- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 07. PHẨM TRƯỜNG THỌ VƯƠNG
-
-
Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Đức Phật du hóa tại Câu-xá-di[02],
trong vườn Cù-sư-la[03].
Bấy giờ các Tỳ-kheo ở Câu-xá-di đã nhiều lần cãi vã nhau. Do
đó Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo ở Câu-xá-di rằng:
-
- “Này các Tỳ-kheo, các ngươi chớ cãi vã nhau. Vì sao?
-
Nếu lấy tranh dứt tranh[04],
-
Đời nào dứt cho xong.
-
Nhẫn nhục dứt hận thù,
-
Đó là pháp tối thượng[05].
-
“Vì sao? Này các Tỳ-kheo, thuở xưa có vua nước Câu-sa-la,
tên là Trường Thọ[06].
Lại có vua nước Gia-xá tên là Phạm-ma-đạt-đa[07].
Hai vị quốc vương này đã nhiều lần gây chiến với nhau. Rồi
quốc vương Phạm-ma-đạt-đa dấy quân với bốn loại quân là
tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân. Sau khi dấy quân,
vua Phạm-ma-đạt-đa đích thân kéo quân đi muốn gây chiến với
vua Trường Thọ, nước Câu-sa-la.
-
“Vua Trường Thọ nước Câu-sa-la nghe tin vua Phạm-ma-đạt-đa
nước Gia-xá vừa dấy quân với bốn loại quân là tượng quân, mã
quân, xa quân và bộ quân. Sau khi bổ sung quân số cho bốn
loại quân ấy, lại muốn giao chiến với mình, vua Trường Thọ
nước Câu-sa-la nghe vậy cũng dấy quân với bốn loại quân là
tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân. Sau khi dấy bốn
loại quân, vua Trường Thọ nước Câu-sa-la đích thân xuất quân
dẫn đến tận biên giới, dàn trận giao chiến, tức thời đánh
tan quân đối phương. Bấy giờ vua Trường Thọ nước Câu-sa-la
bắt trọn bốn loại quân của Phạm-ma-đạt-đa là tượng quân, mã
quân xa quân và bộ quân, lại bắt sống vua Phạm-ma-đạt-đa
nước Gia-xá. Bắt được liền phóng thích và nói với
Phạm-ma-đạt-đa rằng:
-
“– Ông là nạn nhân cùng đường, nay ta tha cho, sau này chớ
gây chiến nữa”.
-
“Vua Phạm-ma-đạt-đa, nước Gia-xá lại ba lần dấy quân với bốn
loại quân là tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân. Sau
mỗi lần dấy quân với bốn loại quân, lại đích thân dẫn quân
qua gây chiến với vua Trường Thọ, nước Câu-sa-la.
-
“Vua Trường Thọ nước Câu-sa-la nghe tin vua Phạm-ma-đạt-đa
nước Gia-xá vừa dấy quân với bốn loại quân là tượng quân, mã
quân, xa quân và bộ quân. Sau khi dấy quân, lại kéo đến gây
chiến với mình. vua Trường Thọ nghe tin như vậy liền nghĩ:
‘Ta đánh bại nó, cần gì đánh bại nữa. Ta đã hàng phục nó, nó
đâu đủ sức để hàng phục ta. Ta đã hại nó, cần gì phải hại
nữa. Ta chỉ cần với một cây cung không cũng đủ hàng phục
nó’.
-
“Vua Trường Thọ, nước Câu-sa-la nghĩ như thế nên an nhiên
không cần dấy quân với bốn loại quân là tượng quân, mã quân,
xa quân và bộ quân, và tự mình cũng không ra mặt trận.
-
“Bấy giờ, vua Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá tiến quân đánh phá,
bắt trọn bốn loại quân của vua Trường Thọ nước Câu-sa-la là
tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân. Vua Trường Thọ nghe
tin Phạm-ma-đạt-đa vua nước Gia-xá đã tiến quân bắt trọn bốn
loại quân của mình là tượng quân, mã quân, xa quân và bộ
quân, lại nghĩ rằng: ‘Chiến tranh là kỳ quái, chiến tranh là
tàn bạo. Vì sao? Vì chiến thắng sẽ bị chiến thắng; chế phục
sẽ bị chế phục; tàn hại sẽ bị tàn hại. Vậy ta nay hãy đơn
thân dẫn một người vợ cùng đi một cỗ xe, chạy đến
Ba-la-nại’.
-
“Rồi vua Trường Thọ nước Câu-sa-la đơn thân dẫn một người vợ
cùng đi trên một cỗ xe, chạy đến Ba-la-nại. Vua Trường Thọ
lại nghĩ: ‘Ta nay có lẽ nên từ thôn này qua thôn kia, từ ấp
này qua ấp nọ để cầu học rộng nghe nhiều’. Nghĩ vậy, vua
Trường Thọ liền từ thôn này qua thôn khác, từ ấp này qua ấp
nọ cầu học rộng nghe nhiều. Vì học rộng nghe nhiều nên vua
đổi tên là Trường Thọ Bác sĩ.
-
“Trường Thọ Bác sĩ lại nghĩ: ‘Những gì đáng học ta đã học
rồi. Ta nên vào đô ấp Ba-la-nại, đến ở đường này hẻm kia với
vẻ mặt tươi cười, tấu lên âm thanh vi diệu. Như vậy, các nhà
hào quý ở Ba-la-nại nghe được sẽ vô cùng hoan hỷ và thấy vui
thích’. Nghĩ xong, Trường Thọ Bác sĩ vào đô ấp Ba-la-nại,
đứng ở đường này hẻm nọ với vẻ mặt tươi cười, tấu lên âm
thanh vi diệu nên các nhà hào quý ở Ba-la-nại nghe được đều
rất hoan hỷ và lấy làm thỏa thích.
-
“Lúc ấy, các quyến thuộc của vua Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá,
từ quyến thuộc ngoài xa đến quyến thuộc ở giữa, rồi đến
quyến thuộc bên trong và đến Phạm chí quốc sư, tất cả đều
nghe. Khi được nghe, Phạm chí quốc sư cho gọi Trường Thọ Bác
sĩ đến diện kiến.
- “Bấy giờ
Trường Thọ Bác sĩ đi đến chỗ Phạm chí quốc sư, đứng quay mặt
về phía quốc sư, với vẻ mặt vui tươi, tấu lên âm thanh vi
diệu. Sau khi nghe, Phạm chí quốc sư rất hoan hỷ và lấy làm
thỏa thích. Phạm chí quốc sư nói với Trường Thọ Bác sĩ:
-
“– Từ nay ông có thể nương tựa vào ta. Ta sẽ cung cấp cho
đầy đủ.
-
“Trường Thọ Bác sĩ thưa rằng:
-
“– Thưa Tôn giả, tôi còn có một người vợ, phải làm thế nào?
-
“Phạm chí quốc sư nói với Bác sĩ:
-
“– Bác sĩ, ông có thể đem đến ở nhà ta. Ta sẽ cung cấp cho
đầy đủ.
-
“Thế rồi Trường Thọ Bác sĩ dẫn vợ mình đến trú tại nhà Phạm
chí quốc sư. Phạm chí quốc sư liền chu cấp đầy đủ.
-
“Một thời gian sau, vợ của Trường Thọ Bác sĩ trong lòng rầu
rĩ[08]
nghĩ rằng: ‘Ước gì có bốn loại quân trận với lớp lớp tấm
thuẫn[09],
tuốt gươm sáng loáng, từ từ đi qua. Ta muốn xem khắp và cũng
muốn uống nước mài gươm đao’.
-
“Vợ của Trường Thọ Bác sĩ nghĩ như vậy rồi, liền nói với
Trường Thọ Bác sĩ rằng:
-
“– Tôi cảm thấy trong lòng rầu rĩ, đang nghĩ thế này: ‘Ước
gì có bốn loại quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm
sáng loáng từ từ đi qua. Ta muốn xem cùng khắp, lại cũng
muốn uống nước mài dao.’
-
“Trường Thọ Bác sĩ nói với vợ rằng:
-
“– Khanh chớ nghĩ như vậy. Vì sao? Chúng ta đã bị vua
Phạm-ma-đạt-đa đánh bại, khanh nhờ đâu mà thấy được bốn loại
quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ
đi qua để khanh xem cùng khắp và khanh lại được uống nước
mài dao?
-
“Bà vợ lại nói:
-
“– Thưa tôn quân, nếu được như thế thì tôi còn hy vọng sống.
