- 07. PHẨM TRƯỜNG THỌ VƯƠNG
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại Sa-kê-đế[02]
trong rừng Thanh[03].
Bấy giờ ở Sa-kê-đế có ba thiện gia nam tử là
Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Nan-đề và Tôn giả Kim-tì-la[04]
đều là thiếu niên mới xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chánh
pháp này không lâu.
Lúc ấy Đức Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:
“Ba thiện gia nam tử này đều là thiếu niên mới
xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chánh pháp này không lâu; ba
thiện nam tử ấy có vui thích ở trong Chánh Pháp Luật này hành
phạm hạnh chăng?”
Khi đó các vị Tỳ-kheo im lặng, không trả lời.
Đức Thế Tôn ba lần hỏi các Tỳ-kheo rằng:
“Ba thiện gia nam tử này đều là thiếu niên mới
xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chánh pháp này không lâu; ba
thiện nam tử ấy có vui thích ở trong Chánh Pháp Luật này hành
phạm hạnh chăng?”
Khi ấy các Tỳ-kheo cũng ba lần im lặng, không
đáp. Thế rồi Đức Thế Tôn hỏi thẳng ba thiện nam tử ấy, Ngài
nói với Tôn giả A-na-luật-đà rằng:
“Các ngươi, ba thiện gia nam tử, đều ở tuổi
thiếu niên, mới xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chánh pháp
không lâu. Này A-na-luật-đà, các ngươi có vui thích ở trong
Pháp Luật chân chánh này mà thực hành phạm hạnh chăng?
Tôn giả A-na-luật-đà thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, quả thật như vậy, chúng con vui
thích ở trong Chánh Pháp Luật này hành phạm hạnh.
Đức Thế Tôn lại hỏi:
“Này A-na-luật-đà, các ngươi lúc còn nhỏ, là
những đồng tử ấu thơ, trong trắng, tóc đen, thân thể thạnh
trắng, vui thích trong du hý, vui thích trong tắm gội, săn sóc
nâng niu thân thể. Về sau, bà con thân thích và cha mẹ đều
cùng lưu luyến, thương yêu, khóc lóc thảm thiết, không muốn
cho các ngươi xuất gia học đạo. Các ngươi đã quyết chí cạo bỏ
râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình, xuất gia học đạo, không phải vì sợ giặc cướp, không phải
vì sợ nợ nần, không phải vì sợ khủng bố, không phải vì sợ bần
cùng, cũng không phải vì sợ không sống được mà phải xuất gia
học đạo, mà chỉ vì nhờm tởm sự sanh, sự già, bệnh tật, sự
chết, khóc lóc, sầu khổ, hoặc vì muốn đạt đến tận cùng của
khối khổ đau vĩ đại này nên xuất gia học đạo. Này
A-na-luật-đà, các ngươi vì những tâm niệm này mà xuất gia học
đạo chăng?”
Tôn giả A-na-luật-đà đáp rằng:
“Bạch Thế Tôn, quả thật như vậy”.
Phật liền nói:
“A-na-luật-đà, nếu thiện gia nam tử nào với tâm
niệm như thế mà xuất gia học đạo, nhưng có biết do đâu mà
chứng đắc vô lượng thiện pháp chăng?”
Tôn giả bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn là gốc của Pháp, là chủ
của Pháp, Pháp do Thế Tôn nói. Mong Thế Tôn giảng giải cho
chúng con. Sau khi nghe, chúng con sẽ biết được nghĩa một cách
rộng rãi”.
Đức Thế Tôn liền bảo:
“Này A-na-luật-đà, các ngươi hãy lắng nghe,
khéo tư duy và ghi nhớ. Ta sẽ phân biệt nghĩa ấy cho các
ngươi”.
Các Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Nan-đề, Tôn
giả Kim-tì-la vâng lời lắng nghe. Đức Thế Tôn bảo:
“A-na-luật-đà, nếu ai bị dục phủ kín, bị ác
pháp quấn chặt, không được xả lạc, vô thượng tịch tĩnh, thì
với người ấy tâm sanh ra tham lam, sân hận, thụy miên, tâm
sanh không an lạc, thân sanh ra dã dượi, ăn nhiều, tâm ưu sầu.
