- 08. PHẨM UẾ
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật đến Bà-kì-sấu, ở trong núi
Ngạc rừng Bố, vườn Lộc dã[02].
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lê Tử nói với các thầy
Tỳ-kheo:
“Này chư Hiền, thế gian có bốn hạng người.
Những gì là bốn? Hoặc có một hạng người bên trong thật có ô uế[03]
mà không tự biết, không biết như thật bên trong có ô uế. Hoặc
có một hạng người bên trong thật có ô uế nhưng tự biết, biết
như thật bên trong có ô uế. Hoặc có một hạng người bên trong
thật không có ô uế mà không tự biết, không tự biết bên trong
thật không có ô uế. Hoặc có một hạng người bên trong thật
không có ô uế và tự biết, biết như thật bên trong thật không
có ô uế.
“Chư Hiền, nếu một người bên trong thật có ô uế
mà không tự biết, không biết như thật bên trong có ô uế, thì
trong loài người, người này là tối hạ tiện.
Nếu một người bên trong thật có ô uế nhưng tự
biết như thật, biết như thật bên trong thật có ô uế, thì trong
loài người, người này là tối thắng. Nếu có một người bên trong
thật không có ô uế mà không tự biết, không biết như thật bên
trong thật không có ô uế, thì trong loài người, người này là
tối hạ tiện.
Nếu có một người bên trong thật không có ô uế
mà tự biết, biết như thật bên trong thật không có ô uế, thì
trong loài người, người này là tối thắng”.
Lúc ấy, có một thầy Tỳ-kheo[04]
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải, chắp tay hướng
về Tôn giả Xá-lê Tử bạch rằng:
“Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, vì nhân gì, duyên gì mà
hai hạng người trước đều có ô uế, tâm ô uế, mà một người được
nói là tối hạ tiện và một người được coi là tối thắng? Và do
nhân gì, duyên gì mà hai hạng người sau không có ô uế, không
làm ô uế tâm, nhưng một người được nói là tối hạ tiện và một
người được coi là tối thắng?”
Khi đó, Tôn giả Xá-lê Tử trả lời vị Tỳ-kheo kia
rằng:
“Hiền giả, nếu có một người bên trong thật có ô
uế mà không tự biết, không biết như thật bên trong thật có ô
uế, thì nên biết, người ấy không muốn đoạn trừ ô uế, không cầu
phương tiện, không tinh cần học. Người ấy khi mạng chung, với
ô uế làm ô uế tâm, do mạng chung với ô uế làm ô uế tâm, nó
chết không an lành, sanh vào chỗ bất thiện. Vì sao? Vì người
ấy do mạng chung với ô uế làm ô uế tâm.
“Này Hiền giả, cũng như có một người từ chợ,
quán, hoặc từ nhà làm đồ đồng mua về một cái mâm đồng bị bụi
dơ làm dơ. Người ấy mang về nhưng không năng rửa bụi, không
năng lau chùi, cũng không phơi nắng, lại để chỗ nhiều bụi bặm
nên đồng càng dính thêm bụi bặm dơ bẩn. Hiền giả, cũng vậy,
nếu có một người bên trong thật có ô uế mà không tự biết,
không biết như thật bên trong thật có ô uế, thì nên biết,
người ấy không muốn đoạn trừ ô uế, không cần phương tiện,
không tinh cần học, nó mạng chung với sự ô uế làm ô uế tâm. Do
mạng chung với sự ô uế làm ô uế tâm, nó chết không an lành,
sanh vào chỗ bất thiện. Vì sao? Bởi vì nó mạng chung với ô uế
làm ô uế tâm.
“Này Hiền giả, nếu có một người biết như thật
rằng: ‘Trong ta có ô uế, trong ta quả thật có ô uế này’, thì
nên biết, người ấy muốn đoạn trừ ô uế đó, cầu phương tiện và
tinh cần học. Người ấy mạng chung mà không có ô uế, không làm
ô uế tâm. Do mạng chung không có ô uế, không làm ô uế tâm,
người ấy chết an lành, sanh vào cõi thiện. Vì sao? Vì người ấy
mạng chung mà không có ô uế, không làm ô uế tâm.
“Này Hiền giả, cũng như có người từ chợ, quán,
hoặc từ nhà người làm đồ đồng mua về một cái mâm đồng bị bụi
bặm làm dơ bẩn. Người ấy mang mâm về, thường năng rửa bụi bặm,
thường năng lau chùi, thường năng phơi nắng và không để chỗ
nhiều bụi bặm. Như vậy, mâm đồng hết sức sạch bóng. Hiền giả,
cũng vậy, nếu có một người biết như thật rằng: ‘Trong ta có ô
uế; trong ta quả thật có ô uế này’, thì nên biết, người ấy
muốn đoạn trừ ô uế đó, cầu phương tiện và tinh cần học. Người
ấy mạng chung mà không có ô uế, không làm ô uế tâm. Do mạng
chung không có ô uế, không làm ô uế tâm, người ấy chết an
lành, sanh vào cõi thiện. Vì sao? Vì người ấy mạng chung mà
không có ô uế, không làm ô uế tâm.
