- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 07. PHẨM TRƯỜNG THỌ VƯƠNG
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại Câu-lâu-sấu, ở Kiếm-ma-sắt-đàm, một
đô ấp của Câu-lâu[02].
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
“Dục là vô thường, hư ngụy, giả dối[03].
Đã là pháp giả dối thì huyễn hóa, khi cuống, ngu si[04].
Dầu là dục của đời nay hay là dục của đời sau[05],
tất cả đều là cảnh giới của ma, là miếng mồi của ma. Nhân những
thứ ấy mới sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện, tham lam[06],
sân nhuế và đấu tranh[07],
làm chướng ngại cho sự tu học của Thánh đệ tử.
“Đa văn Thánh đệ tử nên quán như vầy, ‘Thế Tôn nói rằng dục là
vô thường, hư ngụy, giả dối, huyễn hóa, khi cuống, ngu si. Dù là
dục của đời này hay dục của đời sau, dù là sắc của đời này hay
sắc của đời sau, tất cả đều là cảnh giới của ma, là miếng mồi
của ma. Nhân những thứ ấy, tâm mới sanh ra vô lượng pháp ác bất
thiện, tham lam, sân nhuế và đấu tranh, làm chướng ngại sự tu
học của Thánh đệ tử’.
“Rồi vị ấy có thể suy nghĩ như vầy: ‘Ta có thể chứng đắc đại
tâm, thành tựu và an trú, nhiếp phục thế gian, nhiếp trì tâm ấy.
Nếu ta chứng đắc đại tâm, thành tựu và an trú, nhiếp phục thế
gian, nhiếp trì tâm ấy thì tâm như thế không sanh ra vô lượng
pháp ác bất thiện, tham lam, sân nhuế và đấu tranh, làm chướng
ngại sự tu học của Thánh đệ tử’.
“Vị ấy bằng sự hành này, bằng sự học này, như vậy mà tu tập để
phát triển rộng lớn, liền ở nơi xứ mà tâm được minh tịnh. Sau
khi tâm đã minh tịnh ở nơi xứ, Tỳ-kheo ấy, hoặc nhờ đó mà nhập
vào bất động[08],
hoặc do tuệ mà giải thoát[09].
Về sau, khi thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã có sẵn ấy[10],
chắc chắn đạt đến bất động. Đó gọi là thuyết Tịnh bất động đạo[11]
thứ nhất.
“Lại nữa, Đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: ‘Những gì là
sắc, tất cả những sắc ấy là bốn đại và bốn đại tạo thành. Bốn
đại ấy là pháp vô thường, khổ và diệt’. Vị ấy bằêng sự hành này,
bằng sự học này, như vậy mà tu tập để phát triển rộng lớn, liền
ở nơi xứ mà tâm được minh tịnh. Sau khi tâm đã minh tịnh ở nơi
xứ, Tỳ-kheo ấy, hoặc nhờ đó mà nhập vào bất động, hoặc do tuệ mà
giải thoát. Về sau, khi thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã có
sẵn ấy, chắc chắn đạt đến bất động. Đó gọi là thuyết Tịnh bất
động đạo thứ hai.
“Lại nữa, Đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: ‘Dù là dục
của đời này hay dục của đời sau, dù là sắc đời này hay sắc đời
sau, dù là dục tưởng của đời này hay dục tưởng của đời sau, dù
là sắc tưởng của đời này hay sắc tưởng của đời sau, tất cả tưởng
ấy đều là pháp vô thường, khổ và diệt’. Vị ấy bằêng sự hành này,
bằng sự học này, như vậy mà tu tập để phát triển rộng lớn, liền
ở nơi xứ mà tâm được minh tịnh. Sau khi tâm đã minh tịnh ở nơi
xứ, Tỳ-kheo ấy, hoặc nhờ đó mà nhập vào bất động, hoặc do tuệ mà
giải thoát. Về sau, khi thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã có
sẵn ấy, chắc chắn đạt đến bất động. Đó gọi là thuyết Tịnh bất
động đạo thứ ba.
