Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại Câu-lâu-sấu, ở
Kiếm-ma-sắt-đàm, một đô ấp của Câu lâu.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có một con đường[02]
tịnh hóa chúng sanh, vượt qua lo sợ, diệt trừ khổ não, chấm
dứt kêu khóc, chứng đắc Chánh pháp. Đó là Bốn niệm xứ.
“Các Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác ở
quá khứ đều đoạn trừ năm triền cái, tâm ô uế, tuệ yếu kém,
lập tâm chánh trụ nơi Bốn niệm xứ, tu Bảy giác chi mà chứng
quả giác ngộ Vô thượng chánh tận.
“Các Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác ở
vị lai cũng đều đoạn trừ năm triền cái là thứ làm tâm ô uế,
tuệ yếu kém, lập tâm chánh trụ nơi Bốn niệm xứ, tu Bảy giác
chi mà chứng quả giác ngộ.
“Ta nay trong hiện tại, là Như Lai, Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác, Ta cũng đều đoạn trừ năm triền cái
làm tâm ô uế, tuệ yếu kém. Ta cũng lập tâm chánh trụ nơi Bốn
niệm xứ, tu Bảy giác chi mà chứng quả giác ngộ Vô thượng
chánh tận.
“Bốn niệm xứ là những gì? Đó là, quán thân
như thân, quán thọ[03]
như thọ, quán tâm như tâm và quán pháp như pháp.
“Thế nào gọi là niệm xứ quán thân như thân[04]?
“Tỳ-kheo khi đi thì biết mình đi, đứng thì
biết mình đứng, ngồi thì biết mình ngồi, nằm thì biết mình
nằm, ngủ thì biết mình ngủ, thức thì biết mình thức, ngủ say
thì biết mình ngủ say. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như
thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri,
có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân
như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
biết rõ chính xác khi vào lúc ra, khi co lúc duỗi, khi cúi
lúc ngẩng, nghi dung chững chạc, khéo khoác tăng-già-lê và
cầm bát; đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng
đều biết rõ chính xác. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như
thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri,
có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân
như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
khi sanh niệm ác bất thiện, liền niệm điều thiện để đối trị,
đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ. Như người thợ mộc hoặc học
trò thợ mộc, kéo thẳng dây mực, búng lên thân cây rồi dùng
búa bén mà đẽo cho thẳng. Cũng vậy, Tỳ-kheo khi sanh niệm ác
bất thiện liền niệm điều thiện để đối trị, đoạn trừ. Tỳ-kheo
như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân;
lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy
gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm trị tâm,
đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ. Như hai lực sĩ bắt
một người yếu mang đi khắp nơi, tự do đánh đập. Cũng vậy,
Tỳ-kheo răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm
trị tâm, đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân;
Tỳ-kheo-niệm hơi thở vào thì biết niệm hơi thở vào, niệm hơi
thở ra thì biết niệm hơi thở ra. Thở vào dài thì biết thở
vào dài, thở ra dài thì biết thở ra dài. Thở vào ngắn thì
biết thở vào ngắn, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn. Học
toàn thân thở vào, học toàn thân thở ra. Học thân hành tĩnh
chỉ thở vào, học khẩu hành tĩnh chỉ thở ra. Tỳ-kheo như vậy,
quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm
tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là
Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
có hỷ lạc do ly dục, nhuần thấm thân, phổ biến sung mãn;
khắp trong thân thể hỷ lạc sanh do ly dục, không đâu không
có. Như người hầu tắm, bỏ bột tắm đầy chậu, nước hòa thành
bọt, nước thấm vào thân, phổ biến sung mãn, không đâu không
có. Cũng vậy, Tỳ-kheo có hỷ lạc do ly dục nhuần thấm thân,
phổ biến sung mãn; khắp trong thân thể, hỷ lạc sanh do ly
dục không đâu không có. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như
thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri,
có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân
như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
có hỷ lạc do định sanh, nhuần thấm thân, phổ biến sung mãn;
khắp trong thân thể, hỷ lạc do định sanh không đâu không có.