Tỳ-kheo ấy không nhẫn nại được đói khát, nóng lạnh, muỗi mòng,
ruồi nhặng, gió nắng bức bách, nghe tiếng thô ác hay bị đánh
đập cũng không thể nhẫn nại được. Thân mắc phải các bệnh tật
thống khổ đến mức muốn chết và gặp những cảnh ngộ không vừa
lòng đều không thể nhẫn chịu được. Vì sao? Vì bị dục phủ kín,
bị ác pháp quấn chặt, không được xả lạc, vô thượng tịch tịnh.
Trái lại, nếu ly dục, không bị ác pháp quấn chặt, chắc chắn sẽ
đạt đến xả ly, an lạc vô thượng tịch tịnh. Tâm vị ấy không
sanh ra tham lam, sân nhuế, thụy miên, tâm được an lạc. Thân
không sanh ra dã dượi, cũng không ăn nhiều, tâm không sầu não.
Tỳ-kheo ấy nhẫn nại được đói khát, lạnh nóng, muỗi mòng, ruồi
nhặng, gió nắng bức bách, nghe tiếng thô ác hay bị đánh đập
cũng đều nhẫn nại được. Thân dù mắc những chứng bệnh hiểm
nghèo rất thống khổ đến mức chết được, hay gặp những cảnh ngộ
không thể vừa lòng, đều nhẫn nại được. Vì sao? Vì không bị dục
phủ kín, không bị ác pháp quấn chặt, lại đạt đến xả ly, an lạc
vô thượng tịch tịnh.
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này A-na-luật-đà, Như Lai vì ý nghĩa gì mà có
cái hoặc phải đoạn trừ, hoặc có cái phải thọ dụng, hoặc có cái
phải kham nhẫn, hoặc có cái phải đình chỉ, hoặc có cái phải
nhả bỏ[05]?”
A-na-luật-đà bạch rằng:
“Thế Tôn là gốc của Pháp, là chủ của Pháp, Pháp
do Thế Tôn nói. Mong Thế Tôn giảng giải cho chúng con. Sau khi
nghe xong, chúng con sẽ biết được những nghĩa ấy một cách rộng
rãi”.
Đức Thế Tôn lại bảo:
“Này A-na-luật-đà, các ngươi hãy lắng nghe,
khéo tư duy và ghi nhớ. Ta sẽ phân biệt những thiện lợi ấy cho
các ngươi”.
Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Nan-đề, Tôn giả
Kim-tì-la vâng lời lắng nghe.
Đức Thế Tôn bảo:
“Này A-na-luật-đà, các lậu ô uế là gốc của sự
hữu trong tương lai, là sự phiền nhiệt, là nhân của khổ báo,
của sanh, già, bệnh, chết; Như Lai không phải vì không diệt
tận, không phải vì không biến tri mà có cái phải đoạn trừ, có
cái phải thọ dụng, có cái phải kham nhẫn, có cái phải đình
chỉ, có cái phải nhả bỏ. Này A-na-luật-đà, Như Lai chỉ vì nhân
nơi thân này, nhân nơi sáu xứ, nhân nơi thọ mạng mà có cái
phải đoạn trừ, có cái phải thọ dụng, có cái phải kham nhẫn, có
cái phải đình chỉ, có cái phải nhả bỏ. Này A-na-luật-đà, Như
Lai vì những nghĩa này mà có cái phải đoạn trừ, có cái phải
thọ dụng, có cái phải kham nhẫn, có cái phải đình chỉ, có cái
phải nhả bỏ”.
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này A-na-luật-đà, Như Lai vì những ý nghĩa nào
mà sống nơi rừng vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây, ưa sống
nơi vách núi cao, vắng vẻ không tiếng động, viễn ly, không có
sự ác, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa như thế?”