“Hiền giả, nếu một người không biết như thật
rằng: ‘Trong ta không có ô uế; trong ta quả thật không có ô uế
này’, thì nên biết người ấy không giữ gìn được những pháp mắt
thấy tai nghe. Do không giữ gìn được những pháp mắt thấy tai
nghe, nó bị dục tâm ràng buộc. Nó sẽ mạng chung với dục tâm,
với ô uế làm ô uế tâm. Do mạng chung với dục tâm, với ô uế làm
ô uế tâm, nó chết không an lành, sanh vào cõi bất thiện. Vì
sao? Vì nó mạng chung với dục tâm, với ô uế làm ô uế tâm.
“Hiền giả, cũng như có một người từ chợ, quán,
hoặc từ nhà làm đồ đồng, mua về một cái mâm đồng không có bụi
dơ. Người ấy mang mâm về nhưng không năng rửa bụi, không năng
lau chùi, không thường phơi nắng, để chỗ nhiều bụi bặm. Như
vậy, mâm đồng chắc chắn dính bụi bặm dơ bẩn. Hiền giả, cũng
vậy, nếu một người không biết như thật rằng: ‘Trong ta không
có ô uếâ; trong ta thật không có ô uế này’, thì nên biết,
người kia không giữ gìn được những pháp mắt thấy tai nghe. Do
không giữ gìn được những pháp mắt thấy tai nghe, nó bị dục tâm
ràng buộc. Nó sẽ mạng chung với dục tâm, với ô uế làm ô uế
tâm. Nó chết không an lành, sanh vào cõi bất thiện. Vì sao? Vì
nó mạng chung với dục tâm, với ô uế làm ô uế tâm.
“Hiền giả, nếu một người biết như thật rằng:
‘Trong ta không có ô uế; trong ta quả thật không có ô uế này’,
thì nên biết, người ấy giữ gìn được những pháp mắt thấy tai
nghe. Do vì giữ gìn được những pháp mắt thấy tai nghe nên
người ấy không bị dục tâm ràng buộc. Người ấy mạng chung mà
không có dục tâm, không có ô uế, không làm ô uế tâm. Do mạng
chung mà không có dục tâm, không có ô uế, không làm ô uế tâm,
người ấy chết an lành, sanh vào nẻo thiện. Vì sao? Vì người ấy
không có dục tâm, không có ô uế, không làm ô uế tâm.
“Hiền giả, cũng như có người hoặc từ chợ, quán,
hoặc từ nhà làm đồ đồng mua về một cái mâm đồng không có bụi
dơ, sạch bóng. Người ấy mang mâm về, thường năng rửa bụi,
thường năng lau chùi, thường năng phơi nắng, không để chỗ bụi
bặm. Như vậy, cái mâm đồng hết sức sạch bóng. Hiền giả, cũng
vậy, nếu một người biết như thật rằng: ‘Trong ta không có ô
uế; trong ta quả thật không có ô uế này’, thì nên biết người
ấy giữ gìn được những pháp mắt thấy tai nghe. Do vì giữ gìn
được những pháp mắt thấy tai nghe nên người ấy không bị dục
tâm ràng buộc. Người ấy mạng chung mà không có dục tâm, không
có ô uế, không làm ô uế tâm. Do mạng chung mà không có dục
tâm, không có ô uế, không làm ô uế tâm, người ấy chết an lành,
sanh vào cõi thiện. Vì sao? Vì người ấy không có dục tâm,
không có ô uế, không làm ô uế tâm.
“Hiền giả, do nhân này, duyên này mà hai hạng
người trước mặc dù đều có ô uế làm ô uế tâm, nhưng một người
được nói là tối hạ tiện, và một người được coi là tối thắng.
Và cũng do nhân này, duyên này mà hai hạng người sau mặc dù
đều không có ô uế, không làm ô uế tâm, nhưng một người được
nói là tối hạ tiện, và một người được coi là tối thắng”.
Bấy giờ lại có một thầy Tỳ-kheo khác, từ chỗ
ngồi đứng dậy, trịch áo vai hữu, chắp tay hướng về Tôn giả
Xá-lê Tử, bạch rằng:
“Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, Ngài nói ô uế; những gì
là ô uế?”
Tôn giả Xá-lê Tử đáp rằng:
“Này Hiền giả, vô lượng pháp ác bất thiện từ
dục mà sanh, đó là ô uế[05].
Vì sao? giả sử có một người tâm sanh ước muốn như vầy, ‘Ta đã
phạm giới, mong rằng người khác đừng biết ta phạm giới’. Hiền
giả, nhưng có người khác biết nó phạm giới, bởi vì người khác
biết nó phạm giới, nên người ấy tâm sanh ác[06].
Nếu người ấy tâm sanh ác và tâm sanh dục thì cả hai đều là bất
thiện[07].
