bằng các thứ gấm, lụa, the, sa trun,
có chăn đệm lót hai đầu để gối và trải thảm quý bằng da sơn
dương. Ngồi xong, quán như thế này: ‘Ta đến đây là cuối
cùng. Niệm dục, niệm nhuế, niệm hại, đấu tranh, ghét nhau,
dua siễm, dối trá, lừa gạt, nói láo, vô lượng các pháp ác
bất thiện đến đây là cuối cùng. Tâm cùng với từ tương ưng,
biến mãn một phương, thành tựu và an trú. Cũng như thế, hai,
ba, bốn phương trên và dưới phổ biến cùng khắp, không kết
không oán, không nhuế, không tranh, bao la rộng lớn, vô
lượng, khéo tu tập, biến mãn cùng khắp thế gian, thành tựu
và an trú’.
“Từ lầu bằng vàng đi ra, nhà vua lại vào lầu
bằng bạc, ngồi trên ngự sàng bằng vàng, được trải lên bằng
các chăn nệm, đệm lông năm sắc, được trải lên bằng các thứ
gấm, the, lụa, sa trun, có chăn đệm lót hai đầu để gối và
trải thảm quý bằng da sơn dương. Ngồi xong, quán tưởng rằng:
‘Ta đến đây là cuối cùng. Niệm dục, niệm nhuế, niệm hại, đấu
tranh, ghét nhau, dua siễm, dối trá, lừa gạt, nói láo,... vô
lượng các pháp ác bất thiện, đến đây là cuối cùng, tâm cùng
với bi tương ưng, biến mãn một phương, thành tựu và an trú.
Cũng như thế, hai, ba, bốn phương, tứ duy, phương trên và
phương dưới, phổ biến cùng khắp, không kết không oán, không
nhuế, không tranh, rộng rãi bao la vô lượng, khéo tu tập,
biến mãn cùng khắp thế gian, thành tựu an trú’.
“Từ lầu bằng bạc đi ra, nhà vua lại vào lầu
bằng lưu ly, ngồi trên ngự tòa bằng thủy tinh, đượïc trải
bằng các thứ chăn nệm, đệm lông năm sắc, được phủ lên bằng
các thứ gấm, the, lụa, sa trun, có chăn nệm lót hai đầu để
gối và trải thảm quý bằng da sơn dương. Ngồi xong, quán thế
này: ‘Ta đến đây là cuối cùng. Niệm dục, niệm nhuế, niệm
hại, đấu tranh, ghéùt nhau, dua siễm, dối trá, lừa gạt, nói
láo, vô lượng các pháp ác bất thiện, đến đây là cuối cùng,
tâm cùng với hỷ tương ưng, biến mãn một phương, thành tựu và
an trú. Cũng như thế, hai, ba, bốn phương, tứ duy, phương
trên và phương dưới, phổ biến cùng khắp, không kết không
oán, không nhuế, không tranh, rộng rãi bao la vô lượng, khéo
tu tập, biến mãn cùng khắp thế gian, thành tựu và an trú’.
“Từ lầu bằng lưu ly đi ra, nhà vua vào lầu
bằng thủy tinh, ngồi trên ngự tòa bằng lưu ly, được trải lên
bằng các thứ chăn nệm, đệm lông năm sắc, được phủ lên bằng
các thứ gấm, the, lụa, sa trun, có chăn nệm lót hai đầu để
gối và trải thảm quý bằng da sơn dương. Ngồi xong, quán thế
này: “Ta đến đây là cuối cùng. Niệm dục, niệm nhuế, niệm
hại, đấu tranh, ghét nhau, dua siễm, dối trá, lừa gạt, nói
láo,... vô lượng các pháp ác bất thiện, đến đây là cuối
cùng, tâm cùng với xả tương ưng, biến mãn một phương, thành
tựu và an trú. Cũng như thế, hai, ba, bốn phương, tứ duy,
phương trên và phương dưới, phổ biến cùng khắp, không kết
không oán, không nhuế, không tranh, rộng rãi bao la vô
lượng, khéo tu tập, biến mãn cùng khắp thế gian, thành tựu
và an trú.”
“Này A-nan, Vua Đại Thiện Kiến vào giờ phút
cuối cùng, chết với một cảm giác đau phơn phớt.
“Cũng giống như cư sĩ hoặc con của cư sĩ, ăn
món ăn mỹ diệu, cảm thấy một chút khó chịu.
“Này A-nan, vua Đại Thiện Kiến vào giờ phút
cuối cùng chết với một cảm giác đau phơn phớt cũng lại như
vậy.
“Này A-nan, bấy giờ vua Đại Thiện Kiến tu bốn
Phạm thất[17],
sau khi xả niệm dục, nhờ đó khi mạng chung, sanh vào cõi
Phạm thiên.
“Này A-nan, vua Đại Thiện Kiến thuở xưa ấy
ông cho là ai khác chăng? Chớ nghĩ như vậy, nên biết rằng vị
ấy chính là Ta vậy.
“Này A-nan, lúc bấy giờ Ta làm lợi ích cho
mình, cũng làm lợi ích cho kẻ khác, làm lợi ích cho mọi
người. Ta thương xót thế gian, mong cầu thiện lợi và hữu
ích, mong cầu an ổn và khoái lạc cho trời và người. Bấy giờ
Ta thuyết pháp không đến chỗ rốt ráo, không rốt ráo bạch
tịnh, không rốt ráo phạm hạnh. Vì không rốt ráo phạm hạnh
nên khi ấy không lìa khỏi sự sanh, tuổi già, bệnh tật, sự
chết, khóc lóc, áo não, cũng chưa thoát khỏi mọi khổ đau.
