- 08. PHẨM UẾ
-
-
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương xá,
trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa cùng với chúng Đại Tỳ-kheo an
cư mùa mưa[02].
Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên[03]
nói với các Tỳ-kheo:
“Này chư Hiền, nếu có Tỳ-kheo thỉnh cầu[04]
các Tỳ-kheo rằng: ‘Xin các ngài nói với tôi, chỉ giáo tôi, ha
trách tôi, xin đừng cật nạn tôi’. Vì sao vậy? Này chư Hiền,
hoặc có một người hay có lời nói cộc[05],
mang bản tánh nói cộc và do bản tánh nói cộc này mà các vị
phạm hạnh không nói tới, không chỉ giáo, không ha trách, trái
lại cật nạn người ấy[06].
“Này chư Hiền, thế nào là bản tánh nói cộc, mà
nếu ai có bản tánh nói cộc, các vị phạm hạnh không nói với,
không chỉ giáo, không ha trách, trái lại cật nạn người ấy?
“Này chư Hiền, ở đây có người có ác dục và nhớ
nghĩ đến dục[07].
Này chư Hiền, nếu là người có ác dục và nhớ nghĩ đến dục thì
đó là bản tánh nói cộc. Cũng như thế, nhiễm và hành nhiễm[08],
cố ý phú tàng[09],
lường gạt dối trá, xan tham, tật đố, vô tàm, vô quý, sân tệ ác
ý
[10], nói lời phẫn nộ, ha trách Tỳ-kheo ha trách[11],
ha trách Tỳ-kheo khinh mạn[12],
ha trách Tỳ-kheo phát lồ, nói lãng ngoài đề để tránh né, che
giấu và hờn giận, thù ghét phừng phực, bằng hữu ác, đồng bọn
ác, vong ân, không biết ân. Chư Hiền nếu ai người vong ân,
không biết ân, thì đó là người có bản tánh cộc. Này chư Hiền,
đó là những bản tánh khiến nói cộc. Nếu ai có bản tánh nói
cộc, các vị phạm hạnh không nói với, không chỉ giáo, không ha
trách, trái lại cật nạn người ấy.
“Này chư Hiền, Tỳ-kheo hãy tự tư lương[13].
‘Chư Hiền, nếu ai có ác dục, niệm dục thì tôi không ưa thích
người đó và nếu tôi có ác dục, niệm dục thì người ấy cũng
chẳng ưa thích tôi’. Tỳ-kheo hãy quán sát như vậy, không hành
ác dục, không niệm dục. Nên học như vậy.
“Cũng như thế, ai nhiễm và hành nhiễm, cố ý phú
tàng, lường gạt dối trá, xan tham, tật đố, vô tàm, vô quý, sân
tệ ác ý, nói lời phẫn nộ, ha trách Tỳ-kheo ha trách, ha trách
Tỳ-kheo khinh mạn, ha trách Tỳ-kheo phát lồ, nói lãng ngoài đề
để tránh né, che giấu và hờn giận, thù ghét phừng phực, bằng
hữu ác, đồng bọn ác, vong ân, không biết ân. ‘Chư Hiền, nếu ai
vong ân, không biết ân thì tôi không ưa thích người ấy, và nếu
tôi vong ân, không biết ân thì người ấy cũng chẳng ưa thích
tôi’. Tỳ-kheo hãy quán sát như vậy, không hành sự vong ân
không biết ân. Nên học như vậy.
“Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo không thỉnh cầu các
Tỳ-kheo rằng: ‘Xin các ngài nói với tôi, chỉ giáo tôi, ha
trách tôi, đừng cật nạn tôi’. Vì sao vậy? Chư Hiền, hoặc có
một người dễ nói, đầy đủ bản tánh dễ nói[14],
và do đầy đủ bản tánh dễ nói nên các bậc phạm hạnh khéo nói
với, khéo chỉ giáo, khéo ha trách và không cật nạn người đó.
“Này chư Hiền, thế nào là bản tánh dễ nói? Nếu
có người đầy đủ bản tánh dễ nói thì các vị phạm hạnh khéo nói
với, khéo chỉ giáo, khéo ha trách và không cật nạn người đó.