Nếu không, chắc chắn phải chết chớ không có gì nghi ngờ nữa[10]
- “Trường Thọ
Bác sĩ liền đến chỗ Phạm chí quốc sư, đứng quay mặt về phía
quốc sư, vẻ mặt sầu thảm, bằng tiếng nói ai oán mà tấu lên
các khúc nhạc. Phạm chí quốc sư nghe mà không được hoan hỷ.
Bấy giờ Phạm chí quốc sư hỏi rằng:
- “– Này Bác
sĩ, trước kia, ông đứng quay mặt về phía ta, với vẻ mặt vui
tươi mà tấu lên âm thanh vi diệu. Nghe xong ta rất hoan hỷ,
lấy làm vui thích. Nay ông vì sao lại đứng quay về phía ta
với vẻ mặt sầu thảm, bằng âm thanh ai oán mà tấu lên khúc
nhạc, ta nghe không được hoan hỷ. Này Trường Thọ Bác sĩ,
thân ông không bệnh hoạn, ý ông không sầu não chứ?
- “Trường Thọ
Bác sĩ thưa:
- “– Thưa Tôn
giả, thân tôi không bệnh hoạn nhưng ý tôi sầu não. Tôn giả,
vợ tôi trong lòng rầu rĩ, đã nghĩ thế này: ‘Ta muốn bốn loại
quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ
đi qua. Ta muốn xem cùng khắp, lại cũng muốn uống nước mài
dao’. Tôi liền bảo rằng: ‘Khanh chớ nghĩ như thế. Vì sao? Ta
nay thế này, khanh nhờ đâu mà đượïc bốn loại quân trận với
lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ đi qua để
khanh xem cùng khắp và lại cũng được uống nước mài dao?’ Vợ
tôi lại nói rằng: ‘Thưa tôn quân, nếu được như thế thì tôi
còn hy vọng sống. Nếu không thì chắc chắn sẽ chết, không
nghi ngờ gì nữa’. Thưa Tôn giả, nếu vợ tôi mà không toàn
mạng thì sao nỡ!
- “Phạm chí
quốc sư bảo rằng:
- “– Này Bác
sĩ, vợ ông, ta có thể gặp được không?
- “– Thưa Tôn
giả, có thể được.
- “Thế rồi Phạm
chí quốc sư cùng với Trường Thọ Bác sĩ đi đến chỗ bà vợ của
Bác sĩ. Bấy giờ vợ của Trường Thọ Bác sĩ mang thai đứa con
có đức. Phạm chí quốc sư thấy vợ của Trường Thọ Bác sĩ mang
thai đứa con có đức nên quỳ gối bên phải xuống đất, chắp tay
hướng về phía vợ của Bác sĩ khen ba lần rằng:
- “– Sẽ sanh
vua nước Câu-sa-la. Sẽ sanh vua nước Câu-sa-la.
- “Rồi lại ra
lệnh cho tả hữu không ai được phép tiết lộ cho người ngoài
biết.
- “Phạm chí
quốc sư nói tiếp:
- “– Này Bác
sĩ, ông chớ ưu sầu. Ta sẽ cho vợ ông được thấy bốn loại quân
trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ đi
qua và cũng được uống nước mài dao.
- “Rồi Phạm chí
quốc sư đi đến chỗ Phạm-ma-đạt-đa, vua nước Gia-xá, thưa
rằng:
- “– Tâu Thiên
vương, nên biết cho rằng, có vì sao hữu đức xuất hiện. Mong
Thiên vương cho dàn bốn loại quân trận với lớp lớp tấm
thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ diễn hành và biểu dương
quân uy bằng nước mài dao. Mong Thiên vương đích thân thị
sát. Tâu Thiên vương, nếu làm được như vậy thì chắc chắn có
báo ứng tốt.
- “Vua
Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá liền ra lệnh cho tướng quân:
- “– Các khanh
nên biết, có vì sao hữu đức xuất hiện, các khanh hãy tức
khắc dàn bốn loại quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm
sáng loáng từ từ diễn hành, biểu dương quân uy bằng nước mài
dao. Ta sẽ đích thân quan sát. Nếu làm được như vậy thì chắc
chắc có báo ứng tốt.
- “Bấy giờ
tướng quân tuân lệnh vua, dàn bốn loại quân trận với lớp lớp
tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ diễn hành, biểu dương
quân uy bằng nước mài dao. Vua Phạm-ma-đạt-đa liền đích thân
thị sát. Nhờ đó, vợ của Trường Thọ Bác sĩ thấy được bốn loại
quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ
đi qua để biểu dương và cũng được uống nước mài dao. Sau khi
uống nước mài dao, lòng sầu muộn liền tiêu, tiếp đến hạ sanh
người con có đức, đặt tên tự là Trường Sanh Đồng tử[11],
gởi cho người khác bí mật nuôi nấng và lần hồi lớn khôn.
- “Nếu có các
vị vua Sát-lợi Đảnh Sanh chỉnh trị thiên hạ với một quốc độ
lớn, có đủ các tài nghệ như cỡi voi, chế ngự, dong xe, chơi
bắn cung, đánh bằng tay, ném dây, ném móc câu, dong xe, ngồi
kiệu, các thứ tài nghệ tuyệt diệu như thế, Trường Sanh Đồng
tử đều biết đầy đủû. Với tất cả các loại xảo diệu nào, nếu
đụng đến là vượt hẳn mọi người, dũng mãnh và cương nghị hơn
đời, thông minh xuất chúng. Bao nhiêu điều bí ẩn sâu xa,
không có điều gì là không thông suốt tinh tường.
- “Lúc ấy,
Phạm-ma-đạt-đa nghe tin Trường Thọ vua nước Câu-sa-la đổi
tên là Bác sĩ và đang ở tại Ba-la-nại liền ra lệnh cho tả
hữu:
- “– Các khanh
hãy cấp tốc đến bắt Trường Thọ, vua nước Câu-sa-la, trói
thúc ké hai tay, bỏ lên lừa chở đi, đánh trống lớn tiếng như
tiếng lừa kêu, tuyên bố cho khắp nơi biết rồi dẫn ra khỏi
cửa thành hướng Nam, bắt ngồi dưới cây nêu cao mà cật vấn.
- “Cận thần tả
hữu vâng lệnh, liền đến bắt Trường Thọ, vua nước Câu-sa-la,
trói hai tay ra đằng sau, bỏ lên lừa chở đi, đánh trống lớn
tiếng như lừa kêu, tuyên bố cho khắp nơi biết rồi dẫn ra cửa
thành phía Nam, bắt ngồi dưới cây nêu cao rồi cật vấn. Lúc
ấy, Trường Sanh Đồng tử đi theo cha, lúc bên tả, lúc bên
hữu, thưa với cha rằng:
- “– Thiên
vương chớ sợ. Thiên vương chớ sợ! Con ở đây, chắc chắn cứu
được, chắc chắn cứu được.
- “Trường Thọ
vua nước Câu-sa-la bảo con:
- “– Đồng tử
nên nhẫn, Đồng tử nên nhẫn! Chớ khởi oán kết mà phải thực
hành nhân từ.
- “Mọi người
nghe vua Trường Thọ nói như vậy liền hỏi:
- “– Như vậy
nhà vua muốn nói những gì?
- “Nhà vua nói:
- “– Đồng tử
này thông minh, chắc chắn hiểu lời ta nói.
- “Thế rồi
Trường Sanh Đồng tử khuyên những người hào quý trong thành
Ba-la-nại rằng:
- “– Chư vị,
hãy bố thí tu phước mà chú nguyện cho vua Trường Thọ nước
Câu-sa-la. Đem phước thí ấy cầu nguyện cho vua Trường Thọ
nước Câu-sa-la được an ổn, giải thoát.
- “Bấy giờ các
nhà hào quý trong thành Ba-la-nại, theo lời khuyến khích của
Trường Sanh Đồng tử, bố thí, tu phước, chú nguyện cho vua
Trường Thọ nước Câu-sa-la, đem phước thí ấy cầu nguyện cho
vua Trường Thọ an ổn giải thoát.
- “Vua
Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá nghe các nhà hào quý trong thành
Ba-la-nại này bố thí, tu phước, chú nguyện cho vua Trường
Thọ nước Câu-sa-la, đem phước thí ấy cầu nguyện cho vua
Trường Thọ được an ổn, giải thoát thì vô cùng sợ hãi, tóc
lông dựng đứng, nghĩ rằng: ‘Mong những nhà hào quý trong
thành Ba-la-nại này không phản lại ta chăng? Nhưng hãy gác
lại việc kia, nay ta trước hết phải cấp tốc tiêu diệt sự
việc này’.
