- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 07. PHẨM TRƯỜNG THỌ VƯƠNG
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại Úc-già-chi-la[02],
ở bên bờ hồ Hằng thủy. Bấy giờ, một Tỳ-kheo vào lúc xế, từ chỗ
tĩnh tọa đứng dậy, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân
Phật, rồi ngồi qua một bên, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn khéo léo thuyết pháp ngắn gọn cho
con. Được nghe pháp Đức Thế Tôn dạy, con sẽ sống cô độc tại nơi
xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần. Nhân sống cô độc
tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần để đạt
đến cứu cánh mà một thiện nam tử đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo
ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia
học đạo là để đạt được vô thượng phạm hạnh, ngay trong đời này
tự tri tự giác, tự thân tác chứng, thành tựu an trú, biết một
cách như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần
làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa”.
Đức Thế Tôn bảo:
“Tỳ-kheo hãy tu học như vậy, để khiến được an trú bên trong, bất
động, vô lượng, khéo tu tập. Lại quán nội thân như thân, thực
hành hết sức tinh cần, vững chánh niệm chánh trí, khéo tự chế
ngự tâm, khiến lìa bỏn sẻn tham lam, ý không sầu não. Lại quán
ngoại thân như thân, thực hành hết sức tinh cần, vững chánh niệm
chánh trí, khéo tự chế ngự tâm, khiến xa lìa bỏn sẻn tham lam, ý
không sầu não. Lại quán nội ngoại thân như thân, thực hành hết
sức tinh cần, vững chánh niệm chánh trí, khéo tự chế ngự tâm,
khiến cho xa lìa bỏn sẻn tham lam, ý không sầu não. Này Tỳ-kheo,
với định như vậy, khi tới, khi lui, hãy khéo tu tập; lúc đứng,
lúc ngồi, lúc nằm, lúc ngủ, lúc thức, lúc tỉnh dậy, cũng đều tu
tập như vậy.
“Lại nữa, cũng nên tu tập định có giác có quán, định không giác
ít quán, tu tập định không giác không quán; cũng nên tu tập về
định câu hữu với hỷ, định câu hữu với lạc, định câu hữu với
định, định câu hữu với xả.
“Này Tỳ-kheo, nếu tu tập các định này, tu một cách khéo léo thì
này Tỳ-kheo, phải tu thêm quán nội thọ như thọ, thực hành hết
sức tinh cần, giữ vững chánh niệm chánh trí, khéo tự chế ngự
tâm, khiến xa lìa bỏn sẻn tham lam, ý không sầu não. Lại quán
ngoại thọ như thọ, thực hành hết sức tinh cần, giữ vững chánh
niệm chánh trí, khéo tự chế ngự tâm, khiến lìa bỏn sẻn tham lam,
ý không sầu não. Lại quán nội ngoại thọ như thọ, thực hành hết
sức tinh cần, giữ vững chánh niệm chánh trí, khéo tự chế ngự
tâm, khiến xa lìa bỏn sẻn tham lam, ý không sầu não. Này
Tỳ-kheo, với định như thế, lúc đi, lúc đến, hãy khéo tu tập. Lúc
đứng, lúc ngồi, lúc nằm, lúc ngủ, lúc thức, lúc tỉnh dậy, cũng
đều tu tập như thế.
“Lại nữa, cũng nên tu tập định câu hữu với hỷ, định câu hữu với
lạc, định câu hữu với định, định câu hữu với xả. Này Tỳ-kheo,
nếu tu tập các định này, tu tập một cách khéo léo thì nên tu
thêm quán nội tâm như tâm, thực hành hết sức tinh cần, giữ vững
chánh niệm chánh trí, khéo chế ngự tâm, khiến xa lìa bỏn sẻn
tham lam, ý không sầu não. Lại nên quán ngoại tâm như tâm, thực
hành hết sức tinh cần, giữ vững chánh niệm chánh trí, khéo chế
ngự tâm, khiến xa lìa bỏn sẻn tham lam, ý không sầu não. Lại nên
quán nội ngoại tâm như tâm, thực hành hết sức tinh cần, giữ vững
chánh niệm chánh trí, khéo chế ngự tâm, khiến xa lìa bỏn sẻn
tham lam, ý không sầu não. Này Tỳ-kheo, với định như thế, lúc
đi, lúc đến hãy khéo tu tập. Lúc đứng, lúc ngồi, lúc nằm, lúc
ngủ, lúc thức, lúc tỉnh dậy, cũng đều tu tập như vậy.