Tôn giả A-na-luật-đà thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn là gốc của Pháp, Thế Tôn
là Chủ của Pháp, Pháp do Thế Tôn nói. Mong Thế Tôn giảng giải
cho chúng con. Sau khi nghe xong, chúng con sẽ được những
thiện lợi ấy một cách rộng rãi”.
Đức Thế Tôn bảo rằng:
“Này A-na-luật-đà, các ngươi hãy lắng nghe và
khéo tư duy, ghi nhớ. Ta sẽ phân biệt những thiện lợi ấy cho
các ngươi”.
Các Tôn giả vâng lời lắng nghe.
Đức Thế Tôn bảo:
“Này A-na-luật-đà, không phải vì muốn đạt được
những gì chưa đạt đến, vì muốn thu hoạch những gì chưa thu
hoạch, vì muốn chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ mà Như Lai
sống nơi rừng vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây, thích ở non
cao, vắng bặt tiếng tăm, xa lánh, không sự dữ, không có bóng
người, tùy thuận tĩnh tọa. Này A-na-luật-đà, Như Lai chỉ vì
hai mục đích sau đây nên mới sống nơi rừng vắng, trong núi
sâu, dưới gốc cây, thích ở non cao, vắng bặt tiếng tăm, xa
lánh, không sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa.
Một là, sống an lạc ngay trong đời hiện tại. Hai là, vì thương
xót chúng sanh đời sau. Đời sau hoặc có chúng sanh học theo
Như Lai, sống nơi rừng vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây,
thích ở non cao, vắng bặt tiếng người, tùy thuận tĩnh tọa. Này
A-na-luật-đà, vì những mục đích ấy mà Như Lai sống nơi rừng
vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây, thích ở non cao, vắng bặt
tiếng tăm, xa lánh, không sự dữ, không có bóng người, tùy
thuận tĩnh tọa”.
Đức Thế Tôn hỏi:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn là gốc của Pháp, Thế Tôn
là chủ của Pháp, Pháp do Thế Tôn nói. Mong Thế Tôn giảng giải
cho chúng con. Sau khi nghe xong, chúng con sẽ được những
thiện lợi ấy một cách rộng rãi”.
Đức Thế Tôn bảo rằng:
“Này A-na-luật-đà, các ngươi hãy lắng nghe và
khéo tư duy, ghi nhớ. Ta sẽ phân biệt những ý nghĩa ấy cho các
ngươi”.
Các Tôn giả vâng lời lắng nghe.
Đức Thế Tôn bảo:
“Này A-na-luật-đà, không phải vì xu hướng của
người mà nói, cũng chẳng phải vì lừa gạt người, cũng chẳng
phải vì muốn vui lòng người mà khi đệ tử lâm chung, Như Lai
ghi nhận vị này sẽ sanh chỗ này, vị kia sanh chỗ kia. Này
A-na-luật-đà, chỉ vì những thanh tín thiện nam hay thanh tín
thiện nữ với tín tâm nhiệt thành, với ái lạc cao độ, với hỷ
duyệt cùng cực, sau khi đã nghe Chánh Pháp Luật, tâm nguyện tu
tập theo như vậy, cho nên lúc lâm chung của các đệ tử, Như Lai
đã ghi nhận vị này sanh chỗ này, vị kia sanh chỗ kia. Nếu
Tỳ-kheo nào nghe Tôn giả ấy lâm chung nơi ấy, được Phật ghi
nhận đã đắc cứu cánh trí, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt,
phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái
sanh nữa’. Hoặc nhiều lần trông thấy, hoặc nhiều lần nghe
người khác kể lại rằng: ‘Tôn giả ấy có tín tâm như vậy, trì
giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như
vậy’. Tỳ-kheo kia nghe xong nhớ rằng Tôn giả kia có tín tâm
như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, trí tuệ như vậy.
Sau khi nghe Chánh Pháp Luật này, Tỳ-kheo kia có thể tâm
nguyện tu tập như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo ấy
chắn chắc được phần nào sống trong sự an lạc thoải mái[06].