- “Rồi vua
Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá hạ lệnh cho tả hữu:
- “– Các khanh
hãy cấp tốc đi giết vua Trường Thọ nước Câu-sa-la, chặt ra
làm bảy đoạn.
- “Cận thần tả
hữu vâng lệnh, liền đi giết vua Trường Thọ, chặt thành bảy
đoạn. Bấy giờ Trường Sanh Đồng tử nói với các nhà hào quý
trong thành Ba-la-nại rằng:
- “– Các vị xem
đấy, vua nước Gia-xá Phạm-ma-đạt-đa tàn ác vô đạo. Nó chặt
cha ta, vua Trường Thọ nước Câu-sa-la là người vô tội. Nó
cướp đoạt kho tàng, tài sản của nước ta. Vì thù hận cay độc
mà giết người, chặt thành bảy đoạn một cách oan uổng. Các vị
nên đến dùng lụa mới, quấn nhiều lớp, bọc kín thi hài bảy
đoạn, liệm cho cha ta; dùng tất cả các cây hương thơm chất
đống để hỏa táng và lập miếu đường để thờ. Phải vì cha ta mà
gởi thơ cho Phạm-ma-đạt-đa, nói rằng, Trường Sanh Đồng tử
con vua nước Câu-sa-la báo cho vua biết, ngươi không sợ sau
này con cháu gieo họa cho chăng?’
- “Rồi thì
những nhà hào quý ở thành Ba-la-nại theo lời khuyên của
Trường Sanh Đồng tử, dùng lụa mới xếp nhiều lớp liệm lấy thi
hài bảy đoạn ấy, dùng các loại hương thơm chất đống hỏa táng
rồi lập miếu mà thờ, và cũng viết thơ gởi cho
Phạm-ma-đạt-đa, nói rằng: ‘Trường Sanh Đồng tử, con vua nước
Câu-sa-la bảo rằng, ngươi không sợ sau này bị con cháu gieo
họa cho chăng?’
- “Bấy giờ vợ
của vua Trường Thọ nói với Trường Sanh Đồng tử:
- “– Con nên
biết, vua nước Gia-xá là Phạm-ma-đạt-đa, là kẻ tàn bạo, vô
đạo, bắt cha con là vua Trường Thọ nước Câu-sa-la là người
vô tội, cướp đoạt kho tàng, tài sản của nước con, lại vì thù
hận cay độc giết người, chặt ra bảy đoạn một cách oan uổng.
Này Đồng tử, con hãy đến đây cùng ta, dong một chiếc xe chạy
ra khỏi Ba-la-nại này. Nếu không đi thì tai họa sẽ đến với
con.
- “– Thế rồi vợ
của Trường Thọ cùng với Đồng tử cùng dong một chiếc xe chạy
ra khỏi Ba-la-nại. Bấy giờ Trường Sanh Đồng tử nghĩ rằng:
‘Ta nên đến thôn này, qua thôn kia để cầu học rộng nghe
nhiều’.
- “Nghĩ xong,
Trường Sanh Đồng tử liền đi từ thôn này qua thôn nọ để cầu
học rộng nghe nhiều. Vì học rộng nghe nhiều, nên đổi tên
khác là Trường Sanh Bác sĩ.
- “Trường Sanh
Bác sĩ lại nghĩ: ‘Điều cầu học ta đã học xong, có lẽ ta nên
vào đô ấp Ba-la-nại, đứng ở đường này hẻm nọ với vẻ mặt tươi
cười, tấu lên âm thanh vi diệu. Như vậy các nhà hào quý ở
Ba-la-nại nghe được sẽ hoan hỷ và cảm thấy vui thích’.
- “Nghĩ vậy,
Trường Sanh Bác sĩ liền vào đô ấp Ba-la-nại đứng ở đường này
hẻm nọ với vẻ mặt vui tươi, tấu lên âm thanh vi diệu. Các
nhà hào quý ở Ba-la-nại nghe được, hoan hỷ vô cùng và cảm
thấy vui thích.
- “Bấy giờ các
quyến thuộc của vua Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá, từ quyến
thuộc ngoài xa đến quyến thuộc khoảng giữa và quyến thuộc
bên trong, Phạm chí quốc sư, lần hồi thấu đến tai vua
Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá. Sau khi nghe đến, vua liền gọi
vào diện kiến.
- “Thế rồi
Trường Sanh Bác sĩ đi đến chỗ vua Phạm-ma-đạt-đa nước
Gia-xá, đứng quay về phía nhà vua với vẻ mặt tươi cười, tấu
lên bằng âm thanh vi diệu. Vua Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá
nghe như thế hoan hỷ vô cùng, lấy làm vui thích, rồi vua
Phạm-ma-đạt-đa nói với Bác sĩ rằng:
- “– Khanh từ
nay có thể nương tựa vào ta. Ta sẽ cung cấp cho đầy đủ.
- “Khi ấy,
Trường Sanh Bác sĩ nương tựa vào nhà vua và được cung cấp
đầy đủ. Về sau nhà vua lại hết lòng tín nhiệm, giao phó công
việc, đem kiếm hộ thân trao cho Trường Sanh Bác sĩ.
- “Bấy giờ vua
Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá bảo người đánh xe:
- “– Ngươi hãy
sửa soạn xa giá. Ta muốn đi săn bắn.
- “Người đánh
xe vâng lời, sửa soạn xa giá xong, trở lại tâu rằng:
- “– Con đã sửa
soạn xa giá xong, xin theo ý Thiên vương.
- “Thế rồi vua
Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá và Trường Sanh Bác sĩ cùng ngồi
vào cỗ xe ra đi. Trường Sanh Bác sĩ nghĩ rằng:
‘Phạm-ma-đạt-đa vua nước Gia-xá tàn bạo, vô đạo. Nó bắt cha
ta là vua Trường Thọ nước Câu-sa-la là người vô tội, lại
cướp đoạt kho tàng, tài sản của ta, và vì thù hận cay độc mà
giết người, chặt ra bảy đoạn một cách oan uổng. Ta nay nên
đánh xe tách ra khỏi bốn loại quân, đi đến một nơi khác’.
- “Bấy giờ vua
Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá vì vất vả trải qua con đường lầy
lội, gió nóng bức bách nên cảm thấy khát nước, mệt nhọc quá
đổi, muốn nằm, liền xuống xe, gối vào đầu gối của Trường
Sanh Bác sĩ mà ngủ. Trường Sanh Bác sĩ nghĩ rằng:
‘Phạm-ma-đạt-đa vua nước Gia-xá này vô đạo, tàn bạo. Nó bắt
cha ta là vua Trường Thọ nước Câu-sa-la là người vô tội, lại
cướp đoạt kho tàng, tài sản của nước ta và vì thù hận cay
độc mà giết người chặt ra bảy đoạn một cách oan uổng. Thế mà
ngày nay nó đã nằm trong tay ta, ta phải báo oán’. Trường
Sanh Bác sĩ nghĩ như vậy, liền tuốt gươm báu, dí vào cổ
Phạm-ma-đạt-đa vua nước Gia-xá mà nói rằng:
- “– Nay ta
giết ngươi! Nay ta giết ngươi!
- “Trường Sanh
Bác sĩ lại nghĩ: ‘Ta không làm đúng. Vì sao? Nhớ lại ngày
trước, ngồi dưới cây nêu cao, vào phút sắp lâm chung, cha ta
đã bảo ta rằng: ‘Đồng tử hãy nhẫn, Đồng tử hãy nhẫn. Chớ
khởi oán kết mà phải thực hành nhân từ’.’ Nhớ lại như vậy,
Bác sĩ bèn thu gươm, tra vào vỏ.
- “Trong lúc
đó, vua Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá mộng thấy Trường Sanh
Đồng tử, con vua Trường Thọ nước Câu-sa-la tay cầm gươm bén
dí vào cổ mình mà nói rằng: ‘Nay ta giết ngươi! Nay ta giết
ngươi’. Thấy vậy, vua sợ hãi, tóc lông dựng đứng, liền kinh
hoàng chợt tỉnh, nói với Trường Sanh Bác sĩ:
- “– Ngươi nay
nên biết, ta ở trong mộng, thấy Trường Sanh Đồng tử, con vua
Trường Thọ nước Câu-sa-la tay cầm kiếm bén dí vào cổ ta, nói
rằng: ‘Nay ta giết ngươi! Nay ta giết ngươi!’ Nghe xong,
Trường Sanh Đồng tử thưa rằng:
- “– Thiên
vương chớ sợ. Thiên vương chớ sợ. Vì sao? Trường Sanh Đồng
tử, con vua Trường Thọ nước Câu-sa-la chính là thần đây.