“Hiền giả, giả sử có người tâm sanh ước muốn
như vầy, ‘Ta đã phạm giới, mong người khác quở trách ta ở chỗ
kín đáo, chứ đừng quở trách ta phạm giới ở trong chúng’. Hiền
giả, nhưng có người khác quở trách nó ở trong chúng chứ không
ở chỗ kín đáo. Do bởi người khác quở trách nó ở trong chúng,
chứ không ở chỗ kín đáo, nên người ấy tâm sanh ác. Nếu người
ấy tâm sanh ác và tâm sanh dục thì cả hai đều là bất thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm sanh ước muốn
như vầy, ‘Ta đã phạm giới, mong rằng bị người hơn mình trách
mắng, chứ đừng bị người kém mình trách mắng ta phạm giới’. Này
Hiền giả, nhưng người kém nó chứ không phải người hơn, trách
mắng nó phạm giới. Do bị người kém mình chứ không phải người
hơn trách mắng, nên tâm sanh ác. Nếu người ấy tâm sanh ác và
tâm sanh dục thì cả hai đều là bất thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm sanh ước muốn
như vầy: ‘Mong rằng ta ngồi trước mặt Đức Thế Tôn, thưa hỏi
Đức Thế Tôn về giáo pháp để Ngài nói cho các Tỳ-kheo nghe, chứ
không phải vị Tỳ-kheo khác ngồi trước mặt Đức Thế Tôn thưa hỏi
Đức Thế Tôn về giáo pháp để Ngài nói cho các Tỳ-kheo nghe’.
Này Hiền giả, nhưng có Tỳ-kheo khác ngồi trước mặt Đức Thế Tôn
thưa hỏi Đức Thế Tôn về giáo pháp để Ngài nói cho các Tỳ-kheo
nghe. Do vì có vị Tỳ-kheo khác ngồi trước mặt Đức Thế Tôn,
thưa hỏi Đức Thế Tôn về giáo pháp để Ngài nói cho các Tỳ-kheo
nghe, nên người ấy tâm sanh ác. Nếu người ấy tâm sanh ác và
tâm sanh dục thì cả hai đều là bất thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm sanh ước muốn
như vầy: ‘Lúc các Tỳ-kheo vào làng[08],
mong rằng ta đi trước nhất, các Tỳ-kheo theo sau ta mà vào
làng, đừng để một Tỳ-kheo nào khác mà khi các Tỳ-kheo vào làng
đi trước nhất, và các Tỳ-kheo đi theo sau mà vào’. Này Hiền
giả, nhưng có Tỳ-kheo, khi các Tỳ-kheo vào làng, đã đi trước
nhất, và các Tỳ-kheo theo sau vị ấy để vào làng. Do bởi có
Tỳ-kheo khác, khi các Tỳ-kheo vào làng, đã đi trước nhất và
các Tỳ-kheo theo sau để vào làng, nên người ấy tâm sanh ác.
Nếu người ấy tâm sanh ác và tâm sanh dục thì cả hai đều là bất
thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm sanh ước muốn
như vầy, ‘Khi các Tỳ-kheo đã vào trong[09],
thì mong rằng ta ngồi chỗ cao hơn hết, được chỗ ngồi bậc nhất,
được nước rửa bậc nhất, được thức ăn bậc nhất, chứ đừng có vị
Tỳ-kheo nào khác mà khi các Tỳ-kheo đã vào trong lại ngồi chỗ
cao hơn hết, được chỗ ngồi bậc nhất, được nước rửa bậc nhất,
được thức ăn bậc nhất’. Này Hiền giả nhưng có Tỳ-kheo khác,
khi các Tỳ-kheo đã vào trong, ngồi chỗ cao hơn hết, được chỗ
ngồi bậc nhất, được nước rửa bậc nhất, được thức ăn bậc nhất.
Do bởi có Tỳ-kheo khác, khi các Tỳ-kheo đã vào trong, ngồi ghế
cao hơn hết, được chỗ ngồi bậc nhất, được thức ăn bậc nhất,
nên người ấy tâm sanh ác. Nếu người ấy tâm sanh ác và tâm sanh
dục thì cả hai đều là bất thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm sanh ước muốn
như vầy: ‘Các Tỳ-kheo ăn xong, sau khi thu dọn đồ ăn, lau rửa
rồi, mong ta nói pháp cho cư sĩ nghe để khuyến phát khát
ngưỡng và thành tựu hoan hỷ; đừng có Tỳ-kheo nào khác sau khi
các Tỳ-kheo ăn xong thu dọn đồ ăn, lau rửa rồi, nói pháp cho
cư sĩ nghe để khuyến phát khát ngưỡng và thành tựu hoan hỷ’.