Cũng như suối trên núi, trong sạch không dơ, nước từ bốn
phương chảy đến đổ vào một cách tự nhiên, tức thì từ đáy
suối, nước tự vọt lên, chảy tràn ra ngoài, thấm ướt cả núi,
phổ biến sung mãn, không đâu không có. Cũng vậy, Tỳ-kheo có
hỷ lạc do định sanh thấm nhuần thân, phổ biến sung mãn; khắp
trong thân thể, hỷ lạc do định không đâu không có. Tỳ-kheo
như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân;
lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy
gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
có lạc do ly hỷ nhuần thấm vào thân, phổ biến sung mãn; khắp
trong thân thể, lạc sanh do ly hỷ không đâu không có. Như
các thứ sen xanh, hồng, đỏ, trắng sanh ra từ nước, lớn lên
trong nước, ở dưới đáy nước, rễ, hoa, lá, cọng thảy đều thấm
nhuần, phổ biến sung mãn, không đâu không có; cũng vậy,
Tỳ-kheo có lạc do ly hỷ nhuần thấm vào thân, phổ biến sung
mãn, khắp trong thân thể lạc do ly hỷ không đâu không có.
Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như
thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt.
Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo nào quán thân như thân;
Tỳ-kheo ở trong thân này được biến mãn với tâm thanh tịnh, ý
giải, thành tựu an trụ; ở trong thân này tâm thanh tịnh
không đâu không biến mãn. Như có một người trùm một cái áo
rộng bảy hoặc tám khuỷu tay, từ đầu đến chân, thì khắp cả
thân đều được phủ kín. Cũng vậy, Tỳ-kheo ở trong thân này
với tâm thanh tịnh, không đâu biến mãn. Tỳ-kheo như vậy,
quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm
tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là
Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; là
Tỳ-kheo niệm quang minh tưởng, khéo thọ khéo trì, nhớ rõ
điều niệm; như phía trước, phía sau cũng vậy; ngày cũng như
đêm, đêm cũng như ngày; dưới cũng như trên, trên cũng như
dưới. Như vậy tâm không điên đảo, tâm không bị ràng buộc,
tâm tự quang minh, không khi nào còn bị bóng đen che lấp.
Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như
thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt.
Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
khéo giữ tướng trạng tu quán[05],
khéo nhớ điều niệm, như người ngồi quán sát kẻ nằm, rồi nằm
quán sát kẻ ngồi. Tỳ-kheo khéo giữ tướng trạng tu quán, khéo
nhớ điều niệm, cũng giống như vậy. Tỳ-kheo như vậy, quán nội
thân như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân,
có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo
quán thân như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
tùy theo những chỗ trong thân, tùy theo tính chất tốt xấu từ
đầu đến chân quán thấy thảy đều đầy dẫy bất tịnh, ‘trong
thân này của ta có tóc, lông, móng, răng, da dày, da non,
thịt, gân, xương, tim, thận, gan, phổi, ruột già, ruột non,
lá lách, dạ dày, phân, não và não căn, nước mắt, mồ hôi,
nước mũi, nước miếng, mủ, máu, mỡ, tủy, đờm dãi, nước tiểu’.