Thiên vương, thần nghĩ rằng: ‘Phạm-ma-đạt-đa, vua nước
Gia-xá tàn bạo, vô đạo, bắt cha ta, một người vô tội, lại
cướp đoạt kho tàng, tài sản của nước ta, và vì thù hận cay
độc mà giết cha ta, chặt người ra làm bảy đoạn một cách oan
uổng, mà nay chính nó đã nằm trong tay ta, ta nghĩ phải báo
oán’. Tâu Thiên vương, thần liền rút gươm dí vào cổ Thiên
vương mà nói rằng: ‘Nay ta giết ngươi! Nay ta giết ngươi!’
Thiên vương, thần lại nghĩ: ‘Ta làm không đúng. Vì sao? Nhớ
ngày trước, ngồi dưới cây nêu cao, vào phút sắp lâm chung,
cha ta đã bảo rằng: ‘Đồng tử hãy nhẫn, Đồng tử hãy nhẫn! Chớ
khởi oán kết mà phải thực hành nhân từ’.’ Nhớ lại như vậy
nên thần thu gươm tra vào vỏ’.
- “Vua
Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá nói rằng:
- “– Này Đồng
tử, khanh nói rằng: ‘Đồng tử hãy nhẫn, Đồng tử hãy nhẫn”, ta
đã rõ nghĩa ấy. Nhưng Đồng tử lại nói: ‘Chớ khởi oán kết, mà
phải thực hành nhân từ’, là nghĩa thế nào?
- “Trường Sanh
Đồng tử đáp:
- “– Tâu Thiên
vương, chớ khởi oán kết mà phải thực hành nhân từ, chính là
việc làm này vậy.
- “Nghe xong,
vua Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá nói rằng:
- “– Này Đồng
tử, từ ngày hôm nay ta đem đất nước mà ta đang chỉnh lãnh
trao hết cho khanh. Vì sao? Vì khanh đã làm một việc quá khó
là đã ban ân huệ cho mạng sống của ta.
- “Trường Sanh
Đồng tử nghe vậy liền thưa:
- “– Bổn quốc
của Thiên vương thì thuộc về Thiên vương. Bổn quốc của thân
phụ hạ thần thì mới có thể giao hoàn lại cho hạ thần.
- “Bấy giờ, vua
Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá cùng với Trường Sanh Đồng tử lên
xe trở về, vào thành Ba-la-nại, ngồi trên chánh điện, vua
bảo các cận thần:
- “– Này các
khanh, nếu bắt gặp Trường Sanh Đồng tử, con vua Trường Thọ
nước Câu-sa-la thì các khanh sẽ xử sự như thế nào?
- “Cận thần
nghe vậy, có người tâu rằng:
- “– Tâu thiên
vương, nếu bắt gặp nó thì sẽ chặt tay.
- “Có người lại
tâu:
- “– Tâu Thiên
vương, nếu bắt gặp nó thì chặt chân.
- “Có người
tâu:
- “– Tâu Thiên
vương, nếu bắt gặp nó thì giết.
- “Vua
Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá nói rằng:
- “– Các khanh,
muốn gặp Trường Sanh Đồng tử, con vua Trường Thọ nước
Câu-sa-la thì ở đây này. Các khanh chớ khởi ác ý với Đồng tử
này. Vì sao? Vì Đồng tử đã làm một việc rất khó là đã tha
mạng sống cho ta.
- “Thế rồi vua
Phạm-ma-đạt-đa nước Gia-xá dùng nước tắm của vua tắm gội cho
Trường Sanh Đồng tử, cho thoa bằng bột hương của vua, cho
mặc y phục của vua, mời ngồi lên ngự sàng bằng vàng, đích
thân vua Phạm-ma-đạt-đa và vợ con trở về bổn quốc.
- “Này Tỳ-kheo,
các quốc vương Sát-lợi Đảnh Sanh ấy làm chủ đại quốc, chỉnh
trị thiên hạ mà tự thực hành hạnh nhẫn nhục; tự thực hành từ
tâm, lại xưng tán từ tâm; tự ban ân huệ, lại xưng tán ân
huệ. Này chư Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo cũng nên làm như vậy, chí
tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo;
nên thực hành hạnh nhẫn nhục, lại xưng tán nhẫn nhục; tự
thực hành từ tâm, lại xưng tán từ tâm; tự ban ân huệ, lại
xưng tán ân huệ”.
- “Bấy giờ các
Tỳ-kheo nghe Đức Phật thuyết như vậy, có vị bạch rằng:
- “Thế Tôn là
Pháp chủ. Nay mong Thế Tôn cứ ở yên vậy. Vị ấy nói hành con,
con làm sao không nói hành vị ấy được[12]“.
Lúc đó, Đức Thế Tôn không vui vì việc làm của các Tỳ-kheo
Câu-xá-di, với những oai nghi, lễ tiết mà họ đã học, đã tập.
Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy, nói bài kệ tụng:
- Với bao
nhiêu lời nói,
- Phá hoại
chúng tối tôn.
- Khi phá
hoại Thánh Chúng,
- Không ai
can dứt nổi.
- Nát thân
và mất mạng,
- Kẻ cướp
đoạt ngựa trâu,
- Tài sản,
và quốc gia,
- Họ còn hay
hòa thuận;
- Huống
ngươi vài tiếng cãi
- Sao không
chịu thuận hòa?
- Không suy
chân nghĩa xa,
- Oán kết
làm sao giải?
- Mạ lỵ,
trách nhau mãi
- Mà biết
chế, thuận hòa;
- Nếu suy
chân nghĩa xa
- Oán kết
tất giải được.
- Thù hận
dứt hận thù,
- Đời nào
dứt cho xong.
- Nhẫn nhục
dứt hận thù,
- Đó là pháp
tối thượng.
- Sân với
bậc thượng trí,
- Nói toàn
lời vô lại,
- Phỉ báng
Thánh Mâu-ni,
- Thấp hèn
không chút tuệ.
- Người khác
không rõ nghĩa,
- Riêng ta
biết mà thôi.
- Người rõ
nghĩa là ai?
- Người này
dứt sân nhuế.
- Ai đắc
định làm bạn,
- Kẻ trí,
thiện cùng tu;
- Xả ý chấp
xưa kia
- Hoan hỷ
thường theo đến.
- Không đắc
định làm bạn,
- Kẻ trí
thiện riêng tu;
- Như vua
nghiêm trị nước;
- Như voi lẻ
rừng vắng.
- Độc hành,
chớ làm ác,
- Như voi lẻ
rừng vắng.
- Độc hành
trên nẻo cao,
- Đừng hội
kẻ vô đức.
- Học:
“Không gặp bạn tốt,
- Không cùng
ai ngang mình;
- Hãy cô độc
chuyên tinh
- Đừng hội
kẻ vô đức.”[13]
- Lúc Đức Thế
Tôn thuyết bài tụng này xong, Ngài dùng như ý túc cỡi hư
không mà đi đến thôn Bà-la-lâu-la[14].
Ở thôn Bà-la-lâu-la có Tôn giả Bà-cửu Thích Gia Tử[15],
ngày đêm không ngủ, tinh cần hành đạo, chí thành thường định
tĩnh, an trú trong đạo phẩm. Tôn giả Thích Gia Tử từ xa
trông thấy Đức Thế Tôn đi đến, khi đã trông thấy liền nghinh
tiếp, đỡ lấy y bát của Ngài, trải giường, múc nước rửa chân.
Đức Phật rửa chân xong, Ngài lên chỗ ngồi của Thích Gia Tử
Bà-cửu. Ngồi xong, Ngài nói:
- “Tỳ-kheo
Bà-cửu, ngươi thường an ổn, không hề thiếu thốn chăng?”
- Tôn giả
Bà-cửu trả lời:
- “Bạch Thế
Tôn, con thường an ổn, không có thiếu thốn”.
- Đức Thế Tôn
lại hỏi:
- “Thế nào là
an ổn, không có thiếu thốn?”
- Tôn giả
Bà-cửu đáp:
- “Bạch Thế
Tôn, con ngày đêm không ngủ, tinh tấn hành đạo, chí hành
thường định tĩnh, an ổn vào đạo phẩm. Bạch Thế Tôn, như vậy
con thường an ổn, không có thiếu thốn”.
- Đức Thế Tôn
lại nghĩ: “Thiện nam tử này sống cuộc đời an lạc. Ta nên
thuyết pháp cho y”. Nghĩ vậy, Ngài liền thuyết pháp cho Tôn
giả Bà-cửu, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ.
- Sau khi bằng
vô lượng phương tiện thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng,
thành tựu hoan hỷ cho vị ấy, Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy, đi
đến rừng Hộ tự[16].