“Lại nữa, cũng nên tu tập định có giác có quán, định không giác
ít quán, định không giác không quán. Cũng nên tu tập định câu
hữu với hỷ, định câu hữu với lạc, định câu hữu với xả.
“Này Tỳ-kheo, nếu tu tập các định này, tu một cách khéo léo thì
nên tu thêm quán nội pháp như pháp, thực hành hết sức tinh cần,
giữ vững chánh niệm chánh trí, khéo chế ngự tâm, khiến xa lìa
bỏn sẻn tham lam, ý không sầu não. Lại quán ngoại pháp như pháp,
thực hành hết sức tinh cần, giữ vững chánh niệm chánh trí, khéo
chế ngự tâm, khiến xa lìa bỏn sẻn tham lam, ý không sầu não. Lại
quán nội ngoại pháp như pháp, thực hành hết sức tinh cần, giữ
vững chánh niệm chánh trí, khéo chế ngự tâm, khiến xa lìa bỏn
sẻn tham lam, ý không sầu não. Này Tỳ-kheo, với định như thế,
lúc đi lúc đến, hãy khéo tu tập. Lúc đứng, lúc ngồi, lúc nằm,
lúc ngủ, lúc thức, lúc tỉnh dậy, cũng đều tu tập như vậy.
“Lại nữa, nên tu tập định có giác có quán, định không giác ít
quán, định không giác không quán, cũng nên tu tập định câu hữu
với hỷ, định câu hữu với lạc, định câu hữu với định, định câu
hữu với xả. Này Tỳ-kheo, nếu tu tập các định này, tu tập một
cách khéo léo thì này Tỳ-kheo, tâm hãy cùng với từ tương ưng,
biến mãn một phương, thành tựu và an trú. Cũng như vậy, hai, ba
bốn phương, phương trên, phương dưới, châu biến cùng khắp, tâm
cùng với từ tương ưng, không kết, không oán, không nhuế, không
tranh, rộng rãi bao la, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn cùng
khắp thế gian, thành tựu và an trú. Này Tỳ-kheo, nếu ngươi tu
tập các định này, tu một cách khéo léo thì nên an trụ phương
Đông, chắc chắn được an lạc, không có các tai hoạn đau khổ. Nếu
an trụ phương Nam, phương Tây và phương Bắc, chắc chắn an lạc,
không có các tai hoạn đau khổ.
“Này Tỳ-kheo, nếu ngươi tu tập các định này một cách khéo léo,
đối với các thiện mà ngươi đã an trú, Ta không còn nói đến,
huống là sự suy thoái. Các pháp thiện cứ ngày đêm tăng trưởng,
chứ không suy thoái.
“Này Tỳ-kheo, nếu ngươi tu tập các định này, tu một cách khéo
léo thì trong hai quả, chắc chắn sẽ đắc một, hoặc ngay trong đời
này đắc cứu cánh trí. Hoặc nếu còn hữu dư thì chứng đắc
A-na-hàm”.
Bấy giờ vị Tỳ-kheo ấy nghe những lời Đức Phật dạy, khéo léo thọ
trì, liền từ chỗ ngồi đứng dậy cúi đầu đảnh lễ dưới chân Đức
Phật, đi quanh ba vòng rồi lui ra. Vị ấy thọ trì pháp của Phật,
sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh
cần. Nhân sống tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành
tinh cần, đạt đến cứu cánh mà một thiện nam tử đã cạo bỏ râu
tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
xuất gia học đạo là duy chỉ cầu đắc vô thượng phạm hạnh, ngay
trong đời hiện tại tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu
an trú, biết một cách như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh
đã lập, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Tôn
giả đã biết pháp, đắc A-la-hán.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan
hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli:
S.47. 13 Bhikkhu-sutta.
-
[02] Úc-già-chi-la.
Pāli: Ukkācelā, một ngôi làng trong xứ Vajji, trên bờ sông
Gaṅgā, trên con đường từ Vương xá đến Xá-vệ. Sau khi Tôn giả
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên thị tịch, trong khoảng 15 ngày, Đức
Phật trên đường đi về Vesāli, Ngài ghé lại Ukkācelā thuyết kinh
Ukkācelā-sutta (S.47.14). Ngài nói: “Này các Tỳ-kheo, khi
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên Bát-niết-bàn, Ta thấy chúng hội này
giống như trống không”. Bản Hán không đề cập đến sự kiện này.
|