Như một cái bồn chứa đủ hạt giống, ai có mắt sáng thì thấy
rõ ràng, ‘đây là hạt lúa, hạt gạo, kia là hạt cải, cỏ, rau’;
cũng vậy, Tỳ-kheo tùy theo những chỗ trong thân, tùy theo
tính chất tốt xấu, từ đầu đến chân, quán thấy thảy đều đầy
dẫy bất tịnh: ‘Trong thân này của ta có tóc, lông, móng,
răng, da dày, da non, thịt, gân, xương, tim, thận, gan,
phổi, ruột già ruột non, lá lách, dạ dày, phân, não và não
căn, nước mắt, mồ hôi, nước mũi, nước miếng, mủ, máu, mỡ,
tủy, đờm dãi, nước tiểu’. Tỳ-kheo khéo giữ tướng trạng tu
quán, khéo nhớ điều niệm, cũng giống như vậy. Tỳ-kheo như
vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân; lập
niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi
là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
quán sát giới trong thân rằng: ‘Trong thân này của ta có địa
giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức
giới’. Như gã đồ tể mổ bò, lột hết bộ da, trải lên mặt đất,
phân thành sáu đoạn; cũng vậy, Tỳ-kheo quán các giới trong
thân rằng ‘Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa
giới, phong giới, không giới, thức giới’. Tỳ-kheo khéo giữ
tướng trạng tu quán, khéo nhớ điều niệm, cũng giống như vậy.
Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như
thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt.
Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
quán xác chết, mới chết từ một hai ngày đến sáu bảy ngày,
đang bị quạ diều bươi mổ, sài lang cấu xé, hoặc đã được hỏa
thiêu, hay đã được chôn lấp, đang bị rửa nát hư hoại. Quán
rồi tự so sánh: ‘Thân ta cũng thế, đều có những trường hợp
này, không sao tránh khỏi’. Tỳ-kheo khéo giữ tướng trạng tu
quán, khéo nhớ điều niệm, cũng giống như vậy. Tỳ-kheo như
vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân; lập
niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi
là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
như từng thấy trong nghĩa địa, hài cốt xám xanh, rữa nát gần
hết, xương vải khắp đất. Quán rồi tự so sánh: ‘Thân ta cũng
thế, đều có những trường hợp này, không sao tránh khỏi,’
Tỳ-kheo khéo giữ tướng trạng tu quán, khéo nhớ điều niệm,
cũng giống như vậy. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân;
quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có
kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như
thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
như từng thấy trong nghĩa địa, da, thịt, máu, huyết tiêu cả,
chỉ còn xương dính gân. Quán rồi tự so sánh: ‘Thân ta cũng
thế, đều có trường hợp này, không sao tránh khỏi’. Tỳ-kheo
khéo giữ tướng trạng tu quán, khéo nhớ điều niệm, cũng giống
như vậy. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại
thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh,
có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo
như từng trong nghĩa địa thấy xương rời từng đốt, tản mác
khắp nơi, xương chân, xương đùi, xương đầu gối, xương bắp
vế, xương sống, xương vai, xương cổ, xương sọ, mỗi thứ một
nơi. Quán rồi tự so sánh: ‘Thân ta cũng thế, đều có những
trường hợp này, không sao tránh khỏi’. Tỳ-kheo khéo giữ
tướng trạng tu quán, khéo nhớ điều niệm, cũng giống như vậy.
Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như
thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt.
Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân. “Lại nữa, Tỳ-kheo
quán thân như thân; Tỳ-kheo như từng thấy trong nghĩa địa,
xương trắng như vỏ ốc, xanh như lông chim bồ câu, đỏ như màu
máu, mục nát bể vụn. Quán rồi tự so sánh: ‘Thân ta rồi cũng
thế, đều có những trường hợp này, không sao tránh khỏi’.
Tỳ-kheo khéo giữ tướng trạng tu quán, khéo nhớ điều niệm,
cũng giống như vậy. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân;
quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có
kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như
thân.
“Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni từng chi tiết quán
thân như thân như vậy, đó gọi là niệm xứ quán thân như thân.
“Thế nào gọi là niệm xứ quán thọ như thọ?
