- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 07. PHẨM TRƯỜNG THỌ VƯƠNG
-
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn
Cấp cô độc.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ta sẽ nói cho các ngươi nghe về pháp chân nhân, và pháp không
phải chân nhân[02].
Hãy lắng nghe, hãy khéo tư niệm”.
Các Tỳ-kheo thọ giáo lắng nghe.
Phật nói:
“Thế nào là pháp không phải chân nhân? Ở đây có một người thuộc
dòng dõi hào quý, xuất gia học đạo và những người khác thì không
như vậy. Người ấy nhân vì dòng dõi hào quý mà quý mình khinh
người. Đó gọi là pháp không phải chân nhân. Pháp chân nhân xét
nghĩ như thế này: ‘Ta không phải nhân bởi dòng dõi hào quý mà
đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có người nào đó không phải dòng
dõi hào quý mà xuất gia học đạo, thực hành pháp như pháp, tùy
thuận pháp, hướng đến pháp và thứ pháp[03],
do đó mà được cúng dường, cung kính’. Như vậy, vị này thú hướng
sự chứng đắc pháp chân đế nhưng không quý mình, không khinh
người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người đoan chánh, khả ái, những người khác
không được như vậy. Người kia nhân vì mình đoan chánh, khả ái mà
quý mình khinh người. Đó gọi là pháp không phải chân nhân. Pháp
chân nhân xét nghĩ như thế này: ‘Ta không phải do vẻ đoan chánh
khả ái này mà đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có người nào đó
không đoan chánh khả ái nhưng thực hành pháp như pháp, tùy thuận
pháp, hướng pháp, thứ pháp, do đó được cúng dường cung kính’.
Như vậy vị này thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế, nhưng không
quý mình khinh người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có một người hùng biện, luận giỏi, những người
khác không được như vậy. Người kia nhân vì hùng biện, luận giỏi
mà quý mình khinh người. Đó gọi là điều của kẻ không phải chân
nhân. Pháp chân nhân xét nghĩ như thế này: ‘Ta không phải do tài
hùng biện, luận giỏi này mà đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có
người nào đó không có tài hùng biện, luận giỏi, nhưng người ấy
thực hành pháp như pháp, tùy thuận pháp, hướng pháp, thứ pháp,
do đó mà được cúng dường cung kính’. Như vậy, vị này thú hướng
sự chứng đắc pháp chân đế, nhưng không quý mình, không khinh
người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người thuộc hàng Trưởng lão, quen biết với
vua, nổi tiếng với mọi người và có đại phước, những người khác
không được như vậy. Người kia nhân vì là Trưởng lão, vì quen
biết với vua, vì nổi tiếng với mọi người và có đại phước mà quý
mình khinh người. Đó gọi là pháp không phải chân nhân. Pháp chân
nhân xét nghĩ như thế này: ‘Ta không phải do Trưởng lão, không
phải do quen biết với vua, nổi tiếng với mọi người và có đại
phước mà đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có người nào đó không
phải là Trưởng lão, không quen biết với vua, không nổi tiếng với
mọi người và cũng không có đại phước, nhưng người ấy thực hành
pháp như pháp, tùy thuận pháp, hướng pháp, thứ pháp, do đó mà
được cúng dường cung kính’. Như vậy, vị này thú hướng sự chứng
đắc pháp chân đế, nhưng không quý mình, không khinh người. Đó
gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người tụng kinh, trì luật, học A-tỳ-đàm[04],
thuộc làu A-hàm[05],
học nhiều kinh sách, người khác không được như vậy. Người kia
nhân vì thuộc làu A-hàm, học nhiều kinh sách nên quý mình khinh
người. Đó gọi là pháp không phải chân nhân. Pháp chân nhân xét
nghĩ như thế này: ‘Ta không phải do thuộc làu A-hàm, học nhiều
kinh sách mà đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có người nào đó
không thuộc làu A-hàm, cũng không học nhiều kinh sách, nhưng
người ấy thực hành pháp như pháp, tùy thuận pháp, hướng pháp,
thứ pháp, do đó mà được cúng dường cung kính’. Như vậy, vị này
thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế, nhưng không quý mình, không
khinh người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người mặc y phấn tảo, nhiếp ba pháp phục, trì
y bất mạn[06],
người khác không được như vậy. Người kia nhân vì trì y bất mạn
nên quý mình khinh người. Đó gọi là pháp không phải chân nhân.