Này Hiền giả, nhưng có Tỳ-kheo khác, sau khi Tỳ-kheo ăn xong,
thu dọn đồ ăn, lau rửa rồi, nói pháp cho cư sĩ nghe để khuyến
phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Do bởi có Tỳ-kheo khác,
sau khi các Tỳ-kheo ăn xong, thu dọn đồ ăn, lau rửa rồi nói
pháp cho cư sĩ nghe để khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan
hỷ, nên người ấy tâm sanh ác. Nếu người ấy sanh tâm ác và tâm
dục thì cả hai đều bất thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm sanh ước muốn
như vầy: ‘Khi các cư sĩ đi đến chúng viên[10],
mong rằng ta với họ cùng tụ hội, cùng tụ tập, cùng ngồi, cùng
đàm luận, đừng có Tỳ-kheo nào khác khi các cư sĩ đi đến chúng
viên cùng tụ hội, cùng tụ tập, cùng ngồi, cùng đàm luận với
họ’. Này Hiền giả nhưng có Tỳ-kheo khác, khi các cư sĩ đi đến
chúng viên, cùng tụ hội, cùng tụ tập, cùng ngồi, cùng đàm luận
với họ. Do bởi có Tỳ-kheo khác khi các cư sĩ đi đến chúng viên
cùng tụ hội, cùng tụ tập, cùng ngồi, cùng đàm luận với họ nên
người ấy tâm sanh ác. Nếu người ấy tâm sanh ác và tâm sanh dục
thì cả hai đều là bất thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm sanh ước muốn
như vầy: ‘Mong rằng ta được nhà vua quen biết, được các Đại
thần, Phạm chí, cư sĩ và nhân dân trong nước biết đến và kính
trọng’. Này Hiền giả, nhưng có vị Tỳ-kheo khác được vua quen
biết, được các Đại thần, Phạm chí, cư sĩ và nhân dân trong
nước biết đến và kính trọng. Do bởi có vị Tỳ-kheo khác được
vua quen biết, được các Đại thần, Phạm chí, cư sĩ và nhân dân
trong nước biết đến và kính trọng nên người ấy tâm sanh ác.
Nếu người ấy tâm sanh ác và tâm sanh dục thì cả hai đều là bất
thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm sanh ước muốn
như vầy: ‘Mong rằng ta được bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di kính trọng, đừng có Tỳ-kheo nào khác
được bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di kính
trọng’. Này Hiền giả, nhưng có Tỳ-kheo khác được bốn chúng
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di kính trọng. Do bởi có
Tỳ-kheo khác được bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di kính trọng nên người ấy tâm sanh tâm ác. Nếu người ấy
tâm sanh ác và tâm sanh dục thì cả hai đều bất thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm sanh ước muốn
như vầy: ‘Mong ta được các dụng cụ sinh hoạt như quần áo, đồ
ăn uống, giường nệm, thuốc thang, đừng có Tỳ-kheo nào được các
dụng cụ sinh hoạt như quần áo, đồ ăn uống, giường nệm, thuốc
thang’. Này Hiền giả, nhưng có Tỳ-kheo khác được các dụng cụ
sinh hoạt như quần áo, đồ ăn uống, giường nệm, thuốc thang. Do
bởi có Tỳ-kheo khác được các dụng cụ sinh hoạt như: quần áo,
đồ ăn uống, giường nệm, thuốc thang, nên người ấy tâm sanh ác.
Nếu người ấy tâm sanh ác và tâm sanh dục thì cả hai đều là bất
thiện.
“Này Hiền giả, như vậy nếu có các vị phạm hạnh
có trí, vì không biết người ấy sanh tâm ham muốn vô lượng ác
bất thiện như vậy, nên mặc dù người ấy như thế không phải
Sa-môn nhưng các vị tưởng là Sa-môn, không phải là Sa-môn có
trí mà tưởng là Sa-môn có trí, không phải là chánh trí mà
tưởng là chánh trí, không phải là chánh niệm mà tưởng là chánh
niệm, không phải thanh tịnh mà tưởng là thanh tịnh. Hiền giả,
người ấy như vậy mà nếu các vị phạm hạnh có trí, do biết người
ấy sanh tâm ham muốn vô lượng ác bất thiện như vậy, người ấy
như thế không phải Sa-môn thì không cho là Sa-môn, không phải
là Sa-môn có trí thì không cho là Sa-môn có trí, không phải
chánh trí thì không cho là chánh trí, không phải chánh niệm
thì không cho là chánh niệm, không phải thanh tịnh thì không
cho là thanh tịnh.
