- 07. PHẨM TRƯỜNG THỌ VƯƠNG
-
-
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật đến nước Xá-vệ, trong rừng
Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ Tôn giả A-nan vào lúc xế, từ chỗ ngồi
tĩnh tọa đứng dậy, dẫn các Tỳ-kheo niên thiếu đi đến chỗ Phật,
cúi lạy dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên. Các Tỳ-kheo niên
thiếu cũng cúi lạy chân Phật, rồi ngồi qua một bên.
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn, với các Tỳ-kheo niên thiếu
này, con phải quở trách như thế nào? Dạy dỗ như thế nào?
Thuyết pháp cho họ nghe như thế nào?
Đức Thế Tôn bảo rằng:
“Này A-nan, ông hãy nói về xứ[02]
và dạy về xứ cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu ông nói về xứ và
dạy về xứ cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được an ổn, được
sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu
hành phạm hạnh”.
Tôn giả A-nan chắp tay hướng về Phật, bạch
rằng:
“Bạch Thế Tôn, nay thật là đúng thời. Bạch
Thiện Thệ, nay thật là đúng thời. Nếu Thế Tôn nói về xứ và dạy
về xứ cho các Tỳ-kheo niên thiếu, con và các Tỳ-kheo niên
thiếu sau khi nghe Thế Tôn nói sẽ khéo léo thọ trì”.
Đức Thế Tôn bảo rằng
“A-nan, các ông hãy lắng nghe, hãy khéo tư
niệm. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho ông và các Tỳ-kheo niên
thiếu nghe”.
Tôn giả A-nan thọ giáo, lắng nghe.
Đức Thế Tôn bảo rằng:
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về năm
thủ uẩn[03]:
sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành và thức thủ uẩn. Này A-nan, năm
thủ uẩn này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu.
Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về năm thủ uẩn này,
họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không
phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu
nội xứ: nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. A-nan, sáu nội xứ
này ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và
dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu nội xứ này, họ sẽ được
an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt,
trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu
ngoại xứ: sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. A-nan, sáu
ngoại xứ này ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu.
Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu ngoại xứ này,
họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không
phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu
thức thân[04]:
nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức. A-nan, sáu thức thân
này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và
dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu thức thân này, họ sẽ
được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền
nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu
xúc thân[05]:
nhãn xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. A-nan, sáu xúc thân
này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và
dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu xúc thân này, họ sẽ được
an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền
nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu
thọ thân[06]:
nhãn thọ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thọ. A-nan, sáu thọ thân
này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và
dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu thọ thân này, họ sẽ được
an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt,
trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu
tưởng thân[07]:
nhãn tưởng, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tưởng. A-nan, sáu tưởng
thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu
nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu tưởng thân này,
họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không
phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu
tư thân[08]:
nhãn tư, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tư. A-nan, sáu tư thân này,
ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy
cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu tư thân này, họ sẽ được an
ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt,
trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu
ái thân[09]:
nhãn ái, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ái. Này A-nan, sáu ái thân
này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và
dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu ái thân này, họ sẽ được
an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền
nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu
giới: địa giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới. A-nan, sáu
giới này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu
nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu giới này, họ sẽ
được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền
nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về
nhân duyên khởi và nhân duyên khởi sở sanh pháp[10]:
‘Nếu có cái này thì có cái kia, nếu không có cái này thì không
có cái kia. Nếu sanh cái này thì sanh cái kia, nếu diệt cái
này thì diệt cái kia. Duyên vô minh, hành. Duyên hành, thức.
Duyên thức, danh sắc. Duyên danh sắc, sáu xứ. Duyên sáu xứ,
xúc. Duyên xúc, thọ. Duyên thọ, ái. Duyên ái, thủ. Duyên thủ,
hữu. Duyên hữu, sanh. Duyên sanh, già chết. Nếu vô minh diệt
thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc
diệt, danh sắc diệt thì sáu xứ diệt, sáu xứ diệt thì xúc diệt,
xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ
diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt
thì già chết diệt. A-nan, nhân duyên khởi và nhân duyên khởi
sở sanh pháp này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên
thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về nhân duyên
khởi và nhân duyên khởi sở sanh pháp này, họ sẽ được an ổn,
được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn
đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn
niệm xứ, quán thân như thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp như
pháp. A-nan, bốn niệm xứ này ông hãy nói để dạy cho các
Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu
về bốn niệm xứ này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an
lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn
chánh đoạn[11],
Tỳ-kheo đối với pháp ác bất thiện đã sanh, vì để đoạn trừ
chúng nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm,
đoạn trừ[12].