Vào rừng Hộ tự, đến dưới gốc cây Ngài trải Ni-sư-đàn ngồi
kiết già. Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nghĩ rằng: “Ta đã thoát
được nhóm Tỳ-kheo ở Câu-xá-di, một nhóm luôn luôn tranh chấp
nhau, chèn ép nhau, thù nghịch nhau, giận hờn nhau, cãi vã
nhau. Ta không hoan hỷ nghĩ đến phương ấy, nơi mà nhóm
Tỳ-kheo Câu-xá-di đang trú”.
- Ngay lúc đó
có một con voi, chúa của đàn voi, tách rời đàn, du hành một
mình, cũng đến rừng Hộ tự. Vào rừng Hộ tự, đến đứng dưới cây
Hiền-sa-la[17].
Khi ấy, voi chúa nghĩ rằng: “Ta đã thoát được bọn voi kia,
voi cha, voi mẹ, voi con lớn nhỏ. Bọn voi ấy thường đi trước
dẫm lên cỏ và làm vấy bẩn nước. Ta bấy giờ ăn cỏ bị dẫm đạp
ấy, uống nước vẫn đục kia. Ta nay ăn cỏ mới, uống nước
trong”.
- Lúc ấy, Đức
Thế Tôn bằng tha tâm trí biết ý nghĩ trong lòng voi lớn kia,
liền nói bài tụng:
- Một voi
với đàn voi,
- Cũng vóc,
ngà, chân đủ.
- Tâm này
như tâm kia,
- Rừng sâu
vui độc trú.
- Khi ấy, Đức
Thế Tôn từ rừng Hộ tự mang y cầm bát đi đến rừng
Ban-na-mạn-xà-tự[18].
Bấy giờ có ba thiện nam tử trú trong rừng Ban-na-mạn-xà-tự,
là: Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Nan-đề, Tôn giả Kim-tì-la[19].
Các Tôn giả ấy sống như vầy: Nếu ai khất thực trở về trước,
thì trải giường, múc nước để rửa chân, để sẵn chậu, đặt sẵn
đòn rửa chân và khăn lau chân, lu nước uống. Nếu những gì
khất thực có thể dùng hết thì dùng hết, nếu còn dư thì đổ
vào hủ đậy kín cất. Ăn xong, dọn bát, cất, rửa tay chân, lấy
Ni-sư-đàn vắt lên vai, vào thất tĩnh tọa. Ai khất thực về
sau, nếu dùng hết thì dùng, nếu thiếu thì lấy đồ ăn khất
thực được của người trước dùng cho đủ. Nếu dư thì đổ vào đất
sạch hay nước không có trùng, rồi đem bình bát rửa sạch, lau
khô và cất vào một góc, thu dọn giường chiếu, dẹp đòn rửa
chân và lu nước uống, ghè nước rửa tay và quét dọn nhà ăn.
Sau khi tẩy sạch những nhơ nhớp ấy thì thu xếp y bát, rửa
tay chân, lấy Ni-sư-đàn vắt lên vai, vào thất tĩnh tọa. Đến
lúc xế, các Tôn giả ấy, nếu có vị nào từ chỗ tĩnh tọa dậy
trước, thấy lu nước uống và ghè nước rửa tay trống rỗng,
không có nước, thì mang đi lấy. Nếu xách về nổi thì xách đến
để một góc, nếu xách không nổi thì lấy tay vẫy một Tỳ-kheo
nữa, mỗi người khiêng một bên, không ai nói chuyện với nhau.
Các Tôn giả ấy cứ năm ngày tụ tập lại một lần, cùng nhau bàn
về pháp và im lặng theo pháp bậc Thánh.
- Bấy giờ,
người giữ rừng trông thấy Đức Thế Tôn từ xa đi đến, bèn đón
và quở ngăn rằng:
- “Sa-môn!
Sa-môn chớ vào rừng này. Vì sao? Nay trong rừng này có ba
thiện nam tử, đó là Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Nan-đề và
Tôn giả Kim-tì-la. Các vị ấy trông thấy Sa-môn, chắc họ
không vừa ý”.
- Đức Thế Tôn
bảo rằng:
- “Này người
giữ rừng, các vị kia nếu thấy Ta, chắc chắn không có gì
không vừa ý”.
- Ngay lúc đó,
Tôn giả A-na-luật-đà, từ xa trông thấy Đức Thế Tôn đi đến,
liền quở trách người kia:
- “Này người
giữ rừng, chớ ngăn cản Đức Thế Tôn. Này người giữ rừng, chớ
ngăn cản Đức Thiện Thệ đang đi đến. Vì sao? Vì đó là Tôn sư
của tôi đến! Là Đức Thiện Thệ của tôi đến!”
- Tôn giả
A-na-luật-đà ra nghênh đón Đức Thế Tôn, đỡ y bát của Ngài.
Tôn giả Nan-đề trải giường cho Đức Phật. Tôn giả Kim-tì-la
lấy nước cho Ngài. Khi ấy, Đức Thế Tôn sau khi rửa chân
xong, ngồi lên chỗ mà Tôn giả ấy đã trải. Ngồi xong, Ngài
hỏi:
- “Này
A-na-luật-đà, ngươi thường an ổn, không có gì thiếu thốn
chăng?
- Tôn giả
A-na-luật-đà đáp:
- “Bạch Thế
Tôn, con thường an ổn, không có gì thiếu thốn”.
- Đức Thế Tôn
lại hỏi:
- “Như thế nào
là an ổn, không có gì thiếu thốn?”
- Tôn giả
A-na-luật-đà đáp:
- “Bạch Thế
Tôn, con nghĩ rằng, con có thiện lợi, có đại công đức, nghĩa
là con được cùng tu hành với các vị đồng phạm hạnh như thế.
Bạch Thế Tôn, con thường hướng về các vị đồng phạm hạnh ấy,
thực hành hạnh từ nơi thân nghiệp, trước mặt hay vắng mặt
đều như nhau; thực hành hạnh từ nơi khẩu nghiệp, hạnh từ nơi
ý nghiệp, trước mặt hay vắng mặt đều như nhau không khác.
Bạch Thế Tôn, con nay có thể tự nghĩ rằng: ‘Tự xả bỏ tâm
con, tùy thuận tâm chư Hiền’. Bạch Thế Tôn, con liền xả bỏ
tâm con, tùy thuận tâm chư Hiền. Bạch Thế Tôn, con chưa từng
có một điều nào là không vừa lòng. Bạch Thế Tôn, con thường
an ổn, không có gì thiếu thốn là như thế”.
- Đức Thế Tôn
hỏi Tôn giả Nan-đề, Tôn giả cũng đáp như thế.
- Đức Thế Tôn
lại hỏi Tôn giả Kim-tì-la:
- “Ngươi thường
an ổn, không có gì thiếu thốn chăng?”
- Tôn giả
Kim-tì-la đáp:
- “Bạch Thế
Tôn, con thường an ổn, không có gì thiếu thốn”.
-
Đức Thế Tôn lại hỏi:
-
“Này Kim-tì-la, thế nào là thường an ổn, không có gì thiếu
thốn?”
- Tôn giả
Kim-tì-la đáp:
- “Bạch Thế
Tôn, con nghĩ rằng, con có thiện lợi, có đại công đức, nghĩa
là con được cùng tu hành với các vị đồng phạm hạnh như thế.
Bạch Thế Tôn, con thường hướng về các vị đồng phạm hạnh ấy,
thực hành hạnh từ nơi thân nghiệp, trước mặt hay vắng mặt
đều như nhau; thực hành hạnh từ nơi khẩu nghiệp, hạnh từ nơi
ý nghiệp, trước mặt hay vắng mặt đều như nhau không khác.
Bạch Thế Tôn, con nay có thể tự nghĩ rằng: ‘Tự xả bỏ tâm
con, tùy thuận tâm chư Hiền’. Bạch Thế Tôn, con liền xả bỏ
tâm con, tùy thuận tâm chư Hiền. Bạch Thế Tôn, con chưa từng
có một điều nào là không vừa lòng. Bạch Thế Tôn, con thường
an ổn, không có gì thiếu thốn là như thế”.
- Đức Thế Tôn
tán thán:
- “Lành thay!
Lành thay! A-na-luật-đà, như thế các ngươi thường cùng nhau
hòa hợp, an lạc, không tranh, cùng hiệp nhất trong một tâm,
một Thầy, như nước với sữa, và có chứng đắc pháp thượng nhân
mà sống an lạc thoải mái chăng[20]?”