“Này Hiền giả, cũng như có người hoặc từ chợ,
quán, hoặc từ nhà làm đồ đồng mua một cái mâm đồng đựng đầy
phẩn bên trong, có nắp đậy phía trên, rồi bưng đi. Qua các phố
xá, gần chỗ đông người qua lại; những người kia thấy mâm đồng
ấy đều muốn được ăn, tỏ ý rất ưa thích, không chán ghét và
nghĩ lầm cái mâm đồng là sạch. Người ấy bưng mâm đồng đi rồi
dừng chân tại một chỗ nào đó và giở nó ra. Mọi người thấy vậy
đều không muốn ăn, không có ý ưa thích, rất chán ghét và cho
là đồ bất tịnh. Dù cho người đã muốn ăn cũng không thèm dùng,
huống chi người vốn không muốn ăn. Hiền giả, cũng vậy, người
ấy như vậy, nếu các phạm hạnh có trí, vì không biết người ấy
sanh tâm ham muốn vô lượng bất thiện như vậy, nên mặc dù người
ấy như thế, không phải Sa-môn mà các vị kia cứ tưởng là
Sa-môn, không phải Sa-môn có trí mà cứ tưởng là Sa-môn có trí,
không phải chánh trí mà tưởng là chánh trí, không phải chánh
niệm mà tưởng là chánh niệm, không phải là thanh tịnh mà tưởng
là thanh tịnh. Này Hiền giả, người ấy như vậy, nếu các vị phạm
hạnh có trí, do biết người ấy sanh tâm ham muốn vô lượng ác
bất thiện như vậy, nên người ấy như thế không phải là Sa-môn
thì các vị kia không cho nó là Sa-môn, không phải Sa-môn có
trí thì không cho là Sa-môn có trí, không phải chánh trí thì
không cho là chánh trí, không phải chánh niệm thì không cho là
chánh niệm, không phải thanh tịnh thì không cho là thanh tịnh.
“Này Hiền giả, phải biết, người như vậy không
nên gần gũi, không nên cung kính, lễ bái. Nếu Tỳ-kheo nào
không đáng gần gũi mà gần gũi, không đáng cung kính lễ bái mà
cung kính lễ bái thì người thân cận cung kính lễ bái ấy mãi
mãi không được thiện lợi, không được hữu ích, không lợi ích,
không an ổn khoái lạc, sanh ra đau khổ buồn lo.
“Hiền giả, giả sử có người tâm không sanh ước
muốn như vầy: ‘Ta đã phạm giới, mong người khác đừng biết ta
phạm giới’. Này Hiền giả, hoặc có người biết người ấy phạm
giới, người ấy nhân vì người khác biết mình phạm giới, tâm
không sanh ác. Nếu người ấy tâm không sanh ác, tâm không sanh
ham muốn thì cả hai đều là thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm không sanh ước
muốn như vầy, ‘Ta đã phạm giới, mong người khác quở tránh ở
chỗ kín đáo chứ đừng quở trách là ta phạm giới ở trước công
chúng’. Này Hiền giả, hoặc có người khác quở trách người ấy ở
trước công chúng chứ không ở chỗ kín đáo, người ấy nhân vì
người khác quở trách ở trước công chúng chứ không ở chỗ kín
đáo, tâm không sanh ác. Nếu người ấy tâm không sanh ác, tâm
không sanh ham muốn thì cả hai đều là thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm không sanh ước
muốn như vầy, ‘Ta đã phạm giới, mong người hơn mình la rầy chứ
đừng có người không bằng mình la rầy ta đã phạm giới’. Này
Hiền giả, hoặc có người không bằng, chứ không phải người hơn
la rầy người ấy phạm giới, người ấy nhân vì người không bằng
mình chứ không phải người hơn la rầy, tâm không sanh ác. Nếu
người ấy tâm không sanh ác, tâm không sanh ham muốn thì cả hai
đều là thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm không sanh ước
muốn như vầy, ‘Mong ta ngồi trước mặt Đức Thế Tôn, thưa hỏi
Đức Thế Tôn về giáo pháp để Ngài nói cho các Tỳ-kheo nghe’.
Này Hiền giả, hoặc có vị Tỳ-kheo khác ngồi trước mặt Đức Thế
Tôn, thưa hỏi Đức Thế Tôn về giáo pháp để Ngài nói cho các
Tỳ-kheo nghe. Người ấy nhân vì có vị Tỳ-kheo khác ngồi trước
mặt Đức Thế Tôn, thưa hỏi Đức Thế Tôn về giáo pháp để Ngài nói
cho các Tỳ-kheo nghe, tâm không sanh ác. Nếu người ấy tâm
không sanh ác, tâm không sanh ham muốn thì cả hai đều là
thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm không sanh ước
muốn như vầy, ‘Lúc các Tỳ-kheo vào làng mong rằng ta đi trước
nhất và các Tỳ-kheo theo sau ta để vào, chứ đừng có vị Tỳ-kheo
nào đi trước nhất khi các Tỳ-kheo vào trong và các Tỳ-kheo
theo sau vị ấy vào’. Này Hiền giả, hoặc có vị Tỳ-kheo, khi các
Tỳ-kheo vào trong, đi trước nhất và các Tỳ-kheo theo sau vị ấy
vào trong. Người ấy nhân vì có Tỳ-kheo khác, khi các Tỳ-kheo