“Lại nữa, Đa văn Thánh đệ tử nên quán thế này: ‘Dù là dục tưởng
của đời này hay dục tưởng của đời sau, dù là sắc tưởng của đời
này hay sắc tưởng của đời sau, và bất động tưởng, tất cả tưởng
đều là pháp vô thường, khổ và diệt’. Vị ấy bấy giờ đắc Vô sở hữu
xứ tưởng. Vị ấy bằêng sự hành này, bằng sự học này, như vậy mà
tu tập để phát triển rộng lớn, liền ở nơi xứ mà tâm được minh
tịnh. Sau khi tâm đã minh tịnh ở nơi xứ, Tỳ-kheo ấy, hoặc nhờ đó
mà nhập vào bất động, hoặc do tuệ mà giải thoát. Về sau, khi
thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã có sẵn ấy, chắc chắn đạt đến
bất động. Đó là gọi là thuyết Tịnh vô sở hữu xứ đạo thứ nhất[12].
“Lại nữa, Đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: ‘Thế gian này
là không, quỷ thần không, sở hữu của quỷ thần không, cái hữu
thường không, cái hữu hằng không, cái trường tồn không, cái
không biến dịch không’. Vị ấy hành như vậy, học như vậy, tu tập
và phát triển như vậy thì ở nơi xứ mà tâm được minh tịnh. Sau
khi ở nơi xứ mà tâm được minh tịnh, Tỳ-kheo ấy hoặc nhờ đó mà
tâm nhập Vô sở hữu xứ, hoặc do tuệ mà giải thoát. Về sau, khi
thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã có sẵn ấy, chắc chắn đạt đến
Vô sở hữu xứ. Đó là trường hợp thứ hai được gọi là Tịnh vô sở
hữu xứ đạo.
“Lại nữa, Đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: ‘Ta không
phải được tạo ra vì cái khác, cũng không phải được tạo ra vi
chính mình[13]’.
Vị ấy hành như vậy, học như vậy, tu tập và phát triển như vậy,
thì ở nơi xứ mà tâm được minh tịnh. Sau khi ở nơi xứ mà tâm được
minh tịnh, Tỳ-kheo ấy hoặc nhờ đó mà nhập Vô sở hữu xứ, hoặc do
tuệ mà giải thoát. Về sau, khi thân hoại mạng chung, nhân tâm ý
đã có sẵn ấy, chắc chắn đạt đến vô sở hữu xứ. Đó là trường hợp
thứ ba được gọi là Tịnh vô sở hữu xứ đạo.
“Lại nữa, Đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: ‘Dù là dục
của đời này hay dục của đời sau, dù là sắc của đời này hay sắc
của đời sau, dù là dục tưởng của đời này hay dục tưởng của đời
sau, dù là sắc tưởng của đời này hay sắc tưởng của đời sau và
bất động tưởng, vô sở hữu xứ tưởng, tất cả tưởng ấy đều là pháp
vô thường, khổ và diệt’. Bấy giờ vị ấy đắc Vô tưởng. Vị ấy hành
như vậy, học như vậy, tu tập và phát triển như vậy, thì ở nơi xứ
mà tâm được minh tịnh. Sau khi ở nơi xứ mà tâm được minh tịnh,
Tỳ-kheo ấy hoặc nhờ đó mà nhập vô tưởng, hoặc do tuệ mà giải
thoát. Về sau, khi thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã có sẵn
ấy, chắc chắn đạt đến vô tưởng xứ. Đó là nói về định vô tưởng
đạo[14]“.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan đang cầm quạt đứng hầu Đức Phật. Tôn giả
hướng về Phật mà bạch rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn, nếu có Tỳ-kheo nào thực hành như vầy, ‘Không
có ta, không có sở hữu của ta; ta sẽ không tồn tại, sở hữu của
ta sẽ không tồn tại; những gì có trước kia, bèn được xả sạch’.
Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo ấy thực hành như thế, có chứng đắc cứu
cánh Niết-bàn chăng?”
Đức Phật nói rằng:
“Này A-nan, sự kiện ấy không nhất định. Hoặc có người chứng đắc,
hoặc có người không chứng đắc”.
Tôn giả A-nan lại thưa:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo ấy hành như thế nào mà không chứng đắc
Niết-bàn?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này A-nan, Tỳ-kheo nào hành như vầy, ‘Không có ta, không có sở
hữu của ta; ta sẽ không tồn tại, sở hữu của ta sẽ không tồn tại;
những gì có trước kia, bèn được xả sạch’. Nhưng này A-nan, nếu
Tỳ-kheo ấy vui thích với sự xả bỏ ấy, đắm trước nơi sự xả bỏ ấy,
trú vào sự xả bỏ ấy, Tỳ-kheo như thế chắc chắn không chứng đắc
Niết-bàn”.
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo nào nếu có chỗ chấp thủ sẽ không đắc
Niết-bàn chăng?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào có chỗ chấp thủ thì chắc chắn không
đắc Niết-bàn”.
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo ấy bị chấp thủ bởi những gì?”
Đức Thế Tôn đáp:
-Này A-nan, còn hữu dư ở trong hành[15]
đó là hữu tưởng vô tưởng xứ, bậc nhất trong các hữu mà Tỳ-kheo
ấy chấp thủ”.
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo ấy còn chấp thủ vào hành nào khác nữa
chăng?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Đúng như thế, Tỳ-kheo ấy còn chấp thủ vào hành khác nữa”.
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo phải hành như thế nào thì chắc chắn đắc
Niết-bàn?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này A-nan, Tỳ-kheo nào hành như vầy, ‘Không có ta, không có sở
hữu của ta; ta sẽ không tồn tại, sở hữu của ta sẽ không tồn tại;
những gì có trước kia, bèn được xả sạch’. Và này A-nan, nếu
Tỳ-kheo ấy không vui thích với sự xả bỏ ấy, không đắm trước sự
xả bỏ ấy, không trú vào sự xả bỏ ấy, thì này A-nan, Tỳ-kheo thực
hành như thế, chắc chắn chứng đắc Niết-bàn”.
Tôn gả A-nan hỏi rằng:
“Bạch Thế Tôn, nếu Tỳ-kheo nào không chấp thủ vào đâu cả thì
chắc chắn chứng đắc Niết-bàn chăng?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào không chấp thủ vào đâu cả thì chắc
chắn chứng đắc Niết-bàn”.
Bấy giờ Tôn giả A-nan chắp tay hướng về Phật, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã thuyết về Tịnh bất động đạo, đã thuyết
về Tịnh vô sở hữu xứ đạo, đã thuyết về Tịnh vô tưởng xứ đạo, đã
thuyết về Vô dư Niết-bàn. Bạch Thế Tôn, thế nào là sự giải thoát
của bậc Thánh?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này A-nan, Đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: ‘Dù là dục
của đời này hay dục của đời sau, dù là sắc của đời này hay là
sắc của đời sau, dù là dục tưởng của đời này hay là dục tưởng
của đời sau, dù là sắc tưởng của đời này hay là sắc tưởng của
đời sau và bất động tưởng, vô sở hữu tưởng, vô tưởng tưởng, tất
cả các tưởng ấy đều là pháp vô thường, khổ và diệt, đó là hữu
thân[16].
Nếu là hữu thân thì đó là sanh, đó là già, đó là bệnh, đó là
chết.
“Này A-nan, nếu có pháp này thì diệt trừ tất cả, không để lưu
dư, không để có trở lại. Như vậy thì không sanh, không già,
không bệnh, không chết.
“Bậc Thánh quán như vậy. Nếu có thì chắc chắn đó là pháp giải
thoát. Nếu có Vô dư Niết-bàn thì gọi là cam lộ[17].