Chư Hiền, hoặc có người không ác dục, không niệm dục, đó là
bản tánh dễ nói. Cũng như thế, không nhiễm và hành nhiễm,
không cố ý phú tàng, không lường gạt dối trá, không xan tham
tật đố, không vô tàm vô quý, không sân tệ ác ý, không nói lời
phẫn nộ, không ha trách Tỳ-kheo ha trách, không ha trách
Tỳ-kheo khinh mạn, không ha trách Tỳ-kheo phát lồ, không nói
lãng ngoài đề để tránh né, không che giấu và hờn giận, không
thù ghét phừng phực, không bằng hữu ác đồng bọn ác, không vong
ân không biết ân. Chư Hiền, nếu ai không vong ân không biết
ân, đó là có bản tánh dễ nói. Chư Hiền, đó là những bản tánh
khiến dễ nói. Nếu ai đầy đủ bản tánh dễ nói thì các vị phạm
hạnh khéo nói với, khéo chỉ giáo, khéo ha trách và không cật
nạn người đó.
“Này chư Hiền, Tỳ-kheo nên tự tư lương. ‘Chư
Hiền, ‘nếu có người không ác dục, không niệm dục, thì tôi ưa
thích người đó; và nếu tôi không ác dục, không niệm dục thì
người đó cũng ưa thích tôi’, Tỳ-kheo nên quán sát như vậy,
không hành ác dục, không niệm dục. Nên học như vậy. Cũng như
thế, không nhiễm và hành nhiễm, không cố ý phú tàng, không
lường gạt dối trá, không xan tham tật đố, không vô tàm vô quý,
không sân tệ ác ý, không nói lời phẫn nộ, không ha trách
Tỳ-kheo ha trách, không ha trách Tỳ-kheo khinh mạn, không ha
trách Tỳ-kheo phát lồ, không nói lãng ngoài đề để tránh né,
không che giấu và hờn giận, không thù ghét phừng phực, không
bằng hữu ác đồng bọn ác, không vong ân không biết ân. ‘Chư
Hiền, nếu có người không vong ân không biết ân thì tôi thích
người đó, và nếu tôi không vong ân không biết ân thì người đó
cũng ưa thích tôi’. Tỳ-kheo nên quán sát như vậy, không vong
ân không biết ân. Nên học như vậy.
“Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo quán sát như vầy[15]:
‘Ta có ác dục, niệm dục hay không có ác dục, niệm dục?’ thì
chắc chắn có nhiều lợi ích.
“Này chư Hiền, nếu khi Tỳ-kheo quán sát mà biết
được ta có ác dục, niệm dục thì không thể vui mừng. Do đó mong
cầu đoạn trừ dục.
“Này chư Hiền, nếu lúc Tỳ-kheo quán sát mà biết
mình không có ác dục, niệm dục tức thì vui mừng, rằng: ‘Ta tự
thanh tịnh, cầu học pháp tôn quý’, cho nên vui mừng.
“Này chư Hiền, như người có mắt, lấy gương tự
soi thì thấy được mặt mình là sạch hay dơ. Chư Hiền, nếu người
có mắt thấy mặt mình bẩn thì không vui mừng và mong muốn rửa
sạch. Chư Hiền, nếu người có mắt thấy mặt mình không bẩn thì
vui mừng rằng: ‘Mặt ta sạch’, nên vui mừng. Chư Hiền, cũng như
vậy, nếu khi Tỳ-kheo quán sát mà biết được ta có ác dục, niệm
dục thì không vui mừng và mong cầu đoạn trừ dục. Chư Hiền, nếu
lúc Tỳ-kheo quán sát mà biết được mình không có ác dục, niệm
dục thì vui mừng rằng ‘Ta tự thanh tịnh, cầu học pháp tôn quý’
nên vui mừng. Cũng như thế, ta nhiễm và hành nhiễm hay không
nhiễm và hành nhiễm? Cố ý phú tàng hay không cố ý phú tàng?
Lường gạt dối trá hay không lường gạt dối trá? Xan tham tật đố
hay không xan tham tật đố? Vô tàm vô quý hay không vô tàm vô
quý? Sân tệ ác ý hay không sân tệ ác ý? Nói lời phẫn nộ hay
không nói lời phẫn nộ? Ha trách Tỳ-kheo ha trách hay không ha
trách Tỳ-kheo ha trách? Ha trách Tỳ-kheo khinh mạn hay không
ha trách Tỳ-kheo khinh mạn? Ha trách Tỳ-kheo phát lồ hay không
ha trách Tỳ-kheo phát lồ? Nói lãng ngoài đề để tránh né hay
không nói lãng ngoài đề để tránh né? Che giấu và hờn giận hay
không che giấu và hờn giận? Thù ghét phừng phực hay không thù
ghét phừng phực? Bằng hữu ác và đồng bọn ác hay không bằng hữu
ác và đồng bọn ác? Vong ân không biết ân hay không vong ân
không biết ân? Chư Hiền, nếu khi Tỳ-kheo quán sát mà biết được
‘ta có vong ân không biết ân’ thì không vui mừng và mong muốn
đoạn trừ. Chư Hiền, nếu lúc Tỳ-kheo quán sát mà biết được mình
không có vong ân không biết ân thì được vui mừng rằng ‘Ta tự
thanh tịnh, cầu học pháp tôn quý’, cho nên vui mừng.