vào trong, đi trước nhất, các Tỳ-kheo theo sau vào trong nhưng
không sanh tâm ác. Nếu người ấy tâm không sanh ác, tâm không
sanh ham muốn thì cả hai đều là thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm không sanh ước
muốn như vầy, ‘Khi các Tỳ-kheo đã vào trong, mong ta ngồi trên
ghế cao hơn hết, được ngồi chỗ bậc nhất, được nước rửa bậc
nhất, được thức ăn bậc nhất’. Này Hiền giả, hoặc có vị Tỳ-kheo
khác, khi các Tỳ-kheo đã vào trong, ngồi ghế cao hơn hết, được
chỗ ngồi bậc nhất, được nước rửa bậc nhất, được thức ăn bậc
nhất. Người ấy nhân vì có Tỳ-kheo khác, khi các Tỳ-kheo đã vào
trong, ngồi ghế cao hơn hết, được chỗ ngồi bậc nhất, được nước
rửa bậc nhất, không sanh tâm ác. Nếu người ấy không sanh tâm
ác, không sanh tâm ham muốn thì cả hai đều là thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm không sanh ước
muốn như vầy, ‘Sau khi các Tỳ-kheo ăn xong, thu dọn đồ ăn, lau
rửa rồi mong ta nói pháp cho cư sĩ nghe để khuyến phát khát
ngưỡng, thành tựu hoan hỷ, đừng có Tỳ-kheo nào khác, sau khi
các Tỳ-kheo ăn xong, thu dọn đồ ăn, lau rửa rồi nói pháp cho
cư sĩ nghe để khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ’. Này
Hiền giả, hoặc có vị Tỳ-kheo khác, sau khi các Tỳ-kheo ăn
xong, thu dọn đồ ăn, lau rửa rồi nói pháp cho cư sĩ nghe để
khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Người ấy nhân vì
có Tỳ-kheo khác, sau khi các Tỳ-kheo ăn xong, thu dọn đồ ăn,
lau rửa rồi nói pháp cho cư sĩ nghe để khuyến phát khát
ngưỡng, thành tựu hoan hỷ, nhưng không sanh tâm ác. Nếu người
ấy tâm không sanh tâm ác, tâm không sanh ham muốn thì cả hai
đều là thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm không sanh ước
muốn như vầy, ‘Khi các cư sĩ đi đến chúng viên, mong ta với họ
cùng tụ hội, cùng tụ tập, cùng ngồi, cùng đàm luận, chứ đừng
có Tỳ-kheo nào khác khi các cư sĩ đi đến chúng viên, cùng tụ
hội, cùng tụ tập, cùng ngồi, cùng đàm luận với họ’. Này Hiền
giả, hoặc có Tỳ-kheo khác, khi các cư sĩ đi đến chúng viên
cùng tụ hội, cùng tụ tập, cùng ngồi, cùng đàm luận với họ.
Người ấy nhân vì có Tỳ-kheo khác, khi các cư sĩ đến chúng viên
cùng tụ hội, cùng tụ tập, cùng ngồi, cùng đàm luận với họ,
không sanh tâm ác. Nếu người ấy tâm không sanh ác, tâm không
sanh ham muốn thì cả hai đều là thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm không sanh ước
muốn như vầy, ‘Mong ta được vua biết đến, được các Đại thần,
Phạm chí, cư sĩ, nhân dân trong nước biết đến và kính trọng;
đừng có Tỳ-kheo nào khác được vua biết đến, được các Đại thần,
Phạm chí, cư sĩ, nhân dân trong nước biết đến và kính trọng’.
Này Hiền giả, hoặc có vị Tỳ-kheo khác được vua biết đến, được
các Đại thần, Phạm chí, cư sĩ, nhân dân trong nước biết đến và
kính trọng. Nhân vì có Tỳ-kheo khác được vua biết đến, được
các Đại thần, Phạm chí, cư sĩ, nhân dân trong nước biết đến và
kính trọng, người ấy tâm không sanh ác. Nếu người ấy tâm không
sanh ác, tâm không sanh ham muốn thì cả hai đều là thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm không sanh ước
muốn như vầy, ‘Mong ta được bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di kính trọng, đừng có Tỳ-kheo nào khác được
bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di kính
trọng’. Này Hiền giả, hoặc có Tỳ-kheo khác được bốn chúng
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di kính trọng. Nhân vì
có Tỳ-kheo khác được bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di kính trọng, người ấy không sanh tâm ác. Nếu người ấy
tâm không sanh ác, tâm không sanh ham muốn, thì cả hai đều là
thiện.
“Hiền giả, giả sử có người tâm không sanh ước
muốn như vầy, ‘Mong ta được các dụng cụ sinh hoạt như quần áo,
đồ ăn uống, giường nệm, thuốc thang, đừng có Tỳ-kheo nào khác
được các dụng cụ sinh hoạt như quần áo, đồ ăn uống, giường
nệm, thuốc thang’. Này Hiền giả, hoặc có Tỳ-kheo khác được các
dụng cụ sinh hoạt như quần áo, đồ ăn uống, giường nệm, thuốc
thang, người ấy không sanh tâm ác. Nếu người ấy tâm không sanh
ác, tâm không sanh ham muốn thì cả hai đều là thiện.