- Tôn giả
A-na-luật-đà bạch rằng:
- “Bạch Thế
Tôn, chúng con cùng nhau hòa hợp không tranh, cùng hợp nhất
trong một tâm, chung một Thầy, như nước với sữa, và có chứng
đắc pháp thượng nhân mà sống an lạc thoải mái. Bạch Thế Tôn,
chúng con nhận được ánh sáng liền thấy sắc[21].
Giây lát, sắc được thấy kia và ánh sáng liền biến mất”.[22]
- Đức Thế Tôn
nói:
- “Này
A-na-luật-đà, các ngươi không thấu triệt được tướng ấy;
nghĩa là tướng nhận được ánh sáng mà thấy sắc; giây lát, sắc
được thấy kia và ánh sáng liền biến mất.
- “Này
A-na-luật-đà, thuở xưa lúc Ta chưa đắc đạo giác ngộ vô
thượng chánh chân, cũng nhận được ánh sáng mà thấy sắc. Giây
lát, sắc được thấy kia và ánh sáng liền biến mất.
A-na-luật-đà, Ta nghĩ: ‘Trong tâm Ta có tai hoạn nào khiến
cho Ta mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì ánh
sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc
và ánh sáng ấy liền diệt?’ A-na-luật-đà, Ta hành tinh tấn,
không biếng nhác, thân tĩnh chỉ an trú, có chánh niệm chánh
trí, không có ngu si, được tĩnh chỉ nhất tâm. Này
A-na-luật-đà, Ta nghĩ rằng: ‘Ta hành tinh tấn, không biếng
nhác, tĩnh chỉ nơi thân, có chánh niệm chánh trí, an trú,
không có si, được định tĩnh nhất tâm. Phải chăng trong đời
không có gì[23]
để Ta thấy, để Ta biết chăng?’ Trong tâm Ta sanh tai hoạn về
hoài nghi ấy. Nhân tai hoạn của hoài nghi ấy nên mất định mà
con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà Ta nhận được
để thấy sắc; giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền
diệt. A-na-luật-đà, nay Ta nên nghĩ rằng: ‘Trong tâm Ta
không sanh tai hoạn của hoài nghi’. A-na-luật-đà, vì Ta muốn
không sanh tai hoạn này nên sống cô độc viễn ly, tâm không
phóng dật, tu hành tinh tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa
vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được
ánh sáng mà thấy sắc; giây lát, sắc dược thấy kia và ánh
sáng liền biến mất.
- “Này
A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ: ‘Trong tâm Ta có tai hoạn nào
khiến cho Ta mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì
ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy
sắc và ánh sáng ấy liền diệt?’ A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ:
‘Trong tâm Ta sanh tai hoạn về vô niệm. Nhân tai hoạn của vô
niệm này nên mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì
ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy
sắc và ánh sáng ấy liền diệt’. A-na-luật-đà, Ta nay cần phải
nghĩ rằng: ‘Trong tâm Ta không sanh tai hoạn về hoài nghi,
cũng không sanh tai hoạn về vô niệm’. A-na-luật-đà, Ta muốn
không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa
vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn. Nhân sống cô
độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn
nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh
sáng ấy liền diệt.
- “Này
A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ: ‘Trong tâm Ta có tai hoạn nào
khiến cho Ta mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì
ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy
sắc và ánh sáng ấy liền diệt?’A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ:
‘Trong tâm Ta sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng. Nhân tai
hoạn của thân bệnh tưởng này nên mất định mà con mắt diệt;
con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc,
giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt’.
A-na-luật-đà, Ta nay cần phải nghĩ rằng: ‘Trong tâm Ta không
sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm,
cũng không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng’. A-na-luật-đà,
Ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi
xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn. Nhân sống cô
độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn
nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh
sáng ấy liền diệt.
- “Này
A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ: ‘Trong tâm Ta có tai hoạn nào
khiến cho Ta mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì
ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy
sắc và ánh sáng ấy liền diệt?’A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ:
‘Trong tâm Ta sanh tai hoạn về thụy miên. Nhân tai hoạn của
thụy miên này nên mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi
thì ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được
thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt’. A-na-luật-đà, Ta nay cần
phải nghĩ rằng: ‘Trong tâm Ta không sanh tai hoạn về hoài
nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai hoạn về
thân bệnh tưởng, cũng không sanh tai hoạn về thụy miên’.
A-na-luật-đà, Ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống
cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh
tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật,
tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc
được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.
- “Này
A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ: ‘Trong tâm Ta có tai hoạn nào
khiến cho Ta mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì
ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy
sắc và ánh sáng ấy liền diệt?’A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ:
‘Trong tâm Ta sanh tai hoạn về tinh cần thái quá. Nhân tai
hoạn của tinh cần thái quá này nên mất định mà con mắt diệt;
con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc,
giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt’.
A-na-luật-đà, cũng như lực sĩ bắt con ruồi quá ngặt, con
ruồi liền chết. Cũng vậy, A-na-luật-đà, trong tâm Ta sanh
tai hoạn về tinh cần thái quá. Nhân tai hoạn của tinh cần
thái quá này nên mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi
thì ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được
thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt. A-na-luật-đà, Ta nay cần
phải nghĩ rằng: ‘Trong tâm Ta không sanh tai hoạn về hoài
nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai hoạn về
thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn về thụy miên, cũng
không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá’. A-na-luật-đà, Ta
muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa
vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn. Nhân sống cô
độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn
nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh
sáng ấy liền diệt.
- “Này
A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ: ‘Trong tâm Ta có tai hoạn nào
khiến cho Ta mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì
ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy
sắc và ánh sáng ấy liền diệt?’ A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ:
‘Trong tâm Ta sanh tai hoạn về giải đãi thái quá. Nhân tai
hoạn của giải đãi thái quá này nên mất định mà con mắt diệt;
con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc,
giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt’.
A-na-luật-đà, cũng như lực sĩ bắt con ruồi quá hoãn, con
ruồi bèn bay mất. Cũng vậy, A-na-luật-đà, trong tâm Ta sanh
tai hoạn về giải đãi thái quá. Nhân tai hoạn của giải đãi
thái quá này nên mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi
thì ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được
thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt. A-na-luật-đà, Ta nay cần
phải nghĩ rằng: ‘Trong tâm Ta không sanh tai hoạn về hoài
nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai hoạn về
thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn về thụy miên, không
sanh tai hoạn về tinh cần thái quá, cũng không sanh tai hoạn
về giải đãi thái quá’. A-na-luật-đà, Ta muốn không móng khởi
tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không
phóng dật, tu hành tinh tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa
vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để
thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền
diệt.
- “Này
A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ: ‘Trong tâm Ta có tai hoạn nào
khiến cho Ta mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì
ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy
sắc và ánh sáng ấy liền diệt?’A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ:
‘Trong tâm Ta sanh tai hoạn về sợ hãi. Nhân tai hoạn của sợ
hãi này nên mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì
ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy
sắc và ánh sáng ấy liền diệt’. A-na-luật-đà, cũng như một
người đang đi đường, kẻ thù từ bốn phía kéo đến; người kia
thấy vậy, kinh khủng sợ hãi, toàn thân lông tóc dựng đứng.
Cũng vậy, A-na-luật-đà, trong tâm Ta sanh tai hoạn về sợ
hãi. Nhân tai hoạn của sợ hãi này nên mất định mà con mắt
diệt; con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà Ta nhận được để thấy
sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.
A-na-luật-đà, Ta nay cần phải nghĩ rằng: ‘Trong tâm Ta không
sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm,
không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn
về thụy miên, không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá,
không sanh tai hoạn về giải đãi thái quá, cũng không sanh
tai hoạn về sợ hãi’. A-na-luật-đà, Ta muốn không móng khởi
tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không
phóng dật, tu hành tinh tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa
vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để
thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền
diệt.
- “Này
A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ: ‘Trong tâm Ta có tai hoạn nào
khiến cho Ta mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì
ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy
sắc và ánh sáng ấy liền diệt?’ A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ:
‘Trong tâm Ta sanh tai hoạn về hỷ duyệt. Nhân tai hoạn của
hỷ duyệt này nên mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi
thì ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được
thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt’. A-na-luật-đà, cũng như
người đi tìm một kho báu; bỗng nhiên được cả bốn kho báu;
thấy như vậy rồi, người ấy sanh hỷ duyệt. Cũng vậy,
A-na-luật-đà, trong tâm Ta sanh tai hoạn về hỷ duyệt. Nhân
tai hoạn của hỷ duyệt này nên mất định mà con mắt diệt; con
mắt diệt rồi thì ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây
lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.