Đối với các pháp ác bất thiện chưa sanh, vì để chúng không
phát sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết
tâm, đoạn trừ. Đối với các pháp thiện chưa sanh, vì để cho
phát sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết
tâm, đoạn trừ. Đối với các pháp thiện đã sanh, vì để chúng
kiên trụ, không bị quên lãng, không bị thoái hóa, được bồi bổ
tăng tiến, được phát triển rộng rãi, được viên mãn cụ túc, nên
khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ.
A-nan, bốn chánh đoạn này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo
niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn
chánh đoạn này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc,
thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn
như ý túc[13],
Tỳ-kheo thành tựu dục định, thiêu đốt các hành[14],
tu tập như ý túc[15],
nương vào vô dục, nương vào viễn ly, nương vào diệt, nguyện
đến phi phẩm[16].
Tinh tấn định, tâm định cũng như vậy. Thành tựu quán định,
thiêu đốt các hành, tu tập như ý túc, nương vào dô vục, nương
vào viễn ly, nương vào diệt, nguyện đến phi phẩm. Này A-nan,
bốn như ý túc này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên
thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn như ý
túc này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm
không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về Tứ
thiền, Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện cho đến được đệ Tứ
thiền, thành tựu an trụ. Này A-nan, Tứ thiền này, ông hãy nói
để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các
Tỳ-kheo niên thiếu về Tứ thiền này, họ sẽ được an ổn, được sức
lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu
hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe vềà
bốn Thánh đế, Khổ thánh đế, Tập, Diệt và Đạo thánh đế. A-nan,
bốn Thánh đế này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên
thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn thánh
đế này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm
không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn
tưởng, Tỳ-kheo có tiểu tưởng, có đại tưởng, có vô lượng tưởng,
có vô sở hữu tưởng[17].
A-nan, bốn tưởng này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên
thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn tưởng
này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm
không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn
vô lượng, Tỳ-kheo tâm đi đôi với Từ biến mãn một phương, thành
tựu an trụ. Cứ như thế, hai phương, ba phương, bốn phương, tứ
duy, trên dưới biến khắp tất cả, tâm đi đôi với Từ, không kết,
không oán, không sân nhuế, không tranh, vô cùng rộng lớn, vô
lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an
trụ. Bi và Hỷ cũng vậy. Tâm đi đôi với Xả, không kết, không
oán, không sân nhuế, không tranh, vô cùng rộng lớn, vô lượng,
khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ.
A-nan, bốùn vô lượng này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo
niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn
vô lượng này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc,
thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn
vô sắc, Tỳ-kheo đoạn trừ tất cả sắc tưởng, cho đến chứng đắc
phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trụ. A-nan, bốn vô
sắc này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu
nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn vô sắc này, họ sẽ
được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền
nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn
Thánh chủng, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nhận được cái y thô xấu mà
biết hài lòng, tri túc, không phải vì y áo mà mong thỏa mãn ý
mình. Nếu chưa được y thì không u uất, không khóc than, không
đấm ngực, không si dại. Nếu đã được y áo thì không nhiễm,
không trước, không ham muốn, không tham lam, không cất giấu,
không tích trữ. Khi dùng y thì thấy rõ tai hoạn và biết sự
xuất ly. Được sự lợi như vậy vẫn không giải đãi mà có chánh
trí. Đó là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chân chánh an trụ nơi Thánh
chúng cựu truyền[18].
Về ẩm thực và trụ xứ cũng như vậy. Mong muốn đoạn trừ, vui
thích đoạn trừ, mong muốn tu, vui thích tu. Vị ấy nhân muốn
đoạn, vui đoạn, muốn tu, vui tu nên không quý mình, không
khinh người. Sự lợi như vậy, không giải đãi nhưng chánh trí.
Đó gọi là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chân chánh an trụ nơi Thánh
chúng cựu truyền.