Tỳ-kheo khi thọ nhận cảm giác lạc liền biết đang thọ nhận
cảm giác lạc, khi thọ nhận cảm giác khổ liền biết đang thọ
nhận cảm giác khổ, khi thọ nhận cảm giác không lạc không khổ
liền biết đang thọ nhận cảm giác không lạc không khổ. Khi
thân thọ nhận cảm giác lạc, thân thọ nhận cảm giác khổ, thân
thọ nhận cảm giác không lạc không khổ; khi tâm thọ nhận cảm
giác lạc, tâm thọ nhận cảm giác khổ, tâm thọ nhận cảm giác
không lạc không khổ; cảm giác lạc khi ăn, cảm giác khổ khi
ăn, cảm giác không lạc không khổ khi ăn; cảm giác lạc khi
không ăn, cảm giác khổ khi không ăn, cảm giác không lạc
không khổ khi không ăn; cảm giác lạc khi có dục, cảm giác
khổ khi có dục, cảm giác không khổ không lạc khi có dục; cảm
giác lạc khi không có dục, cảm giác khổ khi không có dục,
cảm giác không lạc không khổ khi không có dục. Tỳ-kheo như
vậy, quán nội thọ như thọ, quán ngoại thọ như thọ, lập niệm
tại thọ, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là
Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni từng chi tiết quán
thọ như thọ như vậy, gọi là niệm xứ quán thọ như thọ.
“Thế nào gọi là niệm xứ quán tâm như tâm?
Tỳ-kheo có tâm tham dục thì biết đúng như thật có tâm tham
dục, có tâm vô dục thì biết đúng như thật là có tâm vô dục.
Khi có sân hay không sân, có si hay không si, có ô uế hay
không ô uế, có hợp hay có tan, có thấp hay có cao, có nhỏ
hay có lớn; tụ hay không tụ, định hay không định, giải thoát
hay không giải thoát. Cũng như vậy, có tâm giải thoát thì
biết đúng như thật có tâm giải thoát; có tâm không giải
thoát thì biết đúng như thật là có tâm không giải thoát.
Tỳ-kheo như vậy, quán nội tâm như tâm, lập niệm tại tâm, có
tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy là Tỳ-kheo quán tâm
như tâm.
“Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni từng chi tiết quán
tâm như tâm như vậy, đó gọi là niệm xứ quán tâm như tâm.
“Thế nào gọi là niệm xứ quán pháp như pháp?
Khi con mắt duyên sắc, sanh nội kết, nếu Tỳ-kheo bên trong
thật có kết thì biết đúng như thật là bên trong có kết; bên
trong thật không có kết thì biết đúng như thật là bên trong
không có kết. Nội kết chưa sanh, bây giờ sanh, biết đúng như
thật. Nội kết đã sanh và được đoạn trừ, không sanh lại nữa,
biết đúng như thật. Với tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng giống
như vậy. Khi ý duyên pháp, sanh nội kết, nếu Tỳ-kheo bên
trong thật có kết thì biết đúng như thật là bên trong có
kết, bên trong không có kết thì biết đúng như thật là bên
trong không có kết, nội kết chưa sanh bây giờ sanh; biết
đúng như thật nội kết đã sanh và đã được đoạn trừ, không
sanh lại nữa, biết đúng như thật. Tỳ-kheo như vậy quán nội
pháp đúng như pháp, quán ngoại pháp đúng như pháp, lập niệm
tại pháp, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là
Tỳ-kheo quán pháp như pháp, nghĩa là quán sáu xứ bên trong.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán pháp như pháp; Tỳ-kheo
bên trong thật có ái dục thì biết đúng như thật là đang có
ái dục, bên trong thật không có ái dục thì biết đúng như
thật là không có ái dục. Ái dục chưa sanh nay sanh, biết
đúng như thật. Ái dục đã sanh và đã được đoạn trừ, không
sanh lại nữa, biết đúng như thật. Với sân nhuế, thùy miên,
điệu hối và nghi cũng giống như vậy. Bên trong thật có nghi,
