- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 07. PHẨM TRƯỜNG THỌ VƯƠNG
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại Chi-đề-sấu, trong rừng Thủy chử[02].
Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Thuở xưa, lúc Ta chưa đắc đạo giác ngộ vô thượng chánh chân,
bấy giờ Ta nghĩ rằng: ‘Ta làm sao để được ánh sáng, nhân ánh
sáng ấy mà thấy hình sắc. Như vậy, trí và kiến của ta sẽ cực kỳ
minh tịnh’. Vì để có trí và cực kỳ minh tịnh ấy mà Ta sống cô
độc tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần.
Ta nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu
hành tinh cần nên chứng đắc ánh sáng, liền thấy sắc. Nhưng Ta
chưa cùng với chư Thiên kia tụ hội, cùng chào hỏi, cùng luận
thuyết, cùng đối đáp.
“Ta lại nghĩ rằng: ‘Ta làm sao để đắc được ánh sáng. Nhân ánh
sáng ấy mà hấy hình sắc và cùng chư Thiên kia tụ hội, cùng chào
hỏi, cùng luận thuyết, cùng đối đáp. Như vậy trí và kiến của Ta
sẽ cực kỳ minh tịnh. Vì để có trí và kiến cực kỳ minh tịnh này
mà Ta sống tại nơi xa vắng, cô độc, tâm không phóng dật, tu hành
tinh cần. Ta nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng
dật, tu hành tinh cần nên được ánh sáng, liền thấy hình sắc,
cùng chư Thiên kia tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận thuyết,
cùng đối đáp, nhưng Ta không biết chư Thiên kia có họ như thế
nào, tên như thế nào, sanh như thế nào.
“Ta lại nghĩ rằng: ‘Ta làm sao để được ánh sáng. Nhân ánh sáng
ấy mà thấy hình sắc và cùng chư Thiên kia tụ hội, cùng chào hỏi
nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp và cũng biết chư Thiên kia
có họ như vậy, tên như vậy và sanh như vậy. Như thế, trí và kiến
của Ta cực kỳ minh tịnh’. Vì để có trí và kiến cực kỳ minh tịnh
này mà Ta sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu
hành tinh cần. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tu hành tinh
cần, liền thấy được ánh sáng và cùng chư Thiên kia tụ hội, chào
hỏi nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp và cũng biết được chư
Thiên ấy danh tánh như vậy, tên tự như vậy và sanh như vậy.
Nhưng Ta không biết chư Thiên kia ăn như thế nào, thọ khổ lạc
như thế nào.
“Ta lại nghĩ rằng: ‘Ta làm sao để được ánh sáng, nhân ánh sáng
ấy mà thấy hình sắc và cùng chư Thiên tụ hội, chào hỏi nhau,
cùng luận thuyết, cùng đối đáp, biết chư Thiên ấy có họ như vậy,
tên như vậy, sanh như vậy và cũng biết chư Thiên ấy ăn như vậy,
thọ khổ lạc như vậy. Như thế trí và kiến của Ta sẽ cực kỳ minh
tịnh’. Vì để có trí và kiến cực kỳ minh tịnh này mà Ta sống cô
độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần. Nhân
sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh
cần, Ta được ánh sáng, liền thấy hình sắc và cùng chư Thiên tụ
hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, cũng
biết chư Thiên ấy có họ như vậy, tên như vậy và sanh như vậy; và
cũng biết chư Thiên ấy ăn như vậy, thọ khổ lạc như vậy. Nhưng Ta
không biết chư Thiên ấy trường thọ như thế nào, tồn tại lâu như
thế nào, mạng tận như thế nào.
“Ta lại nghĩ rằng: ‘Ta làm sao để được ánh sáng, nhân ánh sáng
ấy mà thấy hình sắc và cùng chư Thiên tụ hội, cùng chào hỏi
nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, biết chư Thiên ấy có họ
như vậy, tên như vậy, sanh như vậy, cũng biết chư Thiên ấy ăn
như vậy, thọ khổ lạc như vậy; cũng biết chư Thiên ấy trường thọ
như thế, tồn tại lâu như thế, mạng tận như thế. Như thế trí và
kiến của Ta sẽ cực kỳ minh tịnh’. Vì để có trí và kiến cực kỳ
minh tịnh này mà Ta sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng
dật, tu hành tinh cần. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm
không phóng dật, tu hành tinh cần, Ta được ánh sáng, liền thấy
hình sắc và cùng chư Thiên tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận
thuyết, cùng đối đáp, cũng biết chư Thiên ấy có họ như vậy, tên
như vậy, sanh như vậy; biết chư Thiên ấy ăn như vậy, thọ khổ lạc
như vậy; và cũng biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy, tồn tại
lâu như vậy, mạng tận như vậy. Nhưng Ta không biết chư Thiên ấy
tạo nghiệp như thế nào, đã chết nơi này và sanh nơi kia như thế
nào.