“A-nan, bốn Thánh chủng này, ông hãy nói để dạy
cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo
niên thiếu về bốn Thánh chúng này, họ sẽ được an ổn, được sức
lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành
phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn
quả Sa-môn, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, tối thượng
A-la-hán quả. A-nan, bốn quả Sa-môn này, ông hãy nói để dạy
cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo
niên thiếu về bốn quả Sa-môn này, họ sẽ được an ổn, được sức
lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành
phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về năm
thục giải thoát tưởng[19]:
tưởng về vô thường, tưởng vì vô thường cho nên khổ, tưởng khổ
cho nên vô ngã, tưởng bất tịnh ố lộ[20],
tưởng hết thảy thế gian không có gì đáng ái lạc[21].
A-nan, năm thục giải thoát này, ông hãy nói để dạy cho các
Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu
về năm thục giải thoát tưởng này, họ sẽ được an ổn, được sức
lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành
phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về năm
giải thoát xứ. Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chưa giải thoát thì nhờ
ở đây mà tâm được giải thoát[22].
Nếu chưa tận trừ các lậu thì sẽ được tận trừ hoàn toàn. Nếu
chưa chứng đắc vô thượng Niết-bàn thì sẽ chứng đắc vô thượng
Niết-bàn. Thế nào là năm? A-nan, Thế Tôn thuyết pháp cho
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe, các bậc trí phạm hạnh cũng thuyết
pháp cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe. A-nan, nếu Thế Tôn thuyết
pháp cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe, các bậc trí phạm hạnh cũng
thuyết pháp cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe; họ nghe pháp rồi
thấu hiểu pháp, thấu hiểu nghĩa, và do sự thấu hiểu pháp, thấu
hiểu nghĩa đó nên được hoan duyệt, nhân hoan duyệt mà được
hoan hỷ. Nhân hoan hỷ mà được thân khinh an[23].
Do thân khinh an nên được cảm thọ lạc. Do cảm thọ lạc nên được
tâm định. A-nan, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nhân tâm định nên được
thấy như thật, biết như thật. Do thấy như thật, biết như thật
nên phát sanh sự nhàm tởm. Do nhàm tởm nên được vô dục. Do vô
dục nên được giải thoát. Do giải thoát mà biết là mình giải
thoát, biết một cách như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh
đã lập, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau
nữa’. A-nan, đó là giải thoát xứ thứ nhất. Nhân đó mà nếu
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chưa được giải thoát, chưa tận trừ các lậu
thì được tận trừ hoàn toàn, chưa chứng đắc vô thượng Niết-bàn
thì chứng đắc vô thượng Niết-bàn. Lại nữa, này A-nan, nếu
trong trường hợp Thế Tôn không có thuyết pháp cho Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni nghe, các bậc trí phạm hạnh cũng không thuyết pháp
cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe, nhưng họ theo những điều đã
nghe, đã tụng tập và đọc tụng rộng rãi. Nếu không đọc tụng
rộng rãi những điều đã nghe, đã tụng đọc nhưng họ chỉ tùy theo
điều đã nghe, đã tụng tập, nói lại rộng rãi cho người khác
nghe. Nếu không nói rộng rãi cho người khác nghe những điều đã
nghe, đã tụng tập, nhưng họ chỉ tùy theo điều đã nghe, đã tụng
tập mà tư duy, phân biệt. Nếu không tư duy phân biệt những
điều đã nghe, đã tụng tập, nhưng họ chỉ thọ trì các tướng
tam-muội. A-nan, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni khéo thọ trì các
tướng tam muội thì thấu hiểu pháp, thấu hiểu nghĩa. Do thấu
hiểu pháp, thấu hiểu nghĩa nên được hoan duyệt. Do hoan duyệt
nên hoan hỷ. Do hoan hỷ nên được thân khinh an. Do thân khinh
an nên được cảm thọ lạc. Do cảm thọ lạc nên được tâm định.
A-nan, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nhân tâm định nên được thấy như
thật, biết như thật. Do thấy như thật, biết như thật nên phát
sanh nhàm tởm. Do nhàm tởm nên được vô dục. Do vô dục nên được
giải thoát. Do giải thoát mà biết là mình đã giải thoát, biết
một cách như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững,
điều đáng làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa’.
Này A-nan, đó là giải thoát xứ thứ năm, nhân đó mà nếu
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chưa được giải thoát thì được tâm giải
thoát, chưa dứt sạch các lậu thì được dứt sạch trọn vẹn, chưa
chứng đắc vô thượng Niết-bàn thì chứng đắc vô thượng Niết-bàn.