“Này A-na-luật-đà, nếu Tỳ-kheo nào nghe Tôn giả
ấy lâm chung ở chỗ ấy, được Phật ghi nhận đã dứt sạch năm hạ
phần kiết, sanh vào nơi kia mà nhập Niết-bàn, chứng đắc pháp
bất thối, không còn trở lại thế gian này nữa. Hoặc chính mắt
trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng ‘Tôn
giả ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy,
bố thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Tỳ-kheo kia nghe xong nhớ
rằng Tôn giả kia có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học
rộng như vậy, trí tuệ như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân
chánh này, Tỳ-kheo đó tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy.
Này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo đó chắc chắn được phần nào sống
trong sự an lạc thoải mái.
“Này A-na-luật-đà, lại nữa, Tỳ-kheo nào nghe
rằng: ‘Tôn giả ấy lâm chung ở chỗ ấy, được Phật ghi nhận dứt
sạch ba kiết sử, đã làm mỏng dâm, nộ, si, chỉ một lần qua lại
thiên thượng, nhân gian; sau một lần qua lại thì đạt đến tận
cùng sự khổ’. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe
người khác kể lại rằng: ‘Tôn giả ấy có tín tâm như vậy, trì
giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như
vậy’. Sau khi nghe xong, Tỳ-kheo kia nhớ rằng: ‘Tôn giả kia có
tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, trí tuệ
như vậy. Nghe Pháp Luật chân chánh này rồi, Tỳ-kheo đó có thể
tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy...’ Này A-na-luật-đà,
Tỳ-kheo đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
“Lại nữa, này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo nào nghe
Tôn giả ấy lâm chung ở nơi ấy, được Phật ghi nhận đã dứt sạch
ba kiết sử, đắc Tu-đà-hoàn, không còn đọa ác pháp, nhất định
sẽ đạt đến chánh gác, nhiều lắm là bảy lần thọ sanh. Sau bảy
lần qua lại nhân gian, thiên thượng thì đạt đến tận cùng sự
khổ. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác
kể lại rằng: ‘Tôn giả ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy,
học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Sau khi
nghe xong, Tỳ-kheo kia nhớ rằng: ‘Tôn giả kia có tín tâm như
vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí
tuệ như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này, Tỳ-kheo đó
có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy’. Này
A-na-luật-đà, Tỳ-kheo đó chắc chắn được phần nào sống trong sự
an lạc thoải mái.
“Này A-na-luật-đà, nếu Tỳ-kheo-ni nào nghe
rằng: “Tỳ-kheo-ni ấy được Phật ghi nhận đã đắc Cứu cánh trí,
biết như thật ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm
đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Hoặc tận mắt trông thấy
Tỳ-kheo-ni ấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng:
‘Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, có trì giới như vậy, học
rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Sau khi nghe
xong, nhớ rằng Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như
vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy. Sau
khi nghe Pháp Luật chân chánh này, Tỳ-kheo-ni đó có thể tâm
nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà,
Tỳ-kheo-ni đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc
thoải mái.
“Lại nữa, này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo-ni nào nghe
rằng: ‘Tỳ-kheo-ni ấy lâm chung nơi ấy, được Đức Thế Tôn ghi
nhận đã dứt sạch năm hạ phần kiết, sanh vào nơi kia mà nhập
Niết-bàn, đắc pháp bất thối, không còn trở lại cõi này nữa’.
Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác nói
lại rằng: ‘Tỳ-kheo ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy học
rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Sau khi nghe
Pháp Luật chân chánh này, Tỳ-kheo-ni ấy có thể tâm nguyện tu
tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy,
Tỳ-kheo-ni đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc
thoải mái.