“Hiền giả, người ấy như vậy, nếu các vị phạm
hạnh có trí, vì không biết người ấy sanh tâm ham muốn vô lượng
thiện như vậy nên người ấy như thế chính là Sa-môn, mà các vị
kia tưởng không phải là Sa-môn, chính là Sa-môn có trí mà
tưởng không phải là Sa-môn có trí, chính là chánh trí mà tưởng
không phải là chánh trí, chính là chánh niệm mà tưởng không
phải là chánh niệm, chính là thanh tịnh mà tưởng không phải là
thanh tịnh. Này Hiền giả, người ấy như vậy, nếu các vị phạm
hạnh có trí, do biết người này sanh tâm ham muốn vô lượng
thiện như vậy, nên người ấy như vậy chính là Sa-môn, các vị
kia cho là Sa-môn, chính là Sa-môn có trí thì cho là Sa-môn có
trí, chính là chánh trí thì cho là chánh trí, chính là chánh
niệm thì cho là chánh niệm, chính là thanh tịnh thì cho là
thanh tịnh.
“Này Hiền giả, cũng như có người, hoặc từ chợ,
quán, hoặc từ nhà làm đồ đồng mua về một cái mâm đồng đựng đầy
đủ thứ đồ ăn uống trong sạch, ngon lành, đậy nắp lên trên rồi
bưng đi. Ngang qua phố xá, gần chỗ đông người qua lại, những
người kia thấy được mâm đồng đều không muốn ăn, không có ý ưa
thích, hết sức chán ghét và nghĩ rằng mâm đồng này không trong
sạch và nói như vầy, ‘Phẩn dơ kia, hãy đem đi lập tức! Phẩn dơ
kia, hãy đem đi lập tức!’ Người kia bưng mâm đồng đi, rồi dừng
chân lại một chỗ và giở nó ra. Sau khi thấy giở ra rồi, những
người kia đều muốn ăn, ý hết sức ưa thích, không còn chán ghét
và nghĩ rằng đó là đồ trong sạch. Dù cho những người đã không
muốn ăn, thấy rồi cũng muốn ăn, huống chi những người đã có ý
muốn ăn. Hiền giả, cũng vậy, người ấy như vậy, nếu các vị phạm
hạnh có trí không biết người ấy sanh tâm ham muốn vô lượng
thiện như vậy thì người ấy như thế chính là Sa-môn mà các vị
kia tưởng không phải là Sa-môn, chính là Sa-môn có trí mà
tưởng không phải là Sa-môn có trí, chính là chánh trí mà tưởng
không phải là chánh trí, chính là chánh niệm mà tưởng không
phải là chánh niệm, chính là thanh tịnh mà tưởng không phải là
thanh tịnh.
“Này Hiền giả, người ấy như vậy, nếu có vị phạm
hạnh có trí, do biết người này sanh tâm ham muốn vô lượng
thiện như vậy nên người ấy như vậy, chính là Sa-môn các vị kia
cho là Sa-môn, chính là Sa-môn có trí thì cho là Sa-môn có
trí, chính là chánh trí thì cho là chánh trí, chính là chánh
niệm thì cho là chánh niệm, chính là thanh tịnh thì cho là
thanh tịnh.
“Này Hiền giả, phải biết người như vậy nên gần
gũi, nên cung kính lễ bái. Nếu Tỳ-kheo nào đáng gần gũi, đáng
cung kính lễ bái mà cung kính lễ bái thì người gần gũi, cung
kính lễ bái ấy mãi mãi được thiện lợi, được hữu ích, an ổn
khoái lạc và cũng được không khổ, không buồn lo”.
Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng có mặt
trong chúng, ngài bạch rằng:
“Tôn giả Xá-lê Tử, nay tôi muốn nói một thí dụ
cho các Tỳ-kheo nghe, ngài cho phép chăng?”
Tôn giả Xá-lê Tử đáp:
“Hiền giả Đại Mục-kiền-liên, ngài muốn nói thí
dụ, xin cứ nói”.
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên bạch rằng:
“Tôn giả Xá-lê Tử, tôi nhớ một thời đến thành
Vương xá, ở trong nham sơn. Bấy giờ, đêm đã qua, trời vừa
sáng, tôi đắp y, ôm bát vào thành Vương xá để khất thực, đến
nhà Vô Y Mãn Tử, trước kia là một thợ xe[11].
Lúc ấy ngang nhà ông lại có một người thợ đang đẽo trục xe. Vô
Y Mãn Tử, một thợ xe cũ, đi đến nhà đó. Rồi Vô Y Mãn Tử, một
thợ xe cũ, thấy người kia đang đục đẽo trục xe, tâm sanh ý
nghĩ như vầy, ‘Nếu người thợ này cầm búa đẽo trục, đẽo gọt chỗ
xấu này, chỗ xấu kia, như thế thì cái trục ấy mới tuyệt đẹp’.
Bấy giờ, người thợ kia đúng như điều suy nghĩ của Vô Y Mãn Tử,
một thợ xe cũ, liền cầm búa đẽo gọt chỗ xấu này, chỗ xấu kia.