A-nan, năm giải thoát xứ này ông hãy nói để dạy cho các
Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu
về năm giải thoát xứ này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được
an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm
hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về năm
căn, tín, tinh tấn, niệm, định và tuệ căn. A-nan, năm căn này,
ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy
cho các Tỳ-kheo niên thiếu về năm căn này, họ sẽ được an ổn,
được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn
đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về năm
lực, tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ lực. A-nan, năm lực này,
ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy
cho các Tỳ-kheo niên thiếu về năm lực này, họ sẽ được an ổn,
được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn
đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về năm
xuất yếu giới[24].
Những gì là năm? A-nan, Đa văn Thánh đệ tử quán sát dục một
cách cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán sát dục
nên tâm không hướng theo dục, không vui say dục, không gần gũi
với dục, không quyết tâm[25]
nơi dục. Khi tâm dục vừa sanh, tức thì bị cháy tiêu, khô héo,
co rút lại, bị cuốn tròn lại chứ không được mở rộng ra, bị vứt
bỏ đi, không trụ nơi dục, chán ghét, nhàm tởm. A-nan, giống
như lông và gân của con gà bị đem quăng vào trong lửa, tức
khắc cháy tiêu, khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại chứ
không được mở rộng ra. A-nan, Đa văn Thánh đệ tử cũng vậy, cực
kỳ mãnh liệt quán sát dục. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán sát
dục nên tâm không hướng theo dục, không vui say trong dục,
không gần gũi với dục, không quyết tâm nơi dục. Khi tâm dục
vừa sanh, tức thì bị cháy tiêu, khô héo, co rút lại, bị cuốn
tròn lại chứ không được mở rộng ra. Vị ấy vứt bỏ, không trụ
nơi dục, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự dục. Vị ấy quán sát vô
dục, tâm hướng về vô dục, vui say vô dục, gần gũi vô dục,
quyết tâm nơi vô dục, tâm không bị chướng ngại, không ô trược,
tâm được an lạc, rất an lạc, viễn ly tất cả dục, viễn ly các
lậu và các thứ phiền nhọc, ưu sầu do dục mà có, giải chúng,
thoát chúng và lại giải thoát khỏi chúng. Vị ấy không còn nhận
lãnh các cảm thọ ấy nữa, tức các cảm thọ sanh ra bởi dục. Như
vậy, đó là sự xuất ly khỏi dục. A-nan, đó là xuất yếu giới thứ
nhất. A-nan, Đa văn Thánh đệ tử quán sát sân nhuế cực kỳ mãnh
liệt. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán sát sân nhuế nên tâm
không hướng theo sân nhuế, không vui say trong sân nhuế, không
gần gũi với sân nhuế, không quyết tâm nơi sân nhuế. Khi tâm
sân nhuế vừa sanh, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô héo, co rút
lại, bị cuốn tròn lại chứ không được nở rộng ra, bị vứt bỏ di.
Vị ấy không trụ nơi sân nhuế, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự sân
nhuế. A-nan, giống như lông và gân của con gà bị đem quăng vào
trong lửa, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô rút lại, bị cuốn tròn
lại chứ không được nở rộng ra. A-nan, Đa văn Thánh đệ tử cũng
vậy, cực kỳ mãnh liệt quán sát sân nhuế. Vị ấy do cực kỳ mãnh
liệt quán sát sân nhuế nên tâm không hướng theo nhuế, không
vui say nhuế, không quyết định nơi nhuế. Tâm nhuế vừa sanh,
tức khắc bị cháy tiêu, bị khô rút, bị cuốn tròn chứ không nở
rộng ra được, bị vứt bỏ đi, vị ấy không an trụ nơi nhuế, chán
ghét, nhàm tởm, chế ngự nhuế. Vị ấy quán sát vô nhuế, tâm
hướng về vô nhuế, vui say vô nhuế, gần gũi vô nhuế, quyết định
nơi vô nhuế, tâm không bị chướng ngại, không ô trược, tâm được
an lạc, rất an lạc, viễn ly dục nhuế, viễn ly các lậu và các
thứ phiền nhọc, ưu sầu do nhuế mà có, thoát chúng, giải chúng
và lại giải thoát khỏi chúng. Vị ấy không còn nhận lãnh cảm
thọ này nữa, tức cảm thọ sanh ra bởi nhuế. Như vậy, đó là sự
xuất ly khỏi nhuế. A-nan, đó là xuất yếu giới thứ hai. Lại
nữa, A-nan, Đa văn Thánh đệ tử quán sát một cách cực kỳ mãnh
liệt não hại. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán sát hại nên tâm
không hướng theo hại, không vui say hại, không gần gũi với
hại, không quyết định nơi hại. Khi tâm hại vừa sanh, tức khắc
bị cháy tiêu, bị khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại chứ
không được nở rộng ra, bị vứt bỏ đi. Vị ấy không trụ nơi hại,
chán ghét, nhàm tởm, chế ngự não hại. A-nan, giống như lông và
gân của con gà bị đem quăng vào trong lửa, tức khắc bị cháy
tiêu, bị khô, bị cuốn tròn lại chứ không được nở rộng ra.