“Này chư Hiền, như người có mắt, lấy gương tự
soi thì thấy được mặt mình là sạch hay dơ. Chư Hiền, nếu người
có mắt thấy mặt mình bẩn thì không vui mừng và mong muốn rửa
sạch. Chư Hiền, nếu người có mắt thấy mặt mình không bẩn thì
được vui mừng rằng ‘Mặt ta sạch sẽ’, cho nên vui mừng. Chư
Hiền, cũng vậy, nếu khi Tỳ-kheo mà biết được ta có vong ân
không biết ân, thì không vui mừng và mong muốn đoạn trừ. Chư
Hiền, nếu khi Tỳ-kheo quán sát mà biết được mình không có vong
ân không biết ân thì được vui mừng rằng ‘Ta tự thanh tịnh, cầu
học tôn pháp’, cho nên vui mừng. Do vui mừng cho nên có hỷ,
nhân hỷ nên thân khinh an, do thân khinh an[16]
nên được cảm thọ lạc, do cảm thọ lạc nên được định tâm.
“Này chư Hiền, Đa văn Thánh đệ tử do định tâm
nên thấy như thật, biết như thật; do thấy như thật, biết như
thật nên được yểm ly, do yểm ly nên được vô dục, do vô dục nên
được giải thoát, do giải thoát mà được tri giải thoát, biết
một cách như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững,
điều đáng làm đã làm xong, không còn tái sanh’.”
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói như vậy, các thầy
Tỳ-kheo nghe Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói xong, hoan hỷ phụng
hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản Hán, quyển
23. Tương đương Pāli M.15. Anumāna-sutta. Hán, tham chiếu
No.50.
-
[02] Bản Pāli tương
đương không có đoạn này.
-
[03] Bản Pāli: āyasmā
moggallāno bhaggesu viharati susumāragire, lúc bấy giờ Tôn giả
Đại Mục-kiền kiên trú ở giữa những người Bhagga, trong núi
Susumāra.
-
[04] Hán: thỉnh.
Pāli: pavāreti: tự tứ.
-
[05] Hán: lệ ngữ, lệ
ngữ pháp. Pāli: dubbaca, dovacassakaraa dhamma.
-
[06] Có lẽ ở đây có
một chi tiết liên hệ luật Tỳ-kheo, bị yết-ma mặc tẩn vì đều
được gọi là “ác tính bất thọ nhân ngữ” (ngoan cố không nghe
lời khuyên của các Tỳ-kheo) nên không được các Tỳ-kheo chấp
nhận tự tứ. Bản Pāli: pavāreti... Bhikkhu vadantu ma āyasmanto
vacanīyomhi āyasmantehi...atha kho na sabrahmacārī na ceva
vattabba maññanti, Tỳ-kheo thỉnh nguyện (tự tứ): chư Trưởng
lão hãy nói với tôi; tôi cần được chư Trưởng lão nói... nhưng
các đồng phạm hạnh nghĩ rằng vị ấy không đang được nói tới.
-
[07] Ác dục niệm dục.
Pāli: pāpiccho hoti pāpikāna icchāna vasagato, là người có ác
dục, bị chi phối bởi ác dục.
-
[08] Nhiễm hành
nhiễm; có lẽ Pāli: attukkasako paravambhī, khen mình che
người.
-
[09] Bất ngữ kết trụ;
có lẽ Pāli: makkhata (xem
Kinh 122).
-
[10] Sân tệ ác ý; có
lẽ Pāli: kodhahetu upanāhī, do nóng giận mà ôm lòng cừu hận.
-
[11] Ha Tỳ-kheo ha.
Pāli: codito codakena codak paipphareti, bị nêu tội kích ngược
lại người nêu tội.
-
[12] Ha Tỳ-kheo khinh
mạn, có lẽ Hán văn dịch đảo ngữ nên phải hiểu ngược lại. Pāli:
codaka apasādeti, khinh dễ người nêu tội.
-
[13] Pāli: attanāva
attāna eva anuminitabba, nên tự mình suy xét về mình như vầy.
-
[14] Thiện ngữ, thành
tựu thiện ngữ pháp. Pāli: so ca sovaco hoti, sovacassakaraehi
samannāgato.
-
[15] Pāli: attanāva
attāna eva paccavekkhitabba, tự mình phản tỉnh về mình như
vầy.
-
[16] Hán: chỉ thân.