“Ta lại nghĩ rằng: ‘Ta làm sao để được ánh sáng, nhân ánh sáng
ấy mà thấy hình sắc và cùng chư Thiên kia tụ hội, cùng chào hỏi
nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, biết chư Thiên ấy có họ
như vậy, tên như vậy, sanh như vậy, biết chư Thiên ấy ăn như
vậy, thọ khổ lạc như vậy; biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy,
tồn tại lâu như vậy, mạng tận như vậy; và cũng biết chư Thiên ấy
tạo nghiệp như vậy, chết nơi này và sanh nơi kia như vậy. Như
thế trí và kiến của Ta sẽ cực kỳ minh tịnh’. Vì để có trí và
kiến cực kỳ minh tịnh này mà Ta sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm
không phóng dật, tu hành tinh cần. Nhân sống cô độc tại nơi xa
vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần, Ta được ánh sáng,
liền thấy hình sắc và cùng chư Thiên kia tụ hội, cùng chào hỏi
nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, biết chư Thiên ấy có họ
như vậy, tên như vậy, sanh như vậy; biết chư Thiên ấy ăn như
vậy, thọ khổ lạc như vậy; biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy,
tồn tại lâu như vậy, mạng tận như vậy; và cũng biết chư Thiên ấy
tạo nghiệp như vậy, chết nơi này và sanh nơi kia như vậy. Nhưng
Ta không biết chư Thiên ấy ở trong những cõi trời nào.
“Ta lại nghĩ rằng: ‘Ta làm sao để được ánh sáng, nhân ánh sáng
ấy mà thấy hình sắc và cùng chư Thiên tụ hội, cùng chào hỏi
nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, biết chư Thiên ấy có họ
như vậy, tên như vậy, sanh như vậy, biết chư Thiên ấy ăn như
vậy, thọ khổ lạc như vậy; biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy,
tồn tại lâu như vậy, mạng tận như vậy; biết chư Thiên ấy tạo
nghiệp như vậy, chết nơi này và sanh nơi kia như vậy; và cũng
biết chư Thiên ở trong các cõi trời ấy. Như thế trí và kiến của
Ta sẽ cực kỳ minh tịnh’. Vì để có trí và kiến cực kỳ minh tịnh
này mà Ta sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu
hành tinh cần. Ta nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không
phóng dật, tu hành tinh cần, nên được ánh sáng, liền thấy hình
sắc và cùng chư Thiên kia tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận
thuyết, cùng đối đáp, biết chư Thiên ấy có họ như vậy, tên như
vậy, sanh như vậy; biết chư Thiên ấy ăn như vậy, thọ khổ lạc như
vậy; biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy, tồn tại lâu như vậy,
mạng tận như vậy; biết chư Thiên ấy tạo nghiệp như vậy, chết nơi
này và sanh nơi kia như vậy; và cũng biết chư Thiên ở trong
những cõi trời ấy. Nhưng Ta không biết Ta đã từng sanh vào cõi
đó hay chưa từng sanh vào cõi đó.
“Ta lại nghĩ rằng: ‘Ta làm sao để được ánh sáng, nhân ánh sáng
ấy mà thấy hình sắc và cùng chư Thiên tụ hội, cùng chào hỏi
nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, biết chư Thiên ấy có họ
như vậy, tự như vậy, sanh như vậy, biết chư Thiên ấy ăn như vậy,
thọ khổ lạc như vậy; biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy, tồn
tại lâu như vậy, mạng tận như vậy; biết chư Thiên ấy tạo nghiệp
như vậy, chết nơi này và sanh nơi kia như vậy; biết chư Thiên ở
trong các cõi trời ấy; và cũng biết ở cõi trời ấy Ta đã từng
sanh vào hay chưa từng sanh vào. Như thế trí và kiến của Ta sẽ
cực kỳ minh tịnh”. Vì để có trí và kiến cực kỳ minh tịnh này mà
Ta sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành
tinh cần. Ta nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng
dật, tu hành tinh cần, nên được ánh sáng, liền thấy hình sắc và
cùng chư Thiên kia tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận thuyết,
cùng đối đáp, biết chư Thiên ấy có họ như vậy, tên như vậy, sanh
như vậy; biết chư Thiên ấy ăn như vậy, thọ khổ lạc như vậy; biết
chư Thiên ấy trường thọ như vậy, tồn tại lâu như vậy, mạng tận
như vậy; biết chư Thiên ấy tạo nghiệp như vậy, đã chết nơi này
và sanh nơi kia như vậy; biết chư Thiên ở trong những cõi trời
ấy; và cũng biết ở cõi trời ấy Ta đã từng sanh vào.
“Nếu Ta không biết một cách chân chánh tám hành[03]
này thì không thể nói được một cách xác định, cũng không biết Ta
đắc đạo giác ngộ vô thượng chánh chân; đối với chư Thiên, Ma,
Phạm, Sa-môn, Phạm chí ở thế gian này Ta không thể siêu việt lên
trên; Ta cũng không đắc giải thoát với những sự giải thoát sai
biệt. Ta cũng chưa lìa các đảo điên, chưa biết như thật rằng ‘Sự
sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không
còn tái sanh nữa’.
“Nếu Ta biết được một cách chân chánh tám hành này thì mới có
thể nói được một cách xác định, cũng biết rằng Ta đã đắc đạo
giác ngộ vô thượng chánh chân, đối với chư Thiên, Ma, Phạm,
Sa-môn, Phạm chí, Ta siêu việt lên trên. Ta cũng chứng đắc giải
thoát với những sự giải thoát sai biệt; tâm Ta đã xa lìa các
điên đảo, biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững,
việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan
hỷ phụng hành.
Chú
thích:
-
[01] Bản Hán, quyển 18.
Tương đương Pāli, A. 8. 64. Gayā.
-
[02] Chi-đề-sấu, Thủy
chử lâm. Bản Pāli: gayāya vaharati gayāsīse, trú tại thôn Gayā,
trong núi Gayāsīsa.
-
[03] Bát hành. Pāli:
ahaparivaa adhidevañaadassana, tri kiến về chư Thiên với tám sự
lưu chuyển.
|