A-nan, Đa văn Thánh đệ tử cũng vậy, cực kỳ mãnh liệt quán sát
não hại. Vị ấy do cực kỳ quán sát não hại nên tâm không hướng
theo hại, không vui say hại, không gần gũi với hại, không
quyết định nơi hại. tâm hại vừa sanh, tức khắc bị cháy tiêu,
bị khô rút, bị cuốn tròn chứ không nở rộng ra được, bị vứt bỏ
đi. Vị ấy không an trụ nơi hại, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự
hại. Vị ấy quán sát vô hại, tâm hướng về vô hại, vui say vô
hại, gần gũi vô hại, quyết định nơi vô hại, tâm không bị
chướng ngại, không ô trược, tâm được an lạc, rất an lạc, viễn
ly dục hại, viễn ly các lậu và các thứ phiền nhọc, ưu sầu do
hại mà có, thoát chúng, giải chúng và lại giải thoát khỏi
chúng. Vị ấy không còn nhận lãnh cảm thọ này nữa, tức cảm thọ
sanh ra bởi hại. Như vậy, đó là sự xuất ly khỏi hại. A-nan, đó
là xuất yếu giới thứ ba. Lại nữa, A-nan, Đa văn Thánh đệ tử
quán sát sắc cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán
sát sắc nên tâm không hướng theo sắc, không vui say trong sắc,
không gần gũi với sắc, không quyết định nơi sắc. Khi tâm sắc
vừa sanh, tức thì bị cháy tiêu, bị khô héo, co rút lại, bị
cuốn tròn lại chứ không được nở rộng ra, bị vứt bỏ đi. Vị ấy
không trụ nơi sắc, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự sắc. A-nan,
giống như lông và gân của con gà bị đem quăng vào trong lửa,
tức khắc bị cháy tiêu, bị khô, bị cuốn tròn lại chứ không được
nở rộng ra. A-nan, Đa văn Thánh đệ tử cũng vậy, cực kỳ mãnh
liệt quán sát sắc. Vị ấy do cực kỳ quán sát sắc nên tâm không
hướng theo sắc, không vui say sắc, không gần gũi với sắc,
không quyết định nơi sắc. Tâm sắc vừa sanh, tức khắc bị cháy
tiêu, bị khô rút, bị cuốn tròn chứ không nở rộng ra được, bị
vứt bỏ đi. Vị ấy không an trụ nơi sắc, chán ghét, nhàm tởm,
chế ngự sắc. Vị ấy quán sát vô sắc, tâm hướng về vô sắc, vui
say vô sắc, gần gũi vô sắc, quyết định nơi vô sắc, tâm không
bị chướng ngại, không ô trược, tâm được an lạc, rất an lạc,
viễn ly dục sắc, viễn ly các lậu và các thứ phiền nhọc, ưu sầu
do sắc mà có, thoát chúng, giải chúng và lại giải thoát khỏi
chúng. Vị ấy không còn nhận lãnh cảm thọ này nữa, tức cảm thọ
sanh ra bởi sắc. Như vậy, đó là sự xuất ly khỏi sắc. A-nan, đó
là xuất yếu giới thứ tư. Lại nữa, A-nan, Đa văn Thánh đệ tử
hết sức thận trọng khéo léo, quán sát tự thân một cách cực kỳ
mãnh liệt. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán sát tự thân nên tâm
không hướng theo tự thân, không vui say trong tự thân, không
gần gũi với tự thân, không quyết định nơi tự thân. Khi tự thân
vừa sanh, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô héo, co rút lại, bị
cuốn tròn lại chứ không được nở rộng ra, bị vứt bỏ đi. Vị ấy
không trụ nơi thân, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự tự thân.