A-na-luật-đà, Ta nay cần phải nghĩ rằng: ‘Trong tâm Ta không
sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm,
không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn
về thụy miên, không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá,
không sanh tai hoạn về giải đãi thái quá, không sanh tai
hoạn về sợ hãi, cũng không sanh tai hoạn về hỷ duyệt’.
A-na-luật-đà, Ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống
cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh
tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật,
tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc
được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.
- “Này
A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ: ‘Trong tâm Ta có tai hoạn nào
khiến cho Ta mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì
ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy
sắc và ánh sáng ấy liền diệt?’ A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ:
‘Trong tâm Ta sanh tai hoạn về tâm tự cao. Nhân tai hoạn của
tâm tự cao này nên mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt
rồi thì ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc
được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt’. A-na-luật-đà, Ta
nay cần phải nghĩ rằng: ‘Trong tâm Ta không sanh tai hoạn về
hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai
hoạn về thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn về thụy miên,
không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá, không sanh tai
hoạn về giải đãi thái quá, không sanh tai hoạn về sợ hãi,
không sanh tai hoạn về hỷ duyệt, cũng không sanh tai hoạn về
tâm tự cao’. A-na-luật-đà, Ta muốn không móng khởi tai hoạn
này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu
hành tinh tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không
phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây
lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.
- “Này
A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ: ‘Trong tâm Ta có tai hoạn nào
khiến cho Ta mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì
ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy
sắc và ánh sáng ấy liền diệt?’ A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ:
‘Trong tâm Ta sanh tai hoạn về đa dạng tưởng[24].
Nhân tai hoạn của đa dạng tưởng này nên mất định mà con mắt
diệt; con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà Ta nhận được để thấy
sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt’.
A-na-luật-đà, Ta nay cần phải nghĩ rằng: ‘Trong tâm Ta không
sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm,
không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn
về thụy miên, không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá,
không sanh tai hoạn về giải đãi thái quá, không sanh tai
hoạn về sợ hãi, không sanh tai hoạn về hỷ duyệt, không sanh
tai hoạn về tâm tự cao, cũng không sanh tai hoạn về đa dạng
tưởng’. A-na-luật-đà, Ta muốn không móng khởi tai hoạn này
nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu
hành tinh tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không
phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây
lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.
- “Này
A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ: ‘Trong tâm Ta có tai hoạn nào
khiến cho Ta mất định mà con mắt diệt; con mắt diệt rồi thì
ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy
sắc và ánh sáng ấy liền diệt?’ A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ:
‘Trong tâm Ta sanh tai hoạn về không quán sắc. Nhân tai hoạn
của không quán sắc này nên mất định mà con mắt diệt; con mắt
diệt rồi thì ánh sáng mà Ta nhận được để thấy sắc, giây lát
sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt’. A-na-luật-đà,
Ta nay cần phải nghĩ rằng: ‘Trong tâm Ta không sanh tai hoạn
về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai
hoạn về thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn về thụy miên,
không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá, không sanh tai
hoạn về giải đãi thái quá, không sanh tai hoạn về sợ hãi,
cũng không sanh tai hoạn về hỷ duyệt, cũng không sanh tai
hoạn về tâm tự cao, cũng không sanh tai hoạn về đa dạng
tưởng, cũng không sanh tai hoạn về không quán sắc’.
A-na-luật-đà, Ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống
cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh
tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật,
tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc
được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.
- “Này
A-na-luật-đà, nếu tâm Ta sanh tai hoạn về nghi, đối với tai
hoạn đó, tâm được thanh tịnh. Nếu sanh tai hoạn về vô niệm,
về bệnh tưởng của thân, về thụy miên, về tinh cần thái quá,
giải đãi thái quá, về sợ hãi, về hỷ duyệt, về tâm tự cao, về
đa dạng tưởng, về tâm không quán sắc, đối với những tai hoạn
đó, tâm được thanh tịnh.
- “Này
A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ rằng: ‘Ta phải tu học về ba định,
là tu học về định có giác có quán, tu học về định không giác
ít quán[25],
tu học về định không giác không quán’. A-na-luật-đà, Ta liền
tu học ba định ấy, là tu học về định có giác có quán, tu học
về định không giác ít quán, tu học về định không giác không
quán. Nếu Ta tu học về định có giác có quán thì tâm liền
thuận hướng đến định không giác ít quán, như vậy Ta chắc
chắn không mất trí và kiến này. Như vậy, khi Ta đã biết như
thế rồi, suốt ngày suốt đêm, rồi suốt đêm suốt ngày, Ta tu
học về định có giác có quán. A-na-luật-đà, Ta lúc bấy giờ
thực hành trụ chỉ này. Nếu Ta tu học về định có giác có
quán, tâm liền thuận hướng đến định không giác không quán.
Như vậy, chắc chắn Ta không mất trí và kiến này. Này
A-na-luật-đà, như vậy, ta đã biết như thế rồi nên suốt ngày
suốt đêm, rồi suốt đêm suốt ngày, tu học về định có giác có
quán. Này A-na-luật-đà, bấy giờ Ta thực hành an trú tĩnh chỉ
này.
- “Này
A-na-luật-đà, nếu Ta tu học về định không giác ít quán, tâm
liền thuận hướng định có giác có quán. Như vậy, ta chắc chắn
không mất trí kiến này. Này A-na-luật-đà, Ta biết như thế
rồi, nên suốt ngày suốt đêm, suốt ngày lẫn đêm tu học về
định không giác ít quán. Này A-na-luật-đà, Ta bấy giờ thực
hành hạnh tĩnh chỉ này. Nếu Ta tu học về định không giác ít
quán, tâm liền thuận hướng đến định không giác, không quán.
Như thế, Ta chắc chắn không mất trí và kiến này. Này
A-na-luật-đà, do đó Ta biết như thế rồi nên suốt ngày suốt
đêm tu học về định không giác ít quán. Này A-na-luật-đà, bấy
giờ Ta thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.
- “Này
A-na-luật-đà, nếu Ta tu học về định không giác không quán,
tâm liền thuận hướng đến định có giác có quán. Như thế, Ta
chắc chắn không mất trí kiến này. Do Ta đã biết như thế, nên
suốt ngày suốt đêm, suốt ngày lẫn đêm tu học về định không
giác không quán. Này A-na-luật-đà, Ta bấy giờ thực hành hạnh
an trú tĩnh chỉ này. Này A-na-luật-đà, nếu Ta tu học về định
không giác không quán thì tâm liền thuận hướng đến định
không giác ít quán. Như thế, Ta không mất trí và kiến này.
Này A-na-luật-đà, do Ta đã biết như thế rồi nên suốt ngày
suốt đêm, suốt ngày lẫn đêm tu học về định không giác không
quán. Này A-na-luật-đà, Ta bấy giờ thực hành hạnh an trú
tĩnh chỉ này.
- “Này
A-na-luật-đà, có lúc Ta biết ánh sáng mà không thấy sắc.
A-na-luật-đà, Ta nghĩ rằng: ‘Do nhân nào, do duyên nào Ta
biết ánh sáng mà không thấy sắc?’ A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ
rằng: ‘Nếu Ta niệm tướng của ánh sáng, không niệm tướng của
sắc thì bấy giờ Ta biết ánh sáng mà không thấy sắc’. Như
vậy, Ta biết như thế rồi nên suốt ngày suốt đêm, suốt ngày
lẫn đêm biết ánh sáng mà không thấy sắc. Này A-na-luật-đà,
Ta bấy giờ thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.
- “Này
A-na-luật-đà, có lúc Ta thấy sắc mà không biết ánh sáng.
A-na-luật-đà, Ta nghĩ rằng: ‘Do nhân nào, do duyên nào Ta
thấy sắc mà không biết ánh sáng?’ A-na-luật-đà, Ta lại nghĩ
rằng: ‘Nếu Ta niệm tướng của sắc mà không niệm tướng của ánh
sáng thì bấy giờ Ta biết sắc mà không biết ánh sáng’. Này
A-na-luật-đà, Ta biết như thế rồi nên suốt ngày suốt đêm,
suốt ngày lẫn đêm Ta biết sắc mà không biết ánh sáng. Này
A-na-luật-đà, bấy giờ Ta thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.
- “Này
A-na-luật-đà, có lúc Ta biết một phần ánh sáng ít, cũng thấy
một phần sắc. A-na-luật-đà, Ta liền nghĩ: ‘Do nhân nào, do
duyên nào Ta biết được một phần ánh sáng, cũng thấy một phần
sắc?’ Ta lại nghĩ: ‘Nếu Ta nhập định một phần ít; Ta nhập
định một phần nên nhãn căn thanh tịnh một phần ít. Vì nhãn
căn thanh tịnh một phần ít nên Ta biết ánh sáng một phần,
cũng thấy sắc một phần ít”. A-na-luật-đà, Ta biết như thế
rồi nên suốt ngày suốt đêm, suốt ngày lẫn đêm, biết ánh sáng
một phần ít và thấy sắc một phần ít. Này A-na-luật-đà, bấy
giờ Ta thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.