Pháp chân nhân xét nghĩ như thế này: ‘Ta không phải do trì y bất
mạn này mà đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có người nào đó không
trì y bất mạn nhưng thực hành pháp như pháp, tùy thuận pháp,
hướng pháp, thứ pháp, do đó mà được cúng dường cung kính’. Như
vậy, vị này thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế, nhưng không quý
mình, không khinh người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người thường đi khất thực, cơm chỉ ngang bằng
năm thăng, chỉ khất thực hạn cuộc nơi bảy nhà, chỉ ăn một bữa,
quá giờ ngọ không uống nước trái cây[07],
người khác không được như vậy. Người kia nhân vì quá giờ ngọ
không uống nước trái cây mà quý mình khinh người. Đó gọi là pháp
không phải chân nhân. Pháp thượng nhân xét nghĩ như thế này: ‘Ta
không phải do sự quá giờ ngọ không uống nước trái cây này mà
đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có người nào đó không dứt bỏ sự
quá giờ ngọ uống nước trái cây, nhưng người ấy thực hành pháp
như pháp, tùy thuận pháp, hướng pháp, thứ pháp, do đó mà được
cúng dường cung kính’. Như vậy, vị này thú hướng sự chứng đắc
pháp chân đế, nhưng không quý mình, không khinh người. Đó gọi là
pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người ở chỗ rừng vắng sơn lâm, dưới gốc cây,
hoặc ở núi cao hay nơi đất trống, hoặc nơi gò mả, hoặc có thể
biết thời; người khác không được như vậy. Người kia nhân vì biết
thời mà quý mình khinh người. Đó không phải là pháp chân nhân.
Pháp chân nhân xét nghĩ như thế này: ‘Ta không phải do sự biết
thời này mà đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có người nào đó
không biết thời nhưng người ấy thực hành pháp như pháp, tùy
thuận pháp, hướng pháp, thứ pháp, do đó mà được cúng dường cung
kính’. Như vậy, vị này thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế,
nhưng không quý mình, không khinh người. Đó gọi là pháp chân
nhân.
“Lại nữa, hoặc có người vừa được Sơ thiền; người kia nhân vì
được Sơ thiền mà quý mình khinh người. Đó gọi là pháp không phải
chân nhân. Pháp chân nhân xét nghĩ như thế này: ‘Về Sơ thiền,
Đức Thế Tôn nói là vô lượng chủng loại, nếu có kế chấp thì gọi
là ái[08]
vậy. Do đó người ấy được cúng dường cung kính’. Như vậy, vị này
thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế, nhưng không quý mình, không
khinh người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người được đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền; được
Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ,
người khác không được như vậy. Người kia nhân vì được phi hữu
tưởng phi vô tưởng xứ nên quý mình khinh người. Đó gọi là pháp
không phải chân nhân. Pháp chân nhân xét nghĩ như thế này: ‘Phi
hữu tưởng phi vô tưởng, Đức Thế Tôn nói là vô lượng chủng loại,
nếu có kế chấp thì gọi đó là ái, do đó người ấy được cúng dường
cung kính’. Như vậy, vị này thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế,
nhưng không quý mình, không khinh người. Đó gọi là pháp chân
nhân.
“Các ngươi hãy nhận biết pháp chân nhân và pháp không phải chân
nhân. Sau khi biết được pháp thượng nhân và pháp không phải chân
nhân rồi, hãy dứt bỏ pháp không phải chân nhân và hãy học pháp
chân nhân”.
-
Giàu, đẹp trai, nói giỏi,
-
Trưởng lão, tụng nhiều kinh,
-
Y, thực, tu núi, thiền,
-
Sau cùng bố vô sắc.
-
“Các ngươi nên học như vậy”.
Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo nghe Đức Phật thuyết, hoan hỷ
phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli
M. 113. Sappurisa-suttaṃ. Biệt dịch, No.48.
-
[02] Chân nhân pháp;
No.18: hiền giả. Pāli: Sappurisa-dhamma, chân nhân pháp, thiện
nhân pháp thiện sĩ pháp.
-
[03] Hành pháp như
pháp, tùy thuận ư pháp, hướng pháp thứ pháp. Pāli:
dhammānudham-mapapanno sāmicīpaipannoanudhammacāri; là người
thực hành pháp và tùy pháp, thực hành chân chính, có hành vi tùy
thuận pháp.
-
[04] A-tỳ-đàm; thường
chỉ Luận tạng. Pāli: abhidhamma.
-
[05] Nguyên trong bản:
A-hàm-mộ, thường chỉ Kinh tạng. Pāli: āgama.
-
[06] Bất mạn y. Pāli:
amāna-cīvara, y không kiêu mạn, hay amanāpa-cīvara, y xấu xí?
-
[07] Bất ẩm tương.
-
[08] Ái;
Tống-Nguyên-Minh: thọ (chấp thủ). Pāli: pahamajjhānasamāpattiyā
pi kho atammayatā, sự chứng đạt Sơ thiền được nói là có tánh
không tham luyến.
|