A-nan, giống như lông và gân của con gà bị đem quăng vào trong
lửa, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô, bị cuốn tròn lại chứ không
được nở rộng ra. A-nan, Đa văn Thánh đệ tử cũng vậy, cực kỳ
mãnh liệt quán sát tự thân. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán sát
tự thân nên tâm không hướng theo thân, không vui say thân,
không quyết định nơi thân. Tự thân vừa sanh, tức khắc bị cháy
tiêu, bị khô rút, bị cuốn tròn chứ không nở rộng ra được, bị
vứt bỏ đi. Vị ấy không an trụ nơi thân, chán ghét, nhàm tởm,
chế ngự thân. Vị ấy quán sát vô thân, tâm hướng về vô thân,
vui say vô thân, gần gũi vô thân, quyết định vô thân, tâm
không bị chướng ngại, không ô trược, tâm được an lạc, rất an
lạc; viễn ly dục thân, viễn ly các lậu và các thứ phiền nhọc,
ưu sầu do thân mà có, thoát chúng, giải chúng và lại giải
thoát khỏi chúng. Vị ấy không còn nhận lãnh cảm thọ này nữa,
tức cảm thọ sanh ra bởi thân. Như vậy, đó là sự xuất ly khỏi
thân. A-nan, đó là xuất yếu giới thứ năm. A-nan, năm xuất yếu
giới này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu
nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về năm xuất yếu giới
này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm
không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bảy
tài sản, tín, giới, tàm, quý, văn, thí và tuệ tài. A-nan, bảy
tài sản này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu.
Nếu nói và dạy bảy tài sản này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ
sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền
nhiệt, trọn đời tu phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bảy
lực, tín, tinh tấn, tàm, quý, niệm, định, tuệ lực. A-nan, bảy
lực này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu
nói và dạy bảy lực này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được
an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt,
trọn đời tu hành phạm hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bảy
giác chi, niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an[26],
định, xả giác chi. A-nan, bảy giác chi này, ông hãy nói để dạy
cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy bảy giác chi này
cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được an ổn, được sức lực,
được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm
hạnh.
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về
Thánh đạo tám chi, chánh kiến, chánh tư duy[27],
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn[28],
chánh niệm, chánh định. Đó là tám. A-nan, Thánh đạo tám chi
này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và
dạy tám chi Thánh đạo này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ
được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền
nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh”.
Lúc ấy, Tôn giả A-nan chắp tay hướng về Phật,
bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu!
Đức Thế Tôn đã nói về xứ và dạy về xứ cho các Tỳ-kheo niên
thiếu”.
Đức Thế Tôn bảo:
“Này A-nan, thật vậy, thật vậy! Thật là kỳ
diệu, thật là hy hữu, Ta nói về xứ và dạy về xứ cho các
Tỳ-kheo niên thiếu. Này A-nan, nếu ông lại hỏi về đảnh pháp và
đảnh pháp thối[29]
từ nơi Như Lai thì ông hết sức tin tưởng, hoan hỷ đối với Như
Lai”.
Bấy giờ Tôn giả A-nan chắp tay hướng về Phật,
bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, nay thật đúng thời. Bạch Thiện
Thệ, nay thật đúng thời. Nếu Thế Tôn nói và dạy về đảnh pháp
và đảnh pháp thối cho các Tỳ-kheo niên thiếu thì con và các
Tỳ-kheo niên thiếu từ Đức Thế Tôn nghe xong sẽ khéo léo thọ
trì”.
Đức Thế Tôn bảo:
“Này A-nan, các ông hãy lắng nghe. Hãy khéo tự
niệm. Ta sẽ nói về đảnh pháp và đảnh pháp thối cho ông và các
Tỳ-kheo niên thiếu nghe”.
Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo niên thiếu thọ trì
lắng nghe.
Đức Thế Tôn bảo rằng[30]:
“A-nan, Đa văn Thánh đệ tử chân thật, nhân nơi
tâm tư niệm[31],
tư lương, khéo quán sát, phân biệt về vô thường, khổ, không,
phi ngã. Vị ấy khi tư niệm như vậy, tư lương như vậy, khéo
quán sát, phân biệt như vậy, liền phát sanh nhẫn, phát sanh
lạc, phát sanh dục, tức mong cầu nghe, mong cầu niệm, mong cầu
quán[32].