biết đúng như thật là đang có nghi; bên trong thật không có
nghi, biết đúng như thật là không có nghi. Nghi chưa sanh,
nay đã sanh, biết đúng như thật. Nghi đã sanh và đã được
đoạn trừ, không sanh lại nữa, biết đúng như thật. Tỳ-kheo
như vậy quán nội pháp đúng như pháp, quán ngoại pháp đúng
như pháp, lập niệm tại pháp, có tri, có kiến, có minh, có
đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán pháp như pháp, nghĩa là
quán năm triền cái.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán pháp như pháp; Tỳ-kheo
bên trong thật có niệm giác chi thì biết đúng như thật là có
niệm giác chi; bên trong thật không có niệm giác chi thì
biết đúng như thật là không có niệm giác chi. Niệm giác chi
chưa sanh nay sanh, biết đúng như thật. Niệm giác chi đã
sanh thì ghi nhớ không quên, không suy thoái, tu tập càng
lúc càng tăng trưởng, biết đúng như thật. Với trạch pháp,
tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả cũng giống như vậy. Bên
trong thật có xả giác chi thì biết đúng như thật là đang có
xả giác chi, bên trong thật không có xả giác chi thì biết
đúng như thật là không có xả giác chi. Xả giác chi chưa sanh
nay sanh, biết đúng như thật, xả giác chi đã sanh thì ghi
nhớ không quên, không suy thoái, tu tập càng lúc càng tăng
trưởng, biết đúng như thật. Tỳ-kheo như vậy quán nội pháp
đúng như pháp, quán ngoại pháp đúng như pháp, lập niệm tại
pháp, có tri, có kiến, có minh, có đạt như vậy gọi là
Tỳ-kheo quán pháp như pháp, nghĩa là quán Bảy giác chi.
“Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni từng chi tiết quán
pháp như pháp như vậy, đó gọi là niệm xứ quán pháp như pháp.
“Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nào trụ Bốn niệm xứ
thì trong vòng bảy năm, nhất định sẽ chứng được một trong
hai quả: hoặc chứng Cứu cánh trí ngay trong hiện tại, hoặc
chứng A-na-hàm nếu còn hữu dư.
“Không cần phải đến bảy, sáu, năm, bốn, ba,
hai hay một năm, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nào lập tâm chánh
trú nơi Bốn niệm xứ thì trong vòng bảy tháng cũng sẽ nhất
định chứng được một trong hai quả: hoặc chứng Cứu cánh trí
ngay trong hiện tại, hoặc chứng A-na-hàm nếu còn hữu dư.
“Không cần phải đến bảy, sáu, năm, bốn, ba,
hai hay một tháng, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nào lập tâm chánh
trú nơi Bốn niệm xứ thì trong vòng bảy ngày bảy đêm cũng sẽ
nhất định chứng được một trong hai quả: hoặc chứng Cứu cánh
trí ngay trong hiện tại, hoặc chứng A-na-hàm nếu còn hữu dư.
“Không cần phải đến bảy ngày đêm, sáu, năm,
bốn, ba, hay hai ngày hai đêm, mà chỉ cần trong một ngày một
đêm, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nào luôn luôn trong từng khoảnh
khắc lập tâm chánh trú nơi Bốn niệm xứ thì nếu buổi sáng
thực hành như vậy, nhất định buổi tối liền được thăng tấn.
Nếu buổi tối thực hành như vậy, nhất định sáng hôm sau sẽ
được thăng tấn”.
Phật thuyết giảng như thế, các Tỳ-kheo ấy sau
khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
M.10. Satiptthānasutta. Tham chiếu, D. 22.
Mahāsatipatthāna-suttanta. Hán, biệt dịch No.125
-
[02] Nhất đạo;
No.125 (12.1): Nhất nhập đạo. Pāli: ekāyano maggo, con đường
độc đạo.
-
[03] Giác.
-
[04] Quán thân như
thân. Pāli: kāye kāyanupassī.
-
[05] Thiện thọ quán
tướng.