Khi ấy, Vô Y Mãn tử, một thợ xe cũ, hết sức hoan hỷ, nói như
thế này:
“– Này con ông thợ xe, tâm ông như vậy tức là
biết tâm tôi rồi. Vì sao? Vì đúng theo ý nghĩ của tôi, ông cầm
búa đẽo gọt chỗ xấu này, chỗ xấu kia.
“Cũng như thế, Tôn giả Xá-lê Tử, nếu như có kẻ
dua nịnh, dối trá, ganh tị, không tín, giải đãi, không chánh
niệm, không chánh trí, không định, không tuệ, tâm nó cuồng mê,
không giữ các căn, không tu hạnh Sa-môn, không hiểu biết phân
biệt; Tôn giả Xá-lê Tử vì biết tâm của nó nên nói pháp này.
“Tôn giả Xá-lê Tử, nếu có người không dua nịnh,
không dối trá, không ganh tị, có tín, có tấn, không giải đãi,
có chánh niệm, chánh trí, tu định, tu tuệ, tâm không cuồng mê,
giữ gìn các căn, tu tập rộng rãi hạnh Sa-môn và phân biệt khéo
léo thì người ấy nghe Tôn giả Xá-lê Tử nói pháp giống như kẻ
đói muốn được ăn, khát muốn được uống, tức thì được ăn và uống
như ý vậy.
“Tôn giả Xá-lê Tử, giống như con gái Sát-lợi
hay con gái Phạm chí, Cư sĩ, Công sư, đoan trang xinh đẹp, tắm
rửa sạch sẽ, lấy hương thoa khắp thân thể, mặc áo mới và dùng
các thứ anh lạc để trang sức dung nhan. Giả sử có người nghĩ
đến nàng ấy, mong cầu sự thiện lợi hữu ích, cầu an ổn khoái
lạc cho nàng ấy nên đem tràng hoa sen xanh, hoặc tràng hoa
chiêm-bặc, hoặc tràng hoa tu-ma-na, hoặc tràng hoa bà-sư, hoặc
tràng hoa a-đề-mâu-đa đến tặng. Người con gái ấy hoan hỷ nhận
cả hai tay, dùng trang sức trên đầu. Tôn giả Xá-lê Tử, cũng
như thế, nếu có người không dua nịnh, không dối trá, không
ganh tị, có tín, tinh tấn, không giải đãi, có chánh niệm,
chánh trí, tu định, tu tuệ, tâm không cuồng mê, gìn giữ các
căn, tu tập rộng rãi hạnh Sa-môn và phân biệt khéo léo, người
ấy được nghe Tôn giả Xá-lê Tử nói pháp, giống như người đói
muốn được ăn, người khát muốn đượïc uống thì liền được ăn no,
uống như ý vậy.
“Tôn giả Xá-lê Tử! Thật kỳ diệu! Thật hy hữu!
Tôn giả Xá-lê Tử thường cứu vớt các người tu phạm hạnh, khiến
cho xa lìa bất thiện, an trụ chỗ thiện”.
Như thế, cả hai Tôn giả tán thán lẫn nhau, rồi
từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi.
Tôn giả Xá-lê Tử thuyết như vậy, Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên và các thầy Tỳ-kheo nghe Tôn giả Xá-lê Tử
thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli
M.5 Anagaa-sutta. Hán, biệt dịch, No.49, No.125 (25.6).
-
[02] Xem cht.2 và 3,
Kinh 74.
-
[03] Hán: uế. Pāli:
agaa, vết bẩn, bụi bẩn, nước dơ.
-
[04] Bản Pāli: Tôn
giả Mahāmoggallāna (Đại Mục-kiền-liên). No.125 (25-6) cũng
vậy.
-
[05] So sánh Pāli:
pāpakāna kho eta akusalāna icchāvacarāna adhivacana yadida
agaa, các pháp ác bất thiện, cảnh giới của dục, là đồng nghĩa
của uế.
-
[06] Pāli: so kupito
hoti appatīto, nó phẫn nộ và bất mãn.
-
[07] Pāli: kopo yo ca
appaccayo ubhayam eta agaa, phẫn nộ và bất mãn, cả hai cái này
là ô uế.
-
[08] Hán: nhập nội
thời. Pāli: gāma bhattāya paviseyyu, vào làng để ăn cơm.
-
[09] Hán: dĩ nhập
nội. Pāli: bhattagge, tại nhà ăn.
-
[10] Bản Hán: “cư
sĩ... chúng viên...”; Pāli: ārāmagatāna bhikkhūna dhamma
deseyya, mong ta thuyết pháp cho các Tỳ-kheo tập họp tại tinh
xá.
-
[11] Cựu xa sư Vô y
Mãn Tử. Pāli: Pauputta ājīvaka purāayāna-kāra putta, Pauputta,
đạo sĩ phái Tà mạng, con trai của một người thợ làm xe trước
kia
-ooOoo-