Này A-nan, ấy gọi là đảnh pháp.
“A-nan, nếu được đảnh pháp này nhưng lại mất
đi, suy thoái, không tu thủ hộ, không tập tinh tấn, này A-nan,
ấy gọi là đảnh pháp thối[33].
Cũng vậy, đối với thức nội xứ, thức ngoại xứ, xúc, thọ, tưởng,
tư, ái, giới, nhân duyên khởi và nhân duyên khởi pháp[34]
cũng như vậy.
“A-nan, Đa văn Thánh đệ tử đối với nhân duyên
khởi và nhân duyên khởi pháp này mà tư niệm, tư lương, khéo
quán sát, phân biệt về vô thường, khổ, không, phi ngã, vị ấy
khi tư niệm như vậy, tư lương như vậy, khéo quán sát, phân
biệt như vậy nên phát sanh nhẫn, phát sanh lạc, phát sanh dục,
tức mong cầu nghe, mong cầu niệm, mong cầu quán. A-nan, đó gọi
là đảnh pháp.
“A-nan, nếu được đảnh pháp này nhưng lại mất
đi, suy thoái, không tu thủ hộ, không tập tinh tấn, này A-nan,
ấy gọi là đảnh pháp thối. A-nan, đảnh pháp và đảnh pháp thối
này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và
dạy đảnh pháp và đảnh pháp thối này cho các Tỳ-kheo niên
thiếu, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm
không phiền nhiệt, trọn đời tu phạm hạnh.
“A-nan, Ta đã nói về xứ, dạy về xứ, về đảnh
pháp, đảnh pháp thối cho các ông nghe, như vị Tôn sư vì đệ tử
nên khởi lòng đại từ ái, lân niệm, mẫn thương mà mong cầu sự
thiện lợi và hữu ích, mong cầu an ổn, khoái lạc. Ta đã thực
hiện như vậy, các ông cũng nên tự chính mình thực hiện. Hãy
đến nơi rừng vắng, nơi núi rừng, dưới gốc cây, chỗ an tĩnh
không nhàn, tĩnh tọa tư duy, không được phóng dật, siêng năng
tinh tấn, đừng để ân hận về sau. Đây là lời giáo sắc của Ta,
là lời huấn thị của Ta”.
Phật thuyết như vậy. Tôn giả A-nan và các
Tỳ-kheo niên thiếu nghe lời Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
Uẩn, nội, ngoại, thức, xúc,
-
Thọ, tưởng, tư, ái, giới;
-
Nhân duyên, niệm, chánh đoạn,
-
Như ý, thiền, đế tưởng,
-
Vô lượng, vô sắc chủng,
-
Sa-môn quả, giải thoát,
-
Xứ, căn, lực, xuất yếu,
-
Tài, lực, giác, đạo, danh[35].
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli
M.148. Chachakka-sutta.
-
[02] Xứ, gồm sáu nội
xứ và sáu ngoại xứ. Pāli: cha ajjhattikāni āyatanāni, cha
bāhirāni āyatanāni.
-
[03] Ngũ thạnh ấm.
-
[04] Thức thân. Pāli:
viññāa-kāya.
-
[05] Nguyên Hán: cánh
lạc thân. Pāli: phassa-kāya.
-
[06] Nguyên Hán: giác
thân. Pāli: vedanā-kāya.
-
[07] Tưởng thân.
Pāli: saññākāya.
-
[08] Tư thân; đồng
nghĩ với hành uẩn. Pāli: sañcetanā-kāya.
-
[09] Ái thân. Pāli:
tahā-kāya.
-
[10] Nhân duyên khởi
và nhân duyên khởi pháp, hay duyên khởi, duyên khởi pháp; lý
duyên khởi và pháp do duyên khởi. Bản Pāli không đề cập, nhưng
các từ tương đương là paicca-sammuppāda, và paicca-sammuppannā
dhammā.
-
[11] Bốn chánh đoạn,
tức bốn chánh cần. Pāli: sammappadhāna.