- “Này
A-na-luật-đà, có lúc Ta biết ánh sáng rộng rãi, cũng thấy
sắc rộng rãi. A-na-luật-đà, Ta nghĩ rằng: ‘Do duyên nào, do
nhân nào Ta biết ánh sáng rộng rãi, cũng thấy ánh sáng rộng
rãi’. Ta lại nghĩ: ‘Nếu Ta nhập định rộng rãi, nhờ nhập định
rộng rãi nên nhãn căn thanh tịnh rộng rãi. Nhờ nhãn căn
thanh tịnh rộng rãi nên Ta biết ánh sáng rộng rãi, cũng thấy
sắc rộng rãi’. A-na-luật-đà, Ta biết như thế rồi nên suốt
ngày suốt đêm, suốt ngày lẫn đêm biết ánh sáng rộng rãi,
cũng thấy sắc rộng rãi. Này A-na-luật-đà, bấy giờ Ta thực
hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.
- “Này
A-na-luật-đà, nếu trong tâm ta sanh tai hoạn về nghi, đối
với tai hoạn ấy trong tâm Ta đã đoạn trừ, được thanh tịnh.
Với vô niệm, thân bệnh tưởng, thụy miên, tinh cần thái quá,
giải đãi thái quá, sợ hãi, hỷ duyệt, tâm tự cao, đa dạng
tưởng, và sanh tai hoạn về không quán sắc, đối với những tai
hoạn ấy tâm được thanh tịnh. Tu học, cực tu học về định có
giác có quán; tu học, cực tu học về định không giác ít quán;
tu học, cực tu học về định không giác không quán; tu học,
cực tu học về định thuần nhất; tu học, cực tu học về định
hỗn hợp[26];
tu học, cực tu học về định một phần ít; tu học, cực tu học
về định quảng vô lượng[27].
Ta có trí và kiến thanh tịnh, sáng suốt vô cùng, hướng đến
an trú vào định, tinh cần tu tập đạo phẩm, biết như thật
rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã
làm xong, không còn tái sanh nữa’. Này A-na-luật-đà, bấy giờ
Ta thực hành trụ chỉ ấy”.
- Phật thuyết
như vậy. Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Nan-đề, Tôn giả
Kim-tì-la sau khi nghe những lời Phật thuyết, hoan hỷ phụng
hành.
-
-
Chú thích:
-
[01] Bản Hán, quyển
17. Tương đương Pāli M. 128. Upakkilessa-suttaṃ. Hán, biệt
dịch No.125 (24.8). Một cuộc tranh chấp lớn đã xảy ra giữa
Tăng chúng tại Kosambī, mà Phật đích thân giải quyết nhưng
vô hiệu, và Ngài đã phải từ bỏ Tăng chúng, vào sống trong
núi một mình cho đến khi cuộc tranh chấp phải chấm dứt. Vụ
tranh chấp này trở thành một số lớn điển hình của Luật tạng,
được ghi thành chương mục hẳn hòi. Tứ Phần Luật gọi là
“Câu-diệm-di Kiền-độ” (No.1428, trang 879 - 885). Thập Tụng
Luật gọi là “Câu-xá-di pháp” (DTK.1435, trang 214 - 218).
Mahāvagga ghi thành chương Kosambakakkhanda. Kinh này là một
cách Phật dùng để chấm dứt sự tranh chấp ấy.
-
[02] Câu-xá-di. No.1428: Câu-diệm-di, Pāli: Kosambī, một trong 16 nước
lớn thời Phật, thủ phủ là Vaṃsā, ở phía Bắc Kosala.
-
[03] Cù-sư-la viên. Pāli: Ghositārāma, một tinh xá được dựng do Ghosita.
-
[04] Tránh, cãi
lộn, tranh chấp. Pāli: Dham. vera, oán hận, thù nghịch.
-
[05] Xem Pháp cú
(Dham.5). Bản Pāli đối chiếu không ghi bài kệ này và câu
chuyện tiền thân dưới đây cũng không.
-
[06] Câu-sa-la Quốc
vương Trường Thọ. Chuyện tiền thân này cũng
được tìm thấy trong bản Trường Thọ Vương kinh (No.161, trang
386 - 388). Pāli: Dīghīti.
-
[07] Gia-xá Quốc
vương danh Phạm-ma-đạt-đa. Pāli: Kāsī,
Brahmadatta.
-
[08] No.125 (24.8)
nói có thai.
-
[09] Lổ bạc;
loại thuẫn lớn khi vua xuất trận.
-
[10] No.125 (24.8):
bà có thai và chiêm bao thấy như vậy. Trong vòng bảy ngày sẽ
sanh, nếu không thấy đúng như chiêm bao nhất định phải chết.
-
[11] Trường Sanh
Đồng tử. Pāli: Dīghāyu, hay là Dīghāvu.
-
[12] No.125 (24.8):
“Thế Tôn tuy có nói như vậy nhưng thực tế lại không thể như
vậy. Rồi Thế Tôn bỏ đi sang Bạt-kỳ”.
-
[13] Các tụng này
cũng được tìm thấy trong Dhammapada và được dẫn trong bản sớ
giải Dhammapada: sau khi không hòa giải được, Phật một mình
đi vào rừng Pārilleyya. Tại đây, Ngài sống với một con voi
chúa cũng cô độc bỏ đàn mà đi. Đến lúc cuộc tranh chấp phải
chấm dứt, ngài A-nan lên thỉnh Phật trở về. Voi chúa tiễn
Ngài ra khỏi khu rừng và đã khóc vì nó không thể xuống đồng
bằng. Phật nói các câu tụng trên vào lúc này, với ý nghĩa:
trong đời, nếu không có bạn lành, thà sống một mình cô độc
trong rừng vắng còn hơn.
-
[14] Bà-la-lâu-la
thôn. Pāli: Bālakaloṇakāragama.
-
[15] Bà-cửu.
Pāli: Bhagu, dòng họ Thích, xuất gia một lần với các ngài
Anuruñha và Kimbila. Một hôm vừa bước khỏi giường, ngài cảm
thấy hỏng chân, cố gượng và do đó chợt chứng quả A-la-hán.
-
[15] Bà-cửu.
Pāli: Bhagu, dòng họ Thích, xuất gia một lần với các ngài
Anuruñha và Kimbila. Một hôm vừa bước khỏi giường, ngài cảm
thấy hỏng chân, cố gượng và do đó chợt chứng quả A-la-hán.
-
[16] Rừng Hộ tự. Pāli: Rakkhitavanasaiña. Sớ giải Dhammapada: từ
Ghositārāma, Phật đi thẳng vào Parrileyya. Xem thêm cht.13
trên.
-
[17] Hiền-sa-la. Pāli: bhaddasāla.
-
[18]
Ban-na-mạn-xà-tự lâm. Pāli: Pācīnavasadāya.
-
[19] Xem kinh số
185.
-
[20] Nguyên văn
Hán: phả đắc nhân thượng chi pháp nhi hữu sai giáng an lạc
trụ chỉ da. Pāli:
alamariyañāadassanaviseso adhigato phāsuvihāro ti, chứng
đắc tri kiến tối thắng của bậc Thánh và sống an lạc thoải
mái.
-
[21] Hán: đắc quang
minh tiện kiến sắc. Đối chiếu nghĩa Pāli: obhāsañ ceva
sajānāma dassanañ ca rūpāna, chúng con cảm nhận ánh sáng
và sự hiện diện của các sắc.
-
[23] Để bản: vô
đạo. Tống-Nguyên-Minh: vô thị.
-
[24] Nguyên Hán:
nhược can tưởng.
-
[25] Nguyên văn: vô
giác thiểu quán; nhưng thông thường: vô tầm duy từ, tức
không giác duy chỉ có quán.
-
[26] Tạp định, từ
lúc nhập cho đến lúc xuất, lần lượt đi từ định này sang định
khác. Khác với Nhất hướng định, định thuần túy, từ lúc nhập
cho đến lúc xuất chỉ một loại định.
-
[27] Có bốn giới
hạn về đối tượng của định: giới hạn nhỏ, giới hạn lớn, giới
hạn vô hạn và hoàn toàn ra ngoài giới hạn. Thường nói Tứ
tưởng, xem Tập Dị 6 (No.1536, Đại 26, trang 292 a).
|