“Này A-nan, nay Ta xuất hiện ở đời là Như
Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên
Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Nay Ta đã làm lợi ích cho mình,
cũng làm lợi ích cho kẻ khác, làm lợi ích cho mọi người. Ta
thương xót thế gian, mong cầu sự thiện lợi và hữu ích, cầu
sự an ổn và khoái lạc cho trời và người. Nay Ta thuyết pháp
đến chỗ rốt ráo, rốt ráo bạch tịnh, rốt ráo phạm hạnh. Rốt
ráo phạm hạnh nên nay Ta lìa khỏi sự sanh, tuổi già, tật
bệnh, sự chết, khóc lóc, áo não. Ta nay đã thoát khỏi mọi sự
đau khổ.
“Này A-nan, từ thành Câu-thi-la, từ rừng
Sa-la của Hòa-bạt-đơn Lực sĩ, từ sông Ni-liên-nhiên[18],
từ sông Bà-cầu[19],
từ Thiên Quang tự, từ chỗ trải chỗ nằm cho Ta hôm nay, trong
khoảng thời gian giữa đó, Ta đã bảy lần xả thân. Trong bảy
lần ấy, sáu lần làm Chuyển luân vương, nay là lần thứ bảy
thành Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác. Này A-nan,
Ta không thấy ở đâu trong thế gian này, Trời hay Ma, Phạm,
Sa-môn, Phạm chí, từ trời đến người mà Ta sẽ xả thân thêm
lần nữa, vì điều đó không có thể có.
“Này A-nan, nay đây là sự sanh cuối cùng của
Ta, là sự hữu cuối cùng, là thân cuối cùng, là bẩm hình cuối
cùng. Ta nói đây là chỗ tận cùng của khổ.
Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các
Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết xong, hoan hỷ phụng hành.
Chú thích:
[01] Pāli: D.17.
Mahā-Sudassana-suttanta. Tham chiếu, No.1(2) “Kinh Du hành”;
No.5 Phật Bát-nê-hoàn Kinh, quyển hạ, Bạch Pháp Tổ dịch;
No.6 Bát-nê-hoàn kinh, khuyết danh dịch; No.7 Đại
Bát-niết-bàn kinh, Nghĩa Tịnh dịch; No.1451 Căn Bản Thuyết
Nhất Thiết Hữu Bộ Tì-nại-da Tạp Sự quyển 37, Nghĩa Tịnh
dịch.
[02] Câu-thi thành.
Pāli: Kusinārā, thủ phủ của bộ tộc Mallā; Đức Phật nhập
Niết-bàn tại đây.
[03] Hòa-bạt-đơn
lực sĩ. Pāli: Upavattana-Mallā, bộ tộc Mallā ở Upavattana.
[04] Song Sa-la
thọ. Pāli: yamaka-sālā, cây Sa-la sinh đôi, mọc thành cặp;
Sa-la song thọ.
[05] Chiêm-bà
(Pāli: Campā). Xá-vệ (Sāvatthi), Bệ-xá-ly (Vesali), Vương xá
(Rājagaha), Ba-la-nại (Bārānasi), Ca-duy-la-vệ
(Kapilavatthu). Bản Pāli kể hơi khác, thay Bệ-xa-ly và
Ca-duy-la-vệ bằng Sāketa và Kosambī.
[06] Câu-thi vương
thành. Pāli: Kūsavati. No.1 (2) Câu-xá-bà-đề.
[07] Đa-la thọ.
Pāli: tāla, một giống cây cọ, tên khoa học Borassus
flabelliformis.
[08] Hán: đặng; bản
Tống: tranh. Có lẽ là.
[09] Hán: câu lan,
lan can theo hình thế nhà, cao thấp, quanh co (Từ nguyên).
Pāli không đề cập chi tiết nay, nhưng từ Pāli tương đương là
vedikā: lan can, lan thuẫn hay câu lan.
[10] Các loại hoa:
hoa Tu-ma-na(Pāli: sumanā, thiện ý), loại hoa lài cánh lớn;
hoa Bà-sư (vassikā: hạ sinh hoa), một loại hoa lài rất thơm
(Jasminum Sambac); hoa Chiêm-bặc (campaka: tố hinh hoa), hoa
Chăm-pa, rất thơm, có màu trắng và vàng; hoa Tu-kiện-đề
(sogandhika: hảo hương), thụy liên trắng, súng trắng; hoa
Ma-đầu-kiện-đề (madhu-gandhika: mật hương); hoa
A-đề-mâu-đa(adhimuttaka: tăng thượng tín), hoa Ba-la-đầu.
[11] Hán: bạc lạc
cổ, không rõ loại trống gì.
[12] Hán: kỹ cổ.
[13] Đại Thiện
Kiến. Pāli: Mahāsudassana.
[14] Kiềm-bà-la
bảo, vải lông, áo lông.
[15] Tác dĩ bất
tác. Những người thợ (làm và không làm)?
[16] Đa-la viên.
Pāli: Tālavana.
[17] Bốn phạm thất
hay phạm trụ. Pāli: cattāri brahmavihārā. Cũng thường nói là
bốn Vô lượng tâm. Pāli: catasso appamaññāyo.
[18] Ni-liên-nhiên,
Pāli: Nerañjarā, con sông gần chỗ Phật thành đạo. Đây chính
xác phải là Hiraññāvati, âm là Hê (hay hi) -liên-thiền(hay),
con sông gần chỗ Phật nhập Niết-bàn.
[19] Bà-cầu. Pāli:
Kakutthā, con sông gần Kusinārā. Đức Phật tắm tại đây trước
khi đến Kusinārā để nhập Niết-bàn.