-
[12] Khởi dục, cầu
phương tiện hành, tinh cần, cử tâm, đoạn. Tham chiếu, Tập Dị
Môn luận, Đại 26, tr.391c: khởi dục, phát cần, tinh tấn, sách
tâm, trì tâm. Pāli: chanda janeti vāyamati viriya ārabhati
citta paggahati padahati.
-
[13] Bốn như ý túc,
cũng nói là bốn thần túc. Pāli: cattaro iddhipādā.
-
[14] Thiêu chư hành.
Pāli: padhāna-sakhāra, xem chú thích dưới.
-
[15] Dịch sát văn
Hán. Tham chiếu, Tập Dị Môn luận, nt.: dục tam-ma-địa đoạn
hành (hay thắng hành) thành tựu thần túc Pāli: chanda-
samādhi- padhānā-saṃkhāra- samannāgataṃ iddhipādaṃ, thần túc
được thành tựu bằng tác động tinh cần tập trung vào sự (đối
tượng) ước muốn.
-
[16] Nguyện chí phi
phẩm; không rõ ý. So kinh số 206 ở sau, cùng vấn đề: y ly, y
vô dục, y diệt, y xả, thú hướng phi phẩm.
-
[17] Xem giải thích,
Tập Dị 6, Đại 26, trang 392 a-b.
-
[18] Hán: cựu Thánh
chủng. Tập Dị (sđd.): cổ tích Thánh chúng, Pāli: porāṇe
aggaññe ariyavase hito, đứng vững trong phả hệ Thánh từ ngàn
xưa.
-
[19] Thục giải thoát
tưởng. Xem Tập Dị Môn luận 13 (Đại 26 trang 423c): thành thục
giải thoát tưởng. Pāli: pañca vimutti-paipācaniyā saññā:
anicca-saññā, anicce dukkha-saññā, dukkhe anatta-saññā,
pahāna-saññā (khác với các bản Hán; xem D. 33. Sagīti, mục Năm
pháp).
-
[20] Bất tịnh ố lộ
tưởng. Pāli: asubha-sañña; xem thêm chú thích trên.
-
[21] Hai tưởng sau,
Tập Dị: yểm nghịch thực tưởng, tử tưởng; xem thêm chú thích
trên.
-
[22] Năm giải thoát
xứ. Pāli: pañca vimuttāyatanāni. Xem D. 33. Sagīti.
-
[23] Nguyên Hán: chỉ
thân; ở đây theo dịch ngữ của Tập Dị sđđ. Pāli:
passaddha-kāya.
-
[24] Năm xuất yếu hay
xuất ly giới. Pāli: pañca nissāraiyā dhātuyo, năm giới hạn cần
phải thoát ly; xem D. 33 Sagīti.
-
[25] Nguyên Hán: bất
tín giải; Tập Dị Môn, sđd. tr.427c: vô thắng giải; Pāli (D 33)
na vimuccati.
-
[26] Ngưyên Hán: tức.
-
[27] Nguyên Hán:
chánh chí.
-
[28] Nguyên Hán:
chánh phương tiện.
-
[29] Đảnh pháp đảnh
pháp thối. Pāli không có. Tham khảo, Tì-bà-sa 6 (No.1545, Đại
27, trang 25 c): “Ví như đỉnh núi”.
-
[30] Đoạn này, về
đảnh pháp được dẫn trong Tì-bà-sa 6 (Đại 27, trang 26 c) với
một ít dị biệt. Xem các chú thích dưới.
-
[31] Tì-bà-sa đd.
nt.: “đối với năm thủ uẩn, trong pháp duyên sanh...”
-
[32] Sđđ: “... có
nhẫn, có kiến, có dục lạc, có hành giải...” về nhẫn pháp,
Câu-xá 23 (No.1558, Đại 29, trang 119 c): “đối với bốn Diệu đế
có khả năng chấp nhận”.
-
[33] Phát trí 1
(No.1554, Đại 26, trang 918 c) Tỳ-bà-sa 6 (Đại 27, trang 27
a-b): đảnh đọa do ba nguyên nhân sau khi đã đạt đến đảnh:
Không thân cận thiện sĩ, không thính văn chánh pháp, không như
lý tác ý.
-
[34] Bản Hán, văn
mạch không chặt chẽ, nên hiểu là “cũng như đối với năm thủ uẩn
ở trên, thức... cũng vậy”.
-
[35] Bài tụng này tóm
tắt các vấn đề được nói đến trong kinh.