Vị nào quán như vậy, chắc chắn tâm giải thoát dục lậu, tâm giải
thoát hữu lậu và vô minh lậu. Đã giải thoát liền biết đã giải
thoát, biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững,
việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.
“Này A-nan, Ta nay đã nói cho ngươi nghe về Tịnh bất động đạo,
về Tịnh vô sở hữu xứ đạo, về Tịnh vô tưởng đạo, về Vô dư
Niết-bàn, về sự giải thoát của bậc Thánh. Như bậc Tôn sư với tâm
đại bi, đoái tưởng, thương xót, mong cầu phước lợi và thiện ích,
cầu an ổn và khoái lạc cho đệ tử, những điều ấy Ta nay đã làm
xong. Các ngươi hãy tự mình làm. Hãy đi đến nơi rừng vắng, đến
dưới gốc cây, chỗ yên tĩnh, trống vắng, ngồi tĩnh tọa mà tư duy,
chớ có phóng dật, đừng để về sau phải hối hận. Đó là lời khuyến
giáo của Ta, đó là huấn thị của Ta”.
Phật thuyết như vậy. Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli
M.106 Āneñjasappāya-suttam.
-
[02] Kiếm-ma-sắt-đàm
Câu-lâu. Pāli: Kammāsadhamma nāma kurūna nigamo, tại thị trấn
Kammāsadhamma của người Kuru. Xem cht.3,
Kinh số 10.
-
[03] Hán: Dục... vọng
ngôn. Pāli: aniccā... Kāmā tucchā musā mosadhammā, dục là pháp
trống rỗng, giả dối, ngu si.
-
[04] Thị huyễn ngôn...
ngu si. Pāli: mayākata eta... bālalāpana, đó là phiếm luận của
người ngu được tạo ra bằng sự hư huyễn.
-
[05] Dục, và sắc. Pāli:
kāmā, kāmasaññā: dục và dục tưởng.
-
[06] Hán: tăng tứ.
Pāli: abhijjhā, tham lam, thường chỉ ham muốn, dòm ngó của người
khác.
-
[07] Đấu tránh. Pāli:
āarambha, nóng tính, hay phẫn nộ, hay gây gổ.
-
[08] Nhập bất động.
Pāli: āneñja samāpajjati, nhập định với trạng thái bất động.
-
[09] Dĩ tuệ vi giải.
Pāli: paññāya adhimuccati, do tuệ mà có quyết định. Cũng có thể
hiểu, do tuệ mà quyết định giải thoát.
-
[10] Nhân bản ý. Pāli:
savattanika viññaa, thức đã được định hướng.
-
[11] Tịnh bất động đạo.
Pāli: āneñjasappayā paṭipadā, sự thực hành đưa đến lợi ích của
bất động.
-
[12] Tịnh vô sở hữu xứ
đạo. Pāli: ākiñcaññāyatanasappayā paipadā, sự thực hành đưa đến
lợi ích của Vô sở hữu xứ.
-
[13] Phi vị tha... Phi
vị tự nhi hữu sở vi. Pāli: nāha kvacani kassaci kiñcanatasmi, na
mama kvacani kismiñci kiñcana natthī’ti, tôi không hiện hữu bất
cứ ở đâu, cho bất cứ ai, trong bất cứ cái gì. Sở hữu của tôi
không hiện hữu bất cứ ở đâu, cho bất cứ ai, trong bất cứ cái gì.
-
[14] Tịnh vô tưởng đạo.
Pāli: nevasaññānāsaññāyatanasappayā paipadā, sự thực hành đưa
đến lợi ích của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
-
[15] Hành trung hữu dư;
Hữu ở đây được kể trong 12 nhân duyên.
-
[16] Tự kỷ hữu, cũng
nói là tự thân, hay hữu thân, về sự chắc thật của năm uẩn. Pāli:
sakkāya.
-
[17] Cam lộ, cũng hiểu
là bất tử. Pāli: amata.
|