“Lại nữa, này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo-ni nào nghe
rằng: ‘Tỳ-kheo-ni ấy lâm chung nơi ấy, được Đức Phật ghi nhận
rằng đã dứt sạch ba kiết sử, đã mỏng dâm, nộ, si; chỉ một lần
qua lại thiên thượng, nhân gian. Sau khi một lần qua lại ấy
thì đạt đến tận cùng sự khổ’. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc
nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: ‘Tỳ-kheo-ni ấy có tín
tâm như vậy, trì giới như vậy học rộng như vậy, bố thí như
vậy, trí tuệ như vậy’. Nghe xong, nhớ rằng: Tỳ-kheo-ni ấy có
tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí
như vậy, trí tuệ như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh
này, vị ấy có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này
A-na-luật-đà, như vậy, Tỳ-kheo-ni đó chắc chắn được phần nào
sống trong sự an lạc.
“Lại nữa, này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo-ni nào nghe
rằng ‘Tỳ-kheo-ni ấy lâm chung nơi ấy, được Đức Phật ghi nhận
đã dứt sạch ba kiết sử, đắc Tu-đà-hoàn, không đọa vào ác pháp,
nhất định đã đạt đến chánh giác, nhiều lắm là bảy lần thọ
sanh. Sau bảy lần qua lại thiên thượng, nhân gian thì đạt đến
tận cùng sự khổ’. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe
người khác kể lại rằng: ‘Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì
giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như
vậy’. Nghe xong, Tỳ-kheo-ni kia nhớ rằng: Tỳ-kheo-ni ấy có tín
tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như
vậy, trí tuệ như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này
rồi, Tỳ-kheo-ni kia có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như
vậy. Này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo-ni đó chắc chắn có sự sai giáng
an lac trụ chỉ.
“Này A-na-luật-đà, nếu vị Ưu-bà-tắc nào nghe vị
Ưu-bà-tắc ấy lâm chung ở chỗ ấy, được Phật ghi nhận đã dứt
sạch năm hạ phần kiết, sanh vào chỗ kia mà nhập Niết-bàn, đắc
pháp bất thối, không còn trở lại thế gian này nữa. Hoặc tận
mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng:
‘Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng
như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Nghe xong, vị
Ưu-bà-tắc kia nhớ rằng: Vị Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm như vậy,
trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ
như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này, vị Ưu-bà-tắc
kia có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này
A-na-luật-đà, như vậy vị Ưu-bà-tắc kia chắc chắc được phần nào
sống trong sự an lạc.
“Lại nữa, này A-na-luật-đà, Ưu-bà-tắc nào nghe
vị Ưu-bà-tắc ấy lâm chung ở chỗ ấy, được Phật ghi nhận dứt
sạch ba kiết, đã làm mỏng dâm, nộ, si; chỉ một lần qua lại
thiên thượng, nhân gian. Sau một lần qua lại ấy thì đạt đến
tận cùng sự khổ. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe
người khác kể lại rằng ‘Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm như vậy, trì
giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như
vậy’. Nghe xong, Ưu-bà-tắc kia nhớ rằng: Vị Ưu-bà-tắc ấy có
tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí
như vậy, trí tuệ như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh
này, vị Ưu-bà-tắc kia có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy,
như vậy. Này A-na-luật-đà, vị Ưu-bà-tắc đó chắc chắn được phần
nào sống trong sự an lạc.
“Lại nữa, này A-na-luật-đà, Ưu-bà-tắc nào nghe
Ưu-bà-tắc kia lâm chung ở chỗ ấy, được Phật ghi nhận đã dứt
sạch ba kiết sử, đắc Tu-đà-hoàn, đã đoạn ác pháp, nhất định sẽ
đạt đến chánh giác, nhiều lắm là bảy lần thọ sanh nữa. Sau bảy
lần qua lại thiên thượng, nhân gian thì đạt đến tận cùng sự
khổ. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác
kể lại rằng: ‘Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm như vậy, trì giới như
vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Nghe
xong, Ưu-bà-tắc kia nhớ lại rằng: Vị Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm
như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy,
trí tuệ như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này, vị
Ưu-bà-tắc kia có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như
vậy... Này A-na-luật-đà, vị Ưu-bà-tắc đó chắc chắn được phần
nào sống trong sự an lạc.
“Này A-na-luật-đà, nếu Ưu-bà-tư nào nghe vị
Ưu-bà-tư ấy lâm chung nơi ấy, được Phật ghi nhận dứt sạch năm
hạ phần kiết, sanh vào nơi kia mà nhập Niết-bàn, đắc pháp bất
thối, không còn trở lại thế gian này nữa. Hoặc tận mắt trông
thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: ‘Ưu-bà-tư ấy
có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí
như vậy, trí tuệ như vậy’. Nghe xong, Ưu-bà-tư đó nhớ lại
rằng: Vị Ưu-bà-tư ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học
rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy. Sau khi nghe
Pháp Luật chân chánh này, vị Ưu-bà-tư đó có thể tâm nguyện tu
tập theo như vậy, như vậy... Này A-na-luật-đà, vị Ưu-bà-tư đó
chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
“Lại nữa, này A-na-luật-đà, Ưu-bà-tư nào nghe
Ưu-bà-tư đó lâm chung ở nơi ấy, được Phật ghi nhận đã dứt sạch
ba phần kiết, làm mỏng dâm, nộ, si; chỉ một lần qua lại thiên
thượng, nhân gian. Sau một lần qua lại ấy thì đạt đến tận cùng
sự khổ. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nghe người khác kể lại
rằng: ‘Ưu-bà-tư ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học
rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Nghe xong,
Ưu-bà-tư kia nhớ rằng: Ưu-bà-tư ấy có tín tâm như vậy, trì
giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như
vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này, Ưu-bà-tư đó có thể
tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy... Này A-na-luật-đà,
vị Ưu-bà-tư đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
“Lại nữa, này A-na-luật-đà, vị Ưu-bà-tư nào
nghe vị Ưu-bà-tư đó lâm chung ở nơi ấy, được Phật ghi nhận đã
dứt sạch ba kiết, chứng Tu-đà-hoàn, không còn đọa vào ác pháp,
nhất định sẽ đến chánh giác, nhiều lắm là bảy lần thọ sanh.
Sau bảy lần qua lại thiên thượng, nhân gian thì đạt đến tận
cùng sự khổ. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe
người khác kể lại rằng: ‘Ưu-bà-tư ấy có tín tâm như vậy, trì
giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như
vậy’. Nghe xong, Ưu-bà-tư ấy nhớ lại rằng: Ưu-bà-tư ấy có tín
tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như
vậy, trí tuệ như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này,
Ưu-bà-tư ấy có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy...
Này A-na-luật-đà, vị Ưu-bà-tư ấy chắc chắn được phần nào sống
trong sự an lạc.
“Này A-na-luật-đà, Như Lai vì những thiện lợi
ấy nên khi đệ tử lâm chung ghi nhận vị này sẽ sanh vào chỗ
này, vị kia sẽ sanh vào chỗ kia”.
Phật thuyết như vậy Tôn giả A-na-luật-đà và các
Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli
M.68. Naḷakapāna-sutta.
-
[02] Sa-kê-đế. Pāli:
Sāketa, một thị trấn lớn của Kosala, cách Sāvatthi chừng bảy
dặm.
-
[03] Thanh lâm. Pāli,
có lẽ: Palāsavana. Bản Pāli: Kosalesu, Naakapāne Palāsavane,
trú Kosala, thôn Nalapāna, rừng Palāsa.
-
[04] Xem
Kinh số 72 ở trước và
Kinh số 185 ở sau.
-
[05] Hữu sở trừ, sở
dụng, sở kham, sở chỉ, sở thổ. Pāli: sakhāyeka paisevati
sakhāyeka adhivāsati sakhāyeka parivajjati sakhāyeka vinodeti:
sau kki tư duy, thọ dụng một pháp; sau khi tư duy, nhẫn thọ
(chấp nhận) một pháp; sau khi tư duy, xả ly một pháp; sau khi
tư duy, bài trừ một pháp.
-
[06] Hán: sai giáng
an lạc trụ chỉ. Xem cht.